Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

MỤC LỤC

 

A. Mở đầu. 1

B. Nội dung. 1

I. Vấn đề chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự. 1

1.1. Khái niệm người bào chữa. 1

1.2. Phân loại người bào chữa 2

II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người bào chữa. 4

2.1. Những quy định của luật TTHS về quyền của người bào chữa. 4

2.2. Những quy định của luật TTHS về nghĩa vụ của người bào chữa. 8

III. Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự. 10

3.1. Thực trạng. 10

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự. 13

C. Kết luận. 15

 

 

 

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4364 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một bản án có căn cứ và đúng pháp luật” Xem M.Chen – Txôp M.A, Luật sư trong tố tụng hình sự Xô Viết . Với cách hiểu trên là không chính xác, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng chỉ là người góp phần hoạt động của mình và hoạt động chung, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những người tiến hành tố tụng. Họ tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong TTHS xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diễn hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về người bào chữa, nhưng căn cứ theo cách hiểu và một số định nghĩa được các học giả nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực này đưa ra, chúng ta có thể tựu chung lại “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho đương sự đó đang bị lên án.” Từ điển luật học Phân loại người bào chữa Hệ thống quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể, quyền và nghĩa vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong TTHS. Theo đó tại Khoản 1 - Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có thể là: luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. - Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp Giáo trình Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2006, tr.136 . Theo quy định của Luật luật sư 2006 thì luật sư phải đáp ứng được các yêu cầu “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm” Xem Điều 10 – Luật Luật sư 2006 , khi muốn hành nghề luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư” Xem Điều 11 – Luật luật sư 2006. Luật sư có thể tham gia TTHS với tư cách người bào chữa theo hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. - Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định rõ khái niệm “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005, chúng ta có thể hiểu Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, 2006, tr.136. - Bào chữa viên nhân dân: theo quy định tại Khoản 3 – Điều 57 – Bộ luậtt TTHS năm 2003, ta có thể hiểu bào chữa viên nhân dân là người được Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình. Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời, với chất lượng hành nghề của phần đông Bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp nên trong thực tiễn đây là loại chủ thể rất ít khi tham gia bào chữa trong TTHS. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người bào chữa. Những quy định của luật TTHS về quyền của người bào chữa. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một cách khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong quá trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được: a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Việc người bào chữa được có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lí hơn, hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hoặc thiếu hiểu biết, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ khai không đúng thực tế vụ án, đồng thời sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động lấy lời khai sẽ khiến những người tiến hành các hoạt động tố tụng thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu được sự đồng ý của điều tra viên để làm sáng tỏ những tình tiết bất lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật, tuy nhiên quy định như vậy đôi khi cũng dẫn đến tình trạng người bào chữa không được thực hiện quyền này vì quyết định cho phép hỏi hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chỉ của điều tra viên. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; Địa điểm và thời gian hỏi cung thuộc quyền hạn, trách nhiêm của cơ quan điều tra, chính vì vậy, quy định trên nhằm đảm bảo sự chủ động cần thiết cho người bào chữa trong việc có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Nhằm bảo đảm sự khách quan của quá trình giải quyết vụ án, Điều 42 – Bộ luật TTHS 2003 có quy định về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng. Người bào chữa là một trong những chủ thể có quyền thay đổi người tiến hành tố tụng theo quy đinh tại Khoản 3 – Điều 43 – Bộ luật TTHS 2003. Người bào chữa có quyền thay đổi người tiến hành tố tụng nếu xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu từ phía cơ quan điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra có thể sẽ không nắm bắt được tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc sẽ có cái nhìn về vụ án theo hướng kết luận của cơ quan điều tra. Chính vì vậy, pháp luật cho phép người bào chữa được tự mình đi thu thập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của người bào chữa, ví dụ như quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết mới hoặc bị can, bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng, vật chứng (tài liệu, đồ vật) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo. đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Những tài liệu, đồ vật mà người bào chữa đưa ra thường theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hoặc như có thể đưa ra những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau như yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám định trước đó không đúng sự thật, yêu cầu hoãn phiên tòa... Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; Người bào chữa sẽ thu thập những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình trao đổi tiếp xúc với họ, để nắmbắt được đầy đủ các tình tiết của vụ án, diễn biến tâm lý, đặc điểm nhân thân cũng như tâm tư, nguyện vọng của họ. Trong quá trình gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa có thể tác động đến những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, làm cho họ khai báo chính xác hơn, tốt hơn để gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho họ. g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Thông qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời, có thể phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu đối với có quan có thẩm quyền. h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Điều 19 – Bộ luật TTHS 2003 có quy định cụ thể về quyền tranh luận dân chủ trước Tòa án của người bào chữa. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được có những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận người bào chữa phải phần tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa, người bào chữa còn có quyền xem xét vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án. Khoản 4 Điều 209 BLTTHS năm 2003 i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền này đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện. Khi tham gia tố tụng, nếu phát hiện thấy quyết định hoặc hành vi của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những điểm gây bất lợi, vi phạm pháp luật thì người bào chữa có quyền khiến nại những quyết định và hành vi tố tụng đó. Về thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết các khiếu nại tại các điều 329, 330, 331, 332 của BLTTHS năm 2003, theo đó thì: Thời hạn giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền cùng cấp là không quá 7 ngày, cơ quan có thẩm quyền cấp trên trực tiếp là không quá 15 ngày. Đối với khiếu nại kiểu này thì về nguyên tắc phải xem xét giải quyết ngay. Trong trường hợp phải có thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá 3 ngày. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết và tiếp tục khiếu nại thì thời hạn giải quyết lần cuối cùng là không quá 7 ngày. k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.” Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. Bởi lẽ, xét đến cùng, vai trò của người bào chữa là bảo vệ lợi ích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nên việc kháng cáo bản án gây bất lợi cho họ là đi ngược lại với nhiệm vụ của người bào chữa. Những quy định của luật TTHS về nghĩa vụ của người bào chữa. Bộ luật TTHS 2003 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa tại Khoản 3 – Điều 58 bộ luật này. Theo đó, người bào chữa có những nghĩa vụ sau : a, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sang tỏ những tình tiết các định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa có trách nhiệm phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Quy định này nhằm hạn chế việc người bào chữa không có trách nhiệm với việc bào chữa của mình. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Người bào chữa có nghĩa vụ phải đưa ra cả những đồ vật, tài liệu liên quan không có lợi cho bị can, bị cáo. Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong TTHS. b, Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người bào chữa đương nhiên có nghĩa vụ phải trợ giúp cho người được bào chữa về vấn đề pháp luật và sự trợ giúp này là cần thiết bởi điều kiện hoàn cảnh cũng như yếu tố tâm lý khiến người được bào chữa khó có thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hiệu quả nhất. c, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lí do chính đáng. d, Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Nhiệm vụ của người bào chữa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, giúp họ chứng minh vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Điều này không có nghĩa là người bào chữa có quyền làm sai lệch sự thật đề bằng mọi cách đạt được mục đích của mình. Người bào chữa phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan, làm sai lệch sự thật của vụ án là đi ngược lại với đạo đức nghề luật, làm trái với đạo đức xã hội. đ, Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án sẽ đảm bảo cho người bào chữa theo dõi sát vụ án. Việc người bào chữa không có mặt tại phiên tòa sẽ là một bất lợi lớn cho người được bào chữa. Qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có thể người bào chữa sẽ thu thập thêm được nhiều tình tiết mới có lợi cho người được bào chữa. Quy định này vừa được xem là quyền, vừa là nghĩa vụ của người bào chữa.Với nghĩa vụ này, sẽ ràng buộc người bào chữa có trách nhiệm hơn với việc bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ mình. e, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sợ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Quy định này nhằm bảo đảm bí mật quốc gia và lợi ích chung của xã hội, cùng với đó, là đạo đức nghề nghiệp của người bào chữa. Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Thực trạng. Từ khi Bộ luật TTHS 2003 có hiệu lực áp dụng trong, những quy định mới của bộ luật về NBC đã ít nhiều có hiệu quả trên thực tế. Người bào chữa đã có cơ sở pháp lí để thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình một cách hợp pháp. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần khắc phục. Thực tế về tỉ lệ NBC tham gia TTHS ở VN hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay, sự tham gia TTHS của người đại diện hợp pháp là rất ít và đặc biệt rất hiếm đối với bào chữa viên nhân dân, chủ yếu là luật sư.. Mặc dù vậy, tỷ lệ luật sư tham gia TTHS với tư cách người bào chữa cũng còn rất hạn chế so với số dân. Theo đánh giá của Bộ Tư pháp thì hiện này ở nước ta chri có khoảng 20% vụ án hình sự có sự tham gia của luật sư bào chữa, trung bình 1 luật sư/16.000 dân Xem Thực trạng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự và việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toàn theo tinh thần cải cách tư pháp – Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2008 , và đội ngũ luật sư cũng không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố; giữa đồng bằng và miền núi; chất lượng luật sư còn yếu kém, chưa được đào tạo một cách bài bản; người dân chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của người bào chữa trong việc bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình… b. Thực trạng việc thực hiện những quy định về thủ tục tham gia của luật sư vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nhiều nơi cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng luật máy móc, cố tình “làm khó” người bào chữa trong việc thực hiện thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận bào chữa, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ không hợp lý làm cho họ rơi vào vòng luẩn quẩn trong việc xin giấy chứng nhận bào chữa, mất thời gian cũng như công sức ảnh hưởng đến công việc bào chữa của họ. Liệu cơ quan tiến hành tố tụng có sử dụng việc cấp giấy chứng nhận bào chữa như một công cụ nhằm hạn chế luật sư tham gia tố tụng khi mà trên thực tế người bào chữa không bao giờ nhận được giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn, cá biệt có trường hợp kéo dài đến một năm. Ví dụ : Trong vụ án tiêu cực việc phân bổ dệt may ở Bộ Thương mại, tròn một năm sau khi làm thủ tục đăng ký với CQĐT, luật sư của bị can Mai Văn Dâu (nguyên thứ trưởng Bộ Thương mại) mới được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Lúc này, vụ án đã xong giai đoạn điều tra và chuyển hồ sơ sang VKS để ra cáo trạng truy tố. Không những thế sau nhiều thời gian chờ để có được giấy chứng nhận bào chữa, khi tới VKS đề nghị được tiếp cận hồ sơ, luật sư Nguyễn Hoàng Hải đã bị từ chối với lý do “kiểm sát viên đang đọc”... www.vietbao.vn c. Thực tiễn thực hiện quy định về quyền, nghĩa vụ của NBC khi tham gia TTHS Trên thực tế cơ quan điều tra thường không báo cho người bào chữa thời gian và địa điểm hỏi cung mặc dù theo quy định của luật người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt. Hoặc có cách “lách luật” khác là đợi đến sát giờ hỏi cung mới thông báo cho người bào chữa khiến họ không thể đến kịp để tham gia hỏi cung. Ví dụ: Theo luật sư Đào Ngọc Lý (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết có lần ông đi cùng một điều tra viên vào trại tạm giam để làm thủ tục “có mặt trong buổi lấy lời khai thân chủ của mình”. Tuy nhiên điều tra viên hẹn 8 giờ sáng hôm sau có mặt tại cửa phòng làm việc. Đúng 7 giờ 30 ông đã tới nhưng loanh quanh tìm khắp nơi vẫn không thấy điều tra viên này ở đâu. Thấy đã đến giờ lấy lời khai, ông làm liều đi vào trại. Đến nơi mới ngẩn người bởi điều tra viên đó đã lấy lời khai bị can trước đó rồi. Luật sư Lý nhận định đây là cách “vô hiệu hóa” luật sư của cán bộ điều tra. www.vietbao.vn + Việc người bào chữa thực hiên quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam trên thực tế là rất khó khăn. Nhiều trường hợp cảnh sát dẫn giải không cho luật sư tiếp xúc với bị can, bị cáo hay đòi phải có yêu cầu của Tòa án mới cho luật sư vào làm việc với bị cáo trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. + Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp hồ sơ vụ án có liên quan…tuy nhiên ở nhiều địa phương, để thực hiện được quyền này còn phải phụ thuộc vào thái độ đồng ý của kiểm sát viên. + Trên thực tế, việc xét hỏi ở phiên tòa hầu hết chỉ có Thẩm phán, Hội thẩm, VKS được đặt câu hỏi. Phần hỏi của người bào chữa thường bị chủ tọa cắt ngang với lý do “ nội dung này đã nói rồi”. Ví dụ, trong phiên tòa xử Bùi Tiến Dũng ngày 03/8/2007, chủ toạ phiên toà hạn chế mỗi người bào chữa chỉ được nói trong 10 phút. Luật sư Phạm Hồng Hải đứng dậy phản đối ý kiến trên của chủ tọa phiên tòa. www.dantri.com.vn d. Về phía người bào chữa. + Trong thực tiễn tham gia tranh tụng, tồn tại tình trạng người bào chữa tham gia tranh tụng còn lúng túng khi bào chữa. Có nhiều trường hợp luật sư và thân chủ do không hiểu nhau nên mâu thuẫn trong phần bào chữa, thậm chí có trường hợp bị cáo khẳng định là mình không phạm tôi nhưng luật sư bào chữa lại đi cố chứng minh thân chủ mình phạm một tội khác nhẹ hơn. + Trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều luật sư cọi trọng lợi ích vật chất mà không thực hiện đúng nghĩa vụ luật định như cố tình làm sai lệch vụ án hay chạy án. Trong 3 năm (2005-2007), đã có 53 luật sư, người tập sự hành nghề luật sư bị xử lý kỷ luật trong đó có 30 trường hợp bị xóa tên khỏi danh sách luật sư. Những điều này làm cho uy tín người bào chữa bị suy giảm, vì vậy cần có chế tài xử lý nghiêm đối với người bào chữa vi phạm. Đơn cử như vụ “chạy án hai mang” của Luật sư Lê Quốc Bảo, người bị bắt quả tang nhận số tiền 2 tỷ và 30.000USD hôm 16/6/2005. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Về việc quy định bào chữa viên nhân dân. Luật tố tụng hình sự có quy định về việc Bào chữa viên nhân dân có thể tham TTHS với tư cách là người bào chữ. Trên thực tế, một số trường hợp bào chữa viên nhân dân đã có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận, nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề của họ không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự...Thực tiễn xét xử những người này tham gia tố tụng rất hạn chế, hãn hữu mới có người được Tòa chấp nhận tham gia. Một ví dụ thực tế ở tỉnh Quảng Ninh: TAND tỉnh Quảng Ninh đã phải hoãn xử vụ tiêu cực đất đai tại thành phố Móng Cái vì không chấp nhận ông Nguyễn Thanh Văn (nhận bảo vệ cho hai bị cáo) tham gia tố tụng với tư cách bào chữa viên nhân dân. Lý giải việc từ chối ông Văn, Phó Chánh án TAND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Hồng Nam cho biết: “Theo luật, bào chữa viên nhân dân muốn được tham gia bào chữa trong một vụ án hình sự phải có giấy giới thiệu của Mặt trân Tổ quốc hoặc có giấy giới thiệu là người của các tổ chức mà có đối tượng vi phạm pháp luật tham gia. Trong trường hợp này, ông Văn đã không xuất trình được các loại giấy giới thiệu trên.” Chuyên mục Tòa án tại trang web của Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh trích nguồn luathinhsu.wordpress.com Do đó nên chăng cần xem xét lại và bỏ chế định bào chữa viên nhân dân là người bào chữa trong BLTTHS. Các nhà lập pháp cần tập trung quy định có hiệu lực về hoạt động bào chữa trong TTHS vào chủ thể tư pháp duy nhất có đủ phẩm chất, kỹ năng và đạo đức hành nghề là luật sư. Điều đó cũng phù hợp với xu thế phát triển khách quan của nghề luật sư và chủ trương cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. b, Về quy định thủ tục và thời hạn cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Trong thực tế, việc người bào chữa tham gia tố tụng để gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gặp rất nhiều hạn chế và khó khăn ngoài lý do cơ quan tiến hành tốtụng không tạo điều kiện cho luật sư được chủ động gặp gỡ đương sự mà còn có hạn chế về qui định pháp luật về tạm giữ và tạm giam hiện nay về thủ tục và thời gian để cấp Giấy chứng nhận người bào chữa (viết tắt là GCNNBC). Theo hướng dẫn của HĐTPTANDTC về việc cấp GCNNBC thì Người bào chữa do nhân thân của đương sự (đang bị tạm giữ, tạm giam) mời thì phải được sự đồng ý của chính đương sự đó và có thể luật sư trực tiếp liên hệ với đương sự hoặc các bộ tòa án hỏi đương sự về có đồng ý người bào chữa hay không nên việc thực thi trên thực tế còn không đồng nhất. Theo ý kiến của Luật sư Vũ Công Dũng nên sửa đổi, bổ sung Điều 57 BLTTHS như sau: “Đề nghị sửa đổi khoản 4 Điều 57 theo quy định Điều 27 Luật Luật sư hoặc có Thông tư liên tịch của TANDTC – VKSNDTC – BTP – BCA – BQP hướng dẫn cụ thể về thủ tục cấp GCNNBC như quy định tại Điều 27 Luật luật sư, sau đó trong quá trình tham gia tố tụng nếu đương sự từ chối luật sư thì CQTHTT thực hiện việc thu hồi GCNNBC theo quy định pháp luật.” Ngoài ra luật cần phải quy định rõ trách nhiệm của những người có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận bào chữa trong việc cố tình thực hiện hành vi cản trở NBC thực hiện các quyền của mình. Có làm được như vậy thì địa vị pháp lý của NBC mới được đảm bảo trên thực tế. c, Quy định về tính hợp pháp khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trên thế giới,ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐịa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa.doc