MỤC LỤC
DẪN NHẬP
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ
1.1 Giới thuyết các khái niệm.19
1.1.1 Khái niệm văn hóa.19
1.1.2 Khái niệm văn hóa dân gian .21
1.1.3 Các thành tố văn hóa dân gian.22
1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết .26
1.2.1 Lí luận về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .26
1.2.2 Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với một số tác giả văn học viết27
1.2.2.1. Đối với một số tác giả trên thế giới.27
1.2.2.2. Đối với một số tác giả ở Việt Nam .29
1.3. Đôi nét về phong trào Thơ mới và vị trí của ba nhà thơ trong phong trào
Thơ mới .38
1.3.1 Đôi nét về phong trào Thơ mới .38
1.3.2 Vị trí của ba nhà thơ trong phong trào Thơ mới.42
1.4 Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ - cuộc đời và sự nghiệp .43
1.4.1 Nguyễn Bính.43
1.4.2 Anh Thơ.45
229 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 53 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào thơ mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt thực là do mặt trăng vận hành đến phần bóng của trái đất mà hình thành.
Sự chuyển động vòng quanh trái đất của mặt trăng luôn kèm theo dao động đã tác động
đến nguồn khí âm, khiến lực hút cũng phải dao động theo nhịp điệu của mặt trăng. Chính
nguồn khí âm luôn biến động ấy đã gây nên những kích thích địa chấn, gây biến đổi thời
tiết. Là cư dân nông nghiệp thì rất sợ nguyệt thực toàn phần vì đó là điềm của hạn hán,
mất mùa và đói khổ.
Hay câu:
Gà mái đưa tin gở: gáy quàng
Theo quan niệm dân gian của người Việt bao đời thì những hiện tượng bất thường
như chim sa, cá nhảy, chó tru, gà trống đẻ trứng, gà mái biết gáyđều là những điềm báo
xấu. Nhiều người tin rằng “gà mái gáy” là biểu hiện của việc khí dương lẫn vào âm, bị
loạn khí, xung quanh có điều bị rối loạn, hoặc địa hình phong thủy ở đó bị phá hoặc bị
biến đổi làm cho âm dương lẫn lộn vào nhau. Có nơi cho rằng gà mái gáy thì trong nhà
sắp có người ốm đau, bệnh tật. Tuy nhiên có thể giải thích hiện tượng này bằng giả thiết
gà mái biến thành gà trống sau khi buồng trứng của gà bị bệnh, không thể sản ra kích tố
giới tính cái để ức chế túi tinh phát dục. Kết quả là túi tinh vốn bị thoái hóa lại có điều
kiện phát triển và tiết ra kích tố đực, khiến cho gà mái mọc lông như gà trống, rồi cất
tiếng gáy và thế là gà mái biến thành gà trống.
Ngoài ra còn có những điềm báo khác:
Quạ kêu: người chết, hồn sa đất
Quẹt réo: đưa tin khách đến nhà
94
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
Thức ăn của quạ là xác động vật. Khi thấy thức ăn chúng thường kêu để báo cho
cả đàn biết. Dân gian ta cho rằng, khi con người sắp chết, sẽ giải phóng một thứ mùi đặc
trưng và quạ với thính giác nhạy bén, đã phát hiện ra và báo hiệu cho cả đàn biết. Vì vậy,
dân gian ta tin rằng khi có tiếng quạ kêu thì sẽ có điềm gở xảy ra trong gia đình. Bên
cạnh đó, ông bà ta tin rằng chim khách (hay còn gọi là chim quẹt) kêu là báo trước nhà sẽ
có khách đến thăm. Như vậy, đứng trước bất kì hiện tượng nào đó của thiên nhiên, thậm
chí là những hiện tượng rất bình thường trong cuộc sống thì dân gian đều cho rằng đó là
điều ứng báo. Có những điềm ứng khoa học nhưng cũng có những lí giải đậm màu sắc
mê tín dị đoan.
Thông qua kho tàng tri thức đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, cha ông ta đã gửi
gắm tình cảm gắn bó, hòa mình với thiên nhiên, đồng thời ấp ủ khát vọng chinh phục, cải
tạo thiên nhiên, đó là những cách nghĩ, nếp sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân
nông nghiệp. Người Việt xưa luôn có ý thức về việc đúc rút, gìn giữ, lưu truyền những
kinh nghiệm quí báu cho các thế hệ nối tiếp. Các tri thức ấy đi vào thơ của Nguyễn Bính,
Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ không hề khiên cưỡng, trái lại rất tự nhiên và góp phần khẳng
định hướng đi riêng của mỗi nhà thơ khi cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa dân gian.
Việc sử dụng yếu tố văn hóa dân gian vào trong thơ không chỉ mang đến nét riêng
trong phong cách cho người nghệ sĩ mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa. Đồng thời, đối với thế hệ trẻ ngày nay việc tiếp cận những tác phẩm
mang yếu tố dân gian sẽ giúp các em thêm yêu quí, trân trọng và tự hào hơn về nguồn cội
dân tộc.
2.6. Ngữ văn dân gian
Một bộ phận có vai trò quan trọng trong văn hóa dân gian chính là ngữ văn dân
gian (hay còn gọi là văn học dân gian). Trong văn học dân tộc, văn học dân gian là bộ
phận ra đời sớm. Nó không chỉ là một bộ phận của văn chương mà còn chính là đời sống,
là quan niệm, là kinh nghiệm, là tiếng lòng muôn điệu của dân gian. Vì vậy, vai trò và giá
95
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
trị của văn học dân gian thật to lớn và toàn diện, không chỉ với văn học thành văn mà còn
với nhiều ngành khoa học và văn hóa khác nữa.
Văn học dân gian gồm có: Tự sự dân gian – bao gồm các thể loại mô tả và đúc rút
kinh nghiệm toàn bộ các sự kiện diễn ra trong thế giới khách quan (Thần thoại, sử thi,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, câu đố,
vè), trữ tình dân gian – bao gồm các thể loại diễn tả, bộc lộ thế giới nội tâm của con
người, thể hiện toàn bộ tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của con người trước thế giới khách
quan (Ca dao, dân ca, trong đó có bài ca nghi lễ, bài ca lao động, bài ca sinh hoạt gia
đình, bài ca sinh hoạt cộng đồng, bài ca giao duyên, đồng dao) và sân khấu dân gian
(chèo, tuồng). Văn học dân gian ra đời sớm hơn văn học viết, đó chính là bộ phận mở
đường, đặt nền móng cho văn học viết hình thành và phát triển. Các nhà thơ nhà văn vĩ
đại luôn tìm đến văn học dân gian như mạch nguồn vô tận cho sáng tác của mình. Những
hình tượng Thánh Gióng, cô Tấm, Thạch Sanh, Trương Chiđã trở thành những nhân
vật trở đi trở lại trong tác phẩm văn học của đời sau. Không chỉ vậy, văn học dân gian
còn có mối liên hệ chặt chẽ với mọi phương diện khác nhau của sinh hoạt đời sống xã
hội. Nó gắn bó với tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục tập quán, sinh hoạt lớn nhỏ trong cộng
đồng. Vai trò và ảnh hưởng của văn học dân gian với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
rất lớn lao và sâu sắc.
Yếu tố ngữ văn dân gian xuất hiện trong thơ của ba nhà thơ trên phương diện nội
dung trước hết in dấu trong nhan đề của tác phẩm. Các nhà thơ Nguyễn Bính và Anh Thơ
đã sử dụng yếu tố ngữ văn dân gian để làm nổi bật và khái quát nội dung, tư tưởng của
tác phẩm. Họ lấy tên truyện cổ tích Ngưu Lang Chức Nữ đặt nhan đề: Chức Nữ Ngưu
Lang (Nguyễn Bính), lấy tên nhân vật Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám để làm nhan
đề: Cô Tấm mới (Anh Thơ). Lấy đặc trưng về nội dung của một vài thể loại ngữ văn dân
gian để đặt nhan đề: Truyện cổ tích (Nguyễn Bính), Cây na cổ tích (Anh Thơ), Một
chuyện thần thoại (Anh Thơ). Việc đặt nhan đề tác phẩm dựa theo tên thể loại của ngữ
96
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
văn dân gian sẽ giúp nhà văn khái quát ở mức cao về nội dung của văn bản đồng thời
định hướng tư tưởng của người đọc theo đặc trưng nội dung của thể loại đó.
Không chỉ vậy, soi chiếu vào sáng tác của Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ,
ta thấy các nhà thơ đã vận dẫn linh hoạt các câu tục ngữ, các câu chuyện cổ tích, các câu
ca dao, vở chèo vào thơ một các đa dạng, phong phú để thể hiện nội dung của tác phẩm,
bộc lộ sâu sắc tiếng lòng, đồng thời cho thấy sự ảnh hưởng khá rõ nét của yếu tố ngữ văn
dân gian vào nội dung thơ của họ.
Với Đoàn Văn Cừ như đã phân tích phía trên, ta bắt gặp trong thơ ông các câu tục
ngữ dự báo thời tiết, các điềm báo lành dữ trong cuộc sống. Ông gợi cho người đọc nhớ
đến 4 câu tục ngữ trong lĩnh vực thời tiết. Người viết xin điểm qua sơ lược các câu tục
ngữ xuất hiện trong thơ ông. Đọc câu thơ “Cua bò đường cái: lụt mênh mang” ta liên
tưởng đến câu tục ngữ: “Cua bò lên cao thế nào cũng lụt”. Đọc câu thơ: “Trăng quầng:
đại hạn, ruộng đồng khô”, gợi ta về kinh nghiệm dân gian: “Trăng quầng thì hạn, trăng
tán thì mưa”. Như vậy, việc lấy từ ý các câu tục ngữ ngắn gọn giúp ông thể hiện được rõ
nét kho tàng tri thức dân gian, lời thơ cũng trở nên gần gũi, mộc mạc.
Với Anh Thơ, nữ sĩ đưa câu chuyện cổ tích Tấm Cám vào thơ của mình. Hình ảnh
cô Tấm ngày xưa và ngày nay hiện ra trong sự đối sánh. Nếu như cô Tấm ngày xưa hiền
lành, khéo léo:
“Cô Tấm ngày xưa
Bóng thầm soi giếng
Con bống nép bờ trưa
Chờ nắm cơm giấu giếm”
(Cô Tấm mới – Anh Thơ)
Thì hình ảnh cô Tấm ngày nay vẫn giữ được tính cách đảm đang, hay lam hay làm
ấy của cô Tấm ngày xưa trong truyện cổ tích:
97
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
“Cô Tấm ngày nay
Nuôi trăm đàn cá
Mỗi chiều gánh gánh đầy
Nắng tươi bừng đỏ má”
(Cô Tấm mới – Anh Thơ)
Ở đây Anh Thơ đã rất linh hoạt trong việc vận dụng câu chuyện cổ tích xưa của
ông cha ta để đồng thời dựng lại chân dung cô Tấm ngày xưa và khắc họa những nét đẹp
của những “cô Tấm” ngày nay. Các công việc trong cuộc sống ngày nay rất cần những
bàn tay khéo léo, đảm đang của những người con gái như nàng Tấm. Vì thế, dù là cô Tấm
xưa hay cô Tấm nay thì vẫn nổi bật lên trong thơ Anh Thơ là vẻ đẹp đặc trưng của người
phụ nữ Việt Nam: rất bình dị và trong sáng. Vẻ đẹp xuất hiện trong cuộc sống dân dã,
gắn bó những tâm hồn thuần hậu chất phác trong dáng vẻ quê mùa, trong những công
việc quen thuộc. Vẻ đẹp ấy thấm đượm tinh thần nhân văn của người lao động. Hình ảnh
nàng Tấm cứ thế sóng sáng trong trang thơ và trong trang đời.
Nguyễn Bính mang vào thơ của mình câu chuyện cổ tích dân gian Ngưu Lang
Chức Nữ, lấy cảm hứng từ mối tình bị chia cách của hai nhân vật chính, nhà thơ đã liên
tưởng đến hoàn cảnh đau đớn trong chia xa của mình tựa mối tình ấy.
“Sông Ngân nước chảy hững hờ
Ngưu Lang ngồi khóc bên bờ sông Ngân
Một năm gặp được mấy lần
Anh khổ vô ngần Chức Nữ em ơi
Đôi ta chẳng hợp lòng trời
Một dòng nước bạc ngăn đôi chung tình”
(Chức Nữ Ngưu Lang, Nguyễn Bính)
Câu chuyện cổ tích năm xưa đã đi vào thơ Nguyễn Bính hết sức tự nhiên, đằm
thắm, nhờ đó diễn tả sâu sắc nỗi đau bị chia cách trong tình yêu của đôi lứa yêu nhau.
98
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
Chức Nữ và Ngưu Lang một năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày bảy tháng bảy âm
lịch, tựa như đôi trai gái trong bài thơ: “Đôi ta có tội gì đâu/ Cớ sao chim chẳng bắc cầu
cho qua?/ Có chăng tội với trời già/ Chẳng qua là tội đôi ta chung tình” (Chức Nữ Ngưu
Lang). Cái hay của Nguyễn Bính là việc ông vận dẫn câu chuyện cổ tích vào rất mượt
mà, không hề khiên cưỡng với tác dụng lột tả bi kịch tình yêu của cái tôi trữ tình. Chính
nhờ câu chuyện cổ tích này mà câu chuyện tình của tác giả được hiểu sâu sắc và chân thật
hơn.
Khi tiếp nhận văn học dân gian, các nhà thơ không trích dẫn nguyên vẹn một bài
ca dao, tục ngữ, một câu chuyện cổ tích nào mà chỉ viện dẫn, gợi mở ra một vài từ ngữ và
hình ảnh tiêu biểu. Nhưng như thế cũng đủ để nhà thơ phác họa nên bức tranh giản dị,
gần gũi đời thường khơi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày văn hóa dân tộc
đáng tự hào. Việc sử dụng yếu tố văn học dân gian trong thơ đã được không ít nhà thơ
vận dụng nhưng đến lượt mình, ba nhà thơ vẫn phát hiện ra những nét độc đáo nhằm
mang đến những giá trị thẩm mĩ lớn lao, tạo nên sự đồng cảm, hứng thú tiếp nhận nơi độc
giả. Mỗi vần thơ đều gợi nhắc ta về kho tàng tri thức phong phú của ông cha, về những
câu chuyện cổ tích, thần thoại, các câu tục ngữ thắm đượm tình người rất đỗi quen thuộc.
Thông qua đó, các nhà thơ gửi gắm nỗi niềm yêu quí, tự hào về kho văn hóa dân gian
mang ý nghĩa đẹp của quê hương xứ sở gợi nhiều cảm hứng, có tác dụng giáo dục mạnh
mẽ đối với thế hệ mai sau.
Tiểu kết chương 2:
Người viết đã tìm hiểu và phân tích các yếu tố văn hóa dân gian trong thơ Nguyễn
Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ trên phương diện nội dung ở 6 thành tố: Tín ngưỡng dân
gian, phong tục tập quán dân gian, lễ hội dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian
và ngữ văn dân gian. Có thể thấy rằng trong thơ của ba nhà thơ xuất hiện khá dày những
yếu tố văn hóa dân gian, khi tiếp cận với thơ họ chính điều này đã tạo điều kiện để ta
cùng cảm, cùng nghĩ, cùng tư duy về cuộc sống, về con người, về mọi hiện tượng trong
đời sống cùng ông cha ta. Cùng tiếp thu mạch nguồn văn hóa dân gian nhưng mỗi nhà
99
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
thơ tùy theo mục đích sáng tác lại có một vùng đất canh tác riêng, mỗi người có sự lựa
chọn yếu tố dân gian khác nhau đưa vào tác phẩm của mình. Nhưng tựu chung lại, văn
hóa dân gian vẫn có một vai trò quan trọng trong tác phẩm của họ, góp phần thể hiện
phong cách thơ của mỗi nhà thơ, giúp thơ họ trở nên gần gũi hơn. Trở về với văn hóa dân
gian cũng đồng thời là góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giúp ta thêm trách
nhiệm trước việc bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của đất nước.
100
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
CHƯƠNG 3:
VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH, ANH THƠ, ĐOÀN VĂN CỪ
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Trong ca dao truyền thống, nhân vật trữ tình có một số kiểu nhất định. Đó là: cô
gái và chàng trai trong quan hệ bè bạn, lứa đôi; người vợ, người chồng, người mẹ, người
con...trong đời sống gia đình; người lính và người vợ lính trong cảnh ngộ li biệt và xa
cách; người lao động nói chung (người làm ruộng, người làm thợ, người dân chài...) trong
lao động, sinh hoạt và quan hệ với xóm làng, quê hương, đất nước...Đối chiếu vào thơ
của Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ; có thể thấy trong sáng tác của họ đều hiện
diện những “nhân vật ca dao”. Các nhân vật dù có tên hay không có tên, dù chỉ là cô lái
đò, cô hái mơhoặc một lối xưng danh chung chung như: anh, em, tôithì họ vẫn là
những con người cụ thể với diện mạo, hình dáng của con người chân quê: nón quai thao,
quần lĩnh tía, áo tứ thânxuất hiện nơi phong cảnh thiên nhiên gần gũi của làng quê thân
thuộc: mảnh vườn, thửa ruộng, giếng thơi, đường làng, cây đa, bến nướcđây cũng là
bối cảnh xuất hiện các nhân vật ca dao.
Trước hết là những nhân vật cô gái, chàng trai. Họ đều là những người sinh ra và
lớn lên nơi lũy tre làng, bên mảnh vườn thửa ruộng. Ở trong lễ hội nào của làng, họ cũng
đều là lực lượng tham gia rất hào hứng, nổi trội về trang phục lẫn tính cách. Họ là con
người của những cuộc vui, từ dáng điệu đến gương mặt, ánh mắt, nụ cười đều gắn với
không khí náo nức, tưng bừng của lễ hội. Họ xuất hiện trong chiếc nón quai thao, trong
quần lĩnh tía, áo tứ thân, yếm đào mộc mạc, duyên dáng:
“Ngoài đình sáng tiếng cười chen tiếng nói
Gái trai làng ra họp hát trống quân”
(Rằm tháng tám, Anh Thơ)
101
Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
(Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ)
“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa”
(Xuân về, Nguyễn Bính)
Những trang phục, y phục ấy (yếm đỏ, khăn thâm) là trang phục, y phục đẹp, tiêu
biểu của các cô gái nông thôn trong đời sống hàng ngày cũng như trong ca dao đồng bằng
Bắc Bộ. Những bộ trang phục ấy trở thành những tiêu chuẩn để thương, để yêu. Họ
không chỉ là những người trẻ trung, xinh xắn mà còn là những người rất hào hứng, phấn
khởi với các lễ hội, là lực lượng tham gia rất đông đủ và nhiệt tình vì ở đó họ được thỏa
sức chơi đùa, được gặp gỡ và hò hẹn.
Nhân vật trữ tình trong thơ họ là nhân vật của ca dao, dân ca cổ truyền. Trong thơ
Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, các cô gái của đồng quê hiện lên thật nhẹ nhàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_yeu_to_van_hoa_dan_gian_trong_sang_tac_cua_mot_so_nha.pdf