Dịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn

Đến đây, có thể lại nói về việc tôi “dịch cứng nhắc” được rồi. Suy nghĩ lại thì thấy đây là vấn đề cần phải đặt tiếp theo vấn đề “dịch cứng nhắc”. Văn học vô sản đã xem trọng việc tuyên truyền, tuyên truyền thỉ phải cho đa số có thể hiểu được, thế thì những “thiên thư” về lý luận mà anh “dịch cứng nhắc”, khó hiểu đó, rút cục dịch ra để làm gì? Chẳng phải cũng bằng như không dịch hay sao?

 

Tôi trả lời như sau: Tôi dịch cho tôi, cho mấy người tự xưng là nhà phê bình văn học vô sản, và một số độc giả không tìm cái “thích thú”, không sợ gian khổ, ít nhiều muốn biết những lý luận đó.

 

Từ năm kia lại nay, những lời công kích cá nhân tôi nhiều lắm. Tờ tạp chí nào đại để cũng thấy tên “Lỗ Tấn” mà giọng lưỡi của tác giả, nghe qua, đại để giống như là nhà văn cách mạng. Nhưng tôi xem mấy bài thì lại thấy nói nhảm nhiều quá. Lưỡi dao giải phẫu đưa không trúng vào thớ thịt, chỗ đạn bắn vào cũng không gây thành được vết thương chí mạng. Thí dụ, giai cấp xuất thân của tôi, đến nay vẫn chưa định xong, lúc nói giai cấp tiểu tư sản, lúc nói “buốc gioa”, có khi lại thăng lên là “tàn dư phong kiến” và lại gần giống như vượn đười ươi (xem “Thư Đông Kinh” trên tờ Sáng tạo). Có một hồi, thì chửi đến cả màu sắc bộ răng nữa. Trong xã hội như thế này, rất có thể có tàn dư phong kiến xuất đầu lộ diện, nhưng tàn dư phong kiến là đười ươi thì bất cứ cuốn “duy vật sử quan” nào cũng không nói đến, cũng không tìm ra luận cứ cho rằng màu vàng, tức là có hại cho văn học vô sản. Do đó tôi nghĩ, những bài lý luận có thể tham khảo được như thế này ít quá, nên mọi người mới mơ hồ. Còn như đối với kẻ thù, thì những việc như mổ xẻ, cắn xé, bây giờ không tránh khỏi, có điều có một số cuốn sách giải phẫu học, có một cuốn sách nói về phương pháp nấu nướng, rồi cứ theo phương pháp mà làm, thì có thể tạo ra mùi vị, rút cục là có thể hơi rõ ràng, ngon lành. Người ta thường lấy Prômêtê (Prometheus) [33] trong thần thoại mà ví nhà cách mạng, cho rằng trộm lửa đem về cho loài người, tuy bị Thiên đế hành hạ, vẫn không hối hận, lòng kiên nhẫn to lớn đó cũng tương tự như thế. Nhưng tôi trộm lửa ở nước khác về, bản ý là nấu thịt tôi, cho rằng nếu có thể làm cho mùi vị ngon hơn, thì cơ hồ về phía người cắn xé cũng có lợi phần nào, mà tôi cũng không uổng phí thân tôi: xuất phát điểm hoàn toàn là cá nhân chủ nghĩa, lại còn kèm theo thói xa hoa tiểu thị dân, và cả cái ý muốn “báo thù”, dần dần sờ ra được lưỡi dao mổ xẻ, sẽ quay lại đâm vào tâm tạng người mổ xẻ.

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2005 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ìm vị trí mối liên lạc cú pháp”, cái đó làm cho một số người không “thích thú”, nhưng trải qua việc tìm kiếm và thói quen, nay đã đồng hoá, thành cái đã có từ trước rồi! Văn pháp Trung Quốc, so với cổ văn Nhật Bản, còn không hoàn bị bằng, nhưng cũng từng có những cái thay đổi. Thí dụ Sử ký, Hán thư không giống với Kinh Thư; văn bạch thoại ngày nay lại không giống với Sử ký, Hán thư. Có sáng tạo thêm, như đời Đường dịch Kinh Phật, đời Nguyên dịch Thượng dụ [10] , đương thời có rất nhiều “văn pháp, cú pháp, từ pháp” được sáng tạo ra, dùng quen thì không cần phải đưa ngón tay ra lần mò, cũng có thể hiểu được. Bây giờ lại có “văn ngoại quốc”. Nhiều cách cứng nhắc. Theo kinh nghiệm của tôi, dịch như thế, so với việc chia ra làm nhiều câu, có thể giữ được ngữ khí tinh vi của nguyên văn hơn, nhưng bởi vì phải sáng tạo cái mới cho nên văn Trung Quốc để nguyên như trước có khuyết điểm. Có gì là “lạ”, việc gì mà “ư”? Nhưng phải “đưa ngón tay ra lần mò”, “chịu khó cố gắng”, đối với nhiều người, tất nhiên “không phải là một chuyện thích thú”. Có điều, tôi vốn không định tâm làm cho các vị ấy “khoái chí” hoặc “thích thú”, mà chỉ muốn có một số người đọc có thể thu lượm được ít nhiều. Còn như “bọn” ông Lương Thực Thu, buồn hay vui, hoặc có được gì hay không, quả “đối với tôi” như đám mây nổi [11] Ông Lương Thực Thu vốn không cần học hỏi lý luận văn học vô sản, nhưng có những chỗ ông ta xem không hiểu được. Thí dụ ông ta nói: “Những cuốn sách ông Lỗ Tấn dịch mấy năm trước như cuốn Tượng trưng của khổ muộn của Trù Xuyên Bạch [12] không phải là người ta đọc không hiểu, nhưng gần đây, sách dịch của ông ta tựa hồ đã đổi phong cách đi rồi!”. Người chỉ cần có một tí thường thức là biết ngay rằng “văn Trung Quốc với văn ngoại quốc khác nhau”, nhưng cùng một thứ văn ngoại quốc, vì mỗi nhà văn có một lối viết riêng, nên “phong cách” và “vị trí, mối liên lạc cú pháp” cũng có thể rất khác nhau. Câu hoặc đơn giản, hoặc phức tạp, danh từ hoặc thông thương, hoặc chuyên môn, quyết không phải cùng một thứ văn ngoại quốc thì đều dễ hiểu như nhau. Khi tôi dịch cuốn Tượng trưng của khổ muộn cũng giống như bây giờ, cứ bằng vào nguyên bản, theo từng câu, thậm chí theo từng chữ mà dịch, thế nhưng ông Lương Thực Thu lại cho rằng xem còn có thể hiểu được, đó là vì nguyên văn vốn dễ hiểu, và cũng vì ông Lương Thực Thu là một nhà phê bình mới của Trung Quốc, và cũng vì trong đó cú pháp mà tôi đã sáng tạo cứng nhắc xem quen hơn. nếu là học giả ở trong chốn hang cùng ngõ hẻm, chuyên đọc Cổ văn quan chỉ [13] xem thì dễ thường lại không thấy khó hơn “thiên thư” hay sao? 3. Có nhiều những bản dịch lý luận văn học vô sản “còn khó hơn nhiều thư” lần này lại ảnh hưởng không ít đến ông Lương Thực Thu. Xem không hiểu, cũng có thể có ảnh hưởng, nói thế giống như nói khôi hài, nhưng mà thật. Trong bài “Văn học có tính giai cấp không?”, nhà phê bình ấy nói: “Bây giờ tôi phê bình cái gọi là lý luận văn học vô sản, cũng chỉ có thể căn cứ vào một ít tài liệu tôi có thể hiểu được mà thôi” Như thế tức là nói: do đó mà kiến thức của ông ta về thứ lý luận đó, hết sức không hoàn toàn. Nhưng lỗi đó thì chúng tôi (bao gồm cả dịch giả các cuốn “thiên thư” nữa, cho nên gọi là “chúng tôi”) cũng chỉ có thể chịu trách nhiệm một phần thôi, cònmột phần thì tác giả, vì hồ đồ hoặc lười biếng, phải chịu lấy “Sách của Bocdanôp” [14] và nửa cuốn Văn học và cách mạng của Tơrôtxky thì quả đã có bản dịch tiếng Anh đấy. Nước Anh không có “ông Lỗ Tấn” bản dịch nhất định dễ hiểu lắm. Đối với sự nảy sinh của văn học vô sản vĩ đại, ông Lương Thực Thu từng tỏ vẻ nhẫn nại và can đảm “chờ, chờ, chờ” nhưng lần này, đối với lý luận, sao ông ta lại không chờ một chút, tìm về xem rồi hẵng nói. Không biết có mà không tìm, gọi là hồ đồ, biết có mà không tìm, gọi là lười, nếu như chỉ ngồi im lặng, như thế có lẽ “thích thú” đấy, nhưng mở miệng nói, thì lại rất dễ hớp phải khí lạnh. Thí dụ, ngay cái bài văn cao siêu “Văn học có tính giai cấp không?” kia, kết luận là không có tính giai cấp. Muốn xoá bỏ tính giai cấp, tôi cho dứt khoát nhất là học thuyết “Mã Khắc Tư, Ngưu Khắc Tư gì gì” [15] của Ngô Trĩ Huy và học thuyết “trên thế giới làm gì có cái gọi là giai cấp!” của ông nào đó. Thế là vạn dân vui sướng, thiên hạ thái bình rồi. Nhưng ông Lương Thực Thu lại trúng phải một ít độc “Mã Khắc Tư gì” rồi, nên ông ta thừa nhận trước, hiện nay nhiều nơi là chế độ tư bản, dưới chế độ ấy, có những người vô sản. Có điều “những người vô sản đó vốn không tự giác giai cấp. Chỉ mấy ông lãnh tụ quá giàu lòng thương và có một thái độ quá khích mới đem cái quan niệm giai cấp đó truyền thụ cho họ” [16] , muốn thúc đẩy họ liên hiệp lại, kích thích ý chí đấu tranh của họ. Đúng đấy. Nhưng tôi cho rằng người truyền thụ không phải vì lòng thương mà vì sự tưởng cải tạo thế giới. Huống nữa, cái “vốn không có”, thì không làm sao tự giác được, không làm sao kích thích được. Có thể tự giác, có thể kích thích, đủ thấy cái đó vốn có rồi. Cái vốn có thì không che đậy được mãi, thí dụ Galilê [17] nói quả đất xoay chuyển, Đacuyn [18] nói sinh vật tiến hoá, lúc đầu chẳng phải người thì gần như bị các nhà tôn giáo thiêu chết, người thì bị bọn bảo thủ công kích đấy ư? Thế nhưng bây giờ, người ta đối với hai thuyết đó, chẳng ai cho là lạ nữa, chính bởi vì quả đất vốn vẫn xoay chuyển, sinh vật rõ ràng đang tiến hoá. Thừa nhận là có, mà lại muốn che đậy cho là không, nếu không khéo léo tuyệt trần thì không làm được. Nhưng ông Lương Thực thu đã có cách loại trừ đấu tranh. Ông ta cho, như Rutxô nói “tư bản là cơ sở của văn mình”, “cho nên công kích chế độ tư sản tức là phản đối văn minh [19] ”, “một người vô sản, nếu có tiền đồ, thì chỉ cần chịu khổ chịu sở, thành thật làm việc suốt đời, ít hay nhiều, nhất định có thể dành dụm được một ít tư sản tương đối khá. Đó là thủ đoạn đấu tranh sinh sống chính đáng”. Tôi nghĩ Rutxô sống cách ngày nay tuy đã một trăm năm mươi năm, nhưng không đến nỗi cho rằng cho văn minh quá khứ, vị lai đều lấy tư sản làm cơ sở (Nhưng nếu nói lấy quan hệ kinh tế làm cơ sở thì tất nhiên đúng). Hy Lạp, Ấn độ đều có văn minh, nhưng thời phồn thịnh đều không phải là xã hội tư sản, cái đó có lẽ ông ta cũng biết, nếu không biết, thì ông ta nhầm. Còn như cái cách “chính đáng” người vô sản nêu “chịu cực chịu khổ” mà leo lên giai cấp hữu sản, thì ở Trung Quốc, đó là lời cổ huấn mà các cụ nhiều tiền, lúc cao hứng, thường cũng bày dạy cho những người công nhân nghèo khổ. Trên thực tế, bày dạy cho những người công nhân nghèo khổ. Trên thực tế, hiện nay, những người “vô sản” đang “chịu cực chịu khổ thành thật” muốn leo lên giai cấp trên, cũng còn nhiều. Nhưng đó là lúc chưa có người “đem cái quan niệm giai cấp ấy truyền thụ cho họ”. Khi đã truyền thụ rồi, thì họ không chịu leo từng người một nữa, mà, đúng như ông Lương Thực Thu nói “họ là một giai cấp, họ muốn có tổ chức, họ là một tập đoàn, cho nên họ sẽ không theo con đường thường, họ nhảy một bước lên đoạt lấy quyền chính trị, quyền tài chính, nhảy một bước lên làm giai cấp thống trị”. Có thể có những “người vô sản” muốn “chịu khổ chịu sở, thành thật làm việc suốt đời, không ít thì nhiều, nhất định có thể có một ít tư sản tương đối khá” hay không? Tất nhiên còn. Nhưng người đó phải kể vào hạng “người hữu sản chưa phát tài”. Lời khuyên nhủ của ông Lương Thực Thu làm cho người vô sản buồn nôn, chỉ có thể cùng các cụ lớn đem ra tán thưởng với nhau mà thôi. Thế thì, từ nay về sau thế nào? Ông Lương Thực Thu cho rằng không đáng lo ngại. Bởi vì “cái thứ hiện tượng cách mạng đó không thể lâu dài được, qua sự tiến hoá tự nhiên, định luật ai hơn thì thắng, ai kém thì thua, sẽ lại được chứng minh, vẫn là người thông minh tài giỏi hơn đời chiếm địa vị hơn hẳn, còn người vô sản vẫn là người vô sản”. Nhưng giai cấp vô sản đại khái cũng biết “thế lực phản văn minh không chóng thì chầy sẽ bị thế lực văn minh chinh phục”, cho nên “cần phải xây dựng cái gọi là nền văn hoá vô sản”... trong đó bao gồm cả văn nghệ, học thuật. [20] Từ đây trở xuống, mới bàn về phê bình văn học. 4. Trước hết, ông Lương Thực Thu cho rằng lý luận văn học vô sản sai lầm ở chỗ “đem những ràng buộc giai cấp cột vào văn học” bởi vì một nhà tư bản và một người lao động có chỗ khác nhau, nhưng còn có chỗ giống nhau, “nhân tính của họ (hai chữ nhân tính vốn có vòng khuyên bên cạnh) chỉ là một” thí dụ đều vui buồn, yêu ghét, đều yêu thương (nhưng đây là “nói bản thân tình yêu, chứ không phải phương thức yêu đương”), “văn học chính là nghệ thuật biểu hiện cái nhân tính tối cơ bản đó” [21] . Những lời đó vừa mâu thuẫn vừa trống rỗng. văn minh đã lấy tư bản làm cơ sở, người nghèo khổ phải kiệt sức leo lên vì “có tiền đồ”, thế thì leo lên là ý nghĩa của nhân sinh, người giàu là bậc chí tôn trong nhân loại, văn học chỉ cần biểu hiện giai cấp tư sản là đủ rồi, lại hà tất “quá giàu lòng thương” như thế, mà bao gồm cả những người vô sản “thua kém” vào nữa? Huống chi “bản thân” của “nhân tính”, thì biểu hiện như thế nào? Thí dụ, tính chất hoá học của nguyên chất hay tạp chất có sức hoá hợp, tính chất vật lý có độ cứng, muốn tỏ rõ cái lực đó hoặc mức độ đó, phải dùng hai thứ vật chất để biểu hiện. Nếu nói không dùng vật chất mà tỏ rõ “bản thân” đơn thuần của sức hoá hợp và độ cứng, thì không có một diệu pháp nào như thế cả. Nhưng đã dùng vật chất, thì hiện tượng đó tức lại vì vật chất mà khác nhau. Văn học mà không thể nào bỏ được tính giai cấp của nó, không cần phải “ràng buộc”, tất nhiên phải như thế. Có nhiên “vui buồn, yêu ghé là tình của con người”, nhưng người nghèo quyết không có cái buồn buôn thua bán lỗ ở Sở giao dịch, ông vua dầu hoả làm sao biết được nỗi cực khổ của bà già nhặt rỉ than ở Bắc Kinh, nạn dân vùng đói kém chắc không trồng hoa lan như các cụ lớn giàu sang, lão Tiêu Đại trong phủ họ Giả không yêu cô Lâm Đại Ngọc [22] . “Còi nhà máy ơi!” “Lê Nin ơi!” cố nhiên không phải như thế là văn học vô sản, thế nhưng “tất cả mọi người ơi”, “Việc vui đến rồi, người vui sướng rồi!”, cũng không phải là văn học biểu hiện “bản thân” của “nhân tính”. Nếu cho văn học biểu hiện nhân tính tối phổ biến là cao nhất thì văn học biểu hiện động tính tối phổ biến – dinh dưỡng, hô hấp, vận động, sinh đẻ - hoặc giả, bỏ “vận động” đi, văn học biểu hiện sinh vật tính, tất phải cao hơn nữa! Nếu nói, vì chúng ta là người, cho nên lấy việc biểu hiện nhân tính làm giới hạn, thì người vô sản, vì giai cấp vô sản, cho nên phải làm văn học vô sản. Lại nữa, Lương Thực Thu nói giai cấp của tác giả không liên quan gì đến tác phẩm. Tônxtôi xuất thân quý tộc, mà đồng tình với dân nghèo, nhưng cũng không chủ trương đấu tranh giai cấp; Mác không phải là người trong giai cấp vô sản; bác sĩ Jônxơn [23] suốt đời cùng khổ, nhưng chí hướng, hành vi, ngôn ngữ lại còn hơn quý tộc nữa. Cho nên đánh giá văn học, phải nhìn vào bản thân tác phẩm, không nên lôi kéo cả thân thế và giai cấp của tác giả vào. Những thí dụ đó cũng hoàn toàn không đủ để chứng minh văn học không có tính giai cấp. Tônxtôi chính vì xuất thân quý tộc, tính chất cũ gột không sạch, cho nên chỉ đồng tình với người nghèo mà không chủ trương đấu tranh giai cấp. Mác quả lúc đầu vốn không phải là người trong giai cấp vô sản, nhưng ông không có tác phẩm văn học nào, chúng ta không thể đoán nếu ông sáng tác, thì cái mà ông biểu hiện nhất định là bản thân tình yêu, không dùng phương thức. Còn như Jônxơn suốt đời cùng khổ mà chí hướng, hành vi, ngôn ngữ đều quá cả vương hầu thì tôi quả thực không biết duyên cớ vì đâu, bởi vì tôi không biết văn học nước Anh và tiểu sử ông ta. Có lẽ ông ta vốn muốn “chịu cực chịu khổ, thành tâm làm việc suốt đời, không ít thì nhiều, nhất định có thể được một ít tư bản tương đối khá”, sau đó sẽ leo lên giai cấp quý tốc, không ngờ cuối cùng kém thì thua, đến một cái tư sản tương đối khá cũng không tích lũy được, cho nên chỉ còn lại được cái vỏ “Thích thú” nhé! Lại nữa, ông Lương Thực Thu nói: “Tác phẩm hay vĩnh viễn là của riêng của một số ít người; đại đa số vĩnh viễn là ngu xuẩn, vĩnh viễn không liên quan gì đến văn học”, nhưng có năng lực thưởng thức hay không lại không liên quan gì đến giai cấp, bởi vì “thưởng thức văn học cũng là một cái phúc phận trời sinh”, tức là, mặc dù trong giai cấp vô sản, cũng có thể có người có “cái phúc phận trời sinh” đó. Theo tôi suy luận, thì chỉ cần có hạng người có “phúc phận” dó, tuy nghèo đến nỗi không thể được học hành, đến nỗi một chữ không biết, cũng có thể thưởng thức được văn chương tạp chí Trăng mới để làm chứng cho cái chủ trương: “nhân tính” và “bản thân” văn nghệ vốn không có tính giai cấp. Nhưng ông Lương Thực Thu cũng biết trời sinh ra người vô sản có cái phúc phận ấy nhất định không nhiều, cho nên cần phải có một cái gì đó (văn nghệ) để cho họ xem, “thí dụ những loại kịch điện ảnh thông tục, tiểu thuyết thông tục”, bởi vì “người lao công, lao nông cần phải giải trí, vui chơi, có lẽ cũng cần một ít cách giải trí nghệ thuật”. Xem thế thì, hình như văn học quả vì giai cấp mà không giống nhau, nhưng đó là do năng lực thưởng thức cao hay thấp quyết định, sự bồi dưỡng năng lực đó không liên quan gì với kinh tế, mà là “phúc phận” cái Thượng đế ban cho. Vì thế, nhà văn thường ca công tụng đức. Cái đó đúng lắm. Nhưng trong lý luận văn học vô sản mà chúng ta thấy, cũng không có ai nói nhà văn của một giai cấp nào đó không nên để cho giai cấp vô sản uy hiếp làm văn chương ca công tụng đức, mà chỉ nói, văn học có tính giai cấp trong xã hội có giai cấp, nhà văn tuy tự cho mình là “tự do”, tự cho mình là siêu giai cấp, nhưng cuối cùng vẫn bị ý thức giai cấp của giai cấp bản thân mình chi phối một cách vô ý thức, những sáng tác kia chẳng phải là văn hoá của một giai cấp nào khác cả. Thí dụ, bài văn này của ông Lương Thực Thu, nguyên ý là thủ tiêu tính giai cấp trong văn học, nêu cao chân lý. Nhưng ông ta lại lấy tư sản làm tổ tiên của văn minh, cho người nghèo là cặn bã, chỉ cần liếc qua, cũng biết đó là “vũ khí” đấu tranh – không “văn chương” của nhà tư sản rồi. Các nhà lý luận văn học vô sản cho rằng, lý luận văn học chủ trương “toàn thể nhân loại”, “siêu giai cấp” là có lợi cho giai cấp hữu sản. Đấy là một chứng cứ hết sức rõ. Còn như những nhà văn vô sản, kiểu ông Thành Phương Ngô, đưa ra luận điệu: “bọn họ nhất định thắng, cho nên chúng ta hãy chỉ đạo, an ủi họ đi”, nói “đi” rồi thì “sai khiến” “bọn họ”, những nhà văn vô sản, ngoài bọn mình, không cần phải nói như thế không khỏi mắc cái sai lầm là “làm theo ý mình”, cũng như ông Lương Thực Thu đối với lý luận văn học vô sản. Lại thứ nữa, cái mà ông Lương Thực Thu ghét nhất là: nhà lý luận văn học vô sản cho rằng văn nghệ là vũ khí đấu tranh, tức xem như công cụ tuyên truyền. Ông ta “không phản đối bất cứ ngươi nào lợi dụng văn học để đạt một mục đích khác”, nhưng ông ta “không thể thừa nhận văn chương kiểu tuyên truyền là văn học được”. Tôi cho rằng nói như thế chỉ tự làm phiền cho mình mà thôi. Những bài lý luận tôi đã xem qua, đều chỉ nói phàm là văn nghệ tất có tuyên truyền cái gì, chứ không ai chủ trương chỉ văn chương kiểu tuyên truyền mới là văn học. Quả thật, từ năm kia đến nay Trung Quốc có rất nhiều thơ ca, tiểu thuyết đem khẩu hiệu, biểu ngữ điền vào, tự cho là văn học vô sản. Nhưng như thế là vì thứ văn học đó, nội dung cũng như hình thức, đều không có chút hơi vô sản nào cả, không dùng khẩu hiệu biểu ngữ, thì không làm thế nào mà tỏ ra nó “mới trưởng thành” được; thực tế, trong đó không phải là văn học vô sản. Năm nay, ông Tiền Hạnh Đồn [24] , một nhà phê bình văn học vô sản có tiếng, trên tờ Người vỡ hoang, còn trích dẫn lời của Lunasacxki, nói rằng ông ta đánh giá cao thứ văn học mà đại chúng có thể hiểu được; đủ thấy dùng khẩu hiệu, biểu ngữ chưa hẳn đã là sai lắm, để biện hộ cho cái thứ “văn học cách mạng” kia [25] . Nhưng tôi cảm thấy cái đó cũng là một sự xuyên tạc vô hình hay hữu ý, giống như ông Lương Thực Thu. Cái mà Lunasacxki nói đại chúng có thể hiểu được, nên dành để chỉ văn thể như những cuốn sách nhỏ của Tônxtôi viết để phân phát cho nông dân; ngữ pháp, điệu ca, câu khôi hài, công nông xem là hiểu ngay. Cứ xem ông Dêmian Betnưi [26] làm thơ mà được huy chương Cờ đỏ, trong thơ ông không hề dùng khẩu hiệu và biểu ngữ, thì đủ rõ. Cuối cùng , ông Lương Thực Thu muốn xem mặt hàng. Hay lắm. Đó là cách thiết thực nhất. Nhưng chép hai bài thơ dịch, nói là để trình bày với công chúng, thì không đúng. Trên tờ Trăng mới đã có bài “Bàn về những khó khăn trong công việc dịch thuật” rồi, huống chi bài dịch đây lại là thơ. Theo chỗ tôi thấy mà bàn, thì những tác phẩm như Đông Kisôt được giải phóng của Lunasacxki, Chiến bại của Fađêep [27] , Xi măng của Glacôp [28] , thì mười một năm nay Trung Quốc chưa có tác phẩm nào có thể so sánh được. Đó là chỉ những nhà văn được hưởng cái dư âm của văn minh tư sản và dốc lòng ủng hộ nó, như những người trong nhóm Trăng mới. Trong các tác phẩm của những nhà văn tự xưng là vô sản, tôi cũng không thể cử ra được những thành tựu tương đương. Nhưng ông Tiền Hạnh Đồn cũng là biện hộ cho, nói rằng bản lĩnh văn học của giai cấp mới trưởng thành tất nhiên ấu trĩ và đơn thuần; đòi hỏi họ ngay những tác phẩm tốt, là ác ý của bọn “buốc gioa” [29] . Câu đó mà nói về công nông, thì hết sức đúng. Đòi hỏi vô lý như thế có khác nào làm cho họ đói rét bao nhiêu lâu nay, rồi quay lại trách làm sao họ không béo mập được như các ông nhà giàu! Nhưng các nhà văn Trung Quốc bây giờ lại quả không phải là những người vừa bỏ cuốc, bỏ búa xuống; đại đa số là những nhà tri thức, có được cắp sách đến nhà trường, một số còn là những nhà văn có tiếng từ lâu, chẳng lẽ sau khi khắc phục được ý thức tiểu tư sản của mình rồi, thì bản lĩnh văn học trước kia cũng tiêu diệt nốt hay sao? Không thể như thế. Các nhà văn lão thành nước Nga, như A.Tônxtôi, Vêrêxaep, Prisvin [30] , đến nay vẫn có những tác phẩm tốt. Trung Quốc sở dĩ có khẩu hiệu mà không có thực chứng kèm theo, tôi nghĩ, căn bệnh đó không phải ở chỗ “lấy văn nghệ làm vũ khí đấu tranh giai cấp”, mà ở chỗ “mượn đấu tranh giai cấp làm vũ khí văn nghệ”, ở chỗ dưới lá cờ “nhà văn vô sản” đó, tụ tập không ít những người bỗng dưng ở đâu xoay sang. Thử quảng cáo sách mới xuất bản năm ngoái, cơ hồ không có cuốn nào là không phải văn học cách mạng. Nhà phê bình lại chỉ dùng cách biện hộ thay cho “thanh toán”, tức là mời văn học đến ngồi dưới sự yểm hộ của “đấu tranh giai cấp”, thế là văn học tự nó không cần phải ra sức nữa, do đó mà cả hai bên, văn học và đấu tranh, đều ít quan hệ với nhau. Những hiện tượng nhất thời trước mắt ở Trung Quốc, tất nhiên không đủ làm chứng cứ để phủ nhận văn học vô sản mới trưởng thành. Ông Lương Thực Thu cũng biết thế, cho nên, cuối cùng ông ta nhượng bộ, nói: “Giá thử nhà cách mạng vô sản nhất định muốn gọi văn học tuyên truyền của họ là văn học vô sản, thì cũng cứ kể cho là văn học mới trưởng thành đi, cũng cứ kể là mùa gặt mới trên quốc thổ văn học đi, cần gì phải hô to đả đảo văn học tư sản để tranh đoạt lĩnh vực văn học, bởi vì lĩnh vực văn học rộng lắm, cái mới vẫn có chỗ của nó cơ mà!” [31] . Nhưng cái đó chẳng khác gì thuyết “Trung - Nhật thân thiện, đồng tồn cộng vinh” [32] , đối với người vô sản chưa đủ lông đủ cánh, thì đó là một cách lừa bịp. Hiện nay e cũng có những “nhà văn vô sản” muốn thế, nhưng đó là hạng “người vô sản” mà ông Lương Thực Thu gọi là có “tương lai” muốn leo lên giai cấp tư sản. Tác phẩm của họ chỉ là những lời than thở của anh tú tài kiết khi chưa trúng trạng nguyên, từ khi bắt tay leo cho đến lúc leo tới nơi, quyết không phải là văn học vô sản. Văn học vô sản là một cánh quân, lấy sức mình đấu tranh cho sự giải phóng của giai cấp mình và tất cả mọi giai cấp. Nó cần chiếm cả toàn bàn, chứ không phải là một góc. Hãy lấy giới phê bình văn nghệ làm thí dụ. Giá như trong “cung điện nghệ thuật” của “nhân tính” (chữ này phải mượn của ông Thành Phương Ngô mà dùng tạm) bày hai chiếc ghế dựa lót da hổ, ngoảnh mặt về hướng nam, mời hai ông Lương Thực Thu và Tiền Hạnh Đồn ngồi song song, ông bên hữu cầm tờ Trăng mới, ông bên tả cầm tờ Thái Bình, tình hình đó quả đúng là “lao tư” cùng đẹp cả. 5. Đến đây, có thể lại nói về việc tôi “dịch cứng nhắc” được rồi. Suy nghĩ lại thì thấy đây là vấn đề cần phải đặt tiếp theo vấn đề “dịch cứng nhắc”. Văn học vô sản đã xem trọng việc tuyên truyền, tuyên truyền thỉ phải cho đa số có thể hiểu được, thế thì những “thiên thư” về lý luận mà anh “dịch cứng nhắc”, khó hiểu đó, rút cục dịch ra để làm gì? Chẳng phải cũng bằng như không dịch hay sao? Tôi trả lời như sau: Tôi dịch cho tôi, cho mấy người tự xưng là nhà phê bình văn học vô sản, và một số độc giả không tìm cái “thích thú”, không sợ gian khổ, ít nhiều muốn biết những lý luận đó. Từ năm kia lại nay, những lời công kích cá nhân tôi nhiều lắm. Tờ tạp chí nào đại để cũng thấy tên “Lỗ Tấn” mà giọng lưỡi của tác giả, nghe qua, đại để giống như là nhà văn cách mạng. Nhưng tôi xem mấy bài thì lại thấy nói nhảm nhiều quá. Lưỡi dao giải phẫu đưa không trúng vào thớ thịt, chỗ đạn bắn vào cũng không gây thành được vết thương chí mạng. Thí dụ, giai cấp xuất thân của tôi, đến nay vẫn chưa định xong, lúc nói giai cấp tiểu tư sản, lúc nói “buốc gioa”, có khi lại thăng lên là “tàn dư phong kiến” và lại gần giống như vượn đười ươi (xem “Thư Đông Kinh” trên tờ Sáng tạo). Có một hồi, thì chửi đến cả màu sắc bộ răng nữa. Trong xã hội như thế này, rất có thể có tàn dư phong kiến xuất đầu lộ diện, nhưng tàn dư phong kiến là đười ươi thì bất cứ cuốn “duy vật sử quan” nào cũng không nói đến, cũng không tìm ra luận cứ cho rằng màu vàng, tức là có hại cho văn học vô sản. Do đó tôi nghĩ, những bài lý luận có thể tham khảo được như thế này ít quá, nên mọi người mới mơ hồ. Còn như đối với kẻ thù, thì những việc như mổ xẻ, cắn xé, bây giờ không tránh khỏi, có điều có một số cuốn sách giải phẫu học, có một cuốn sách nói về phương pháp nấu nướng, rồi cứ theo phương pháp mà làm, thì có thể tạo ra mùi vị, rút cục là có thể hơi rõ ràng, ngon lành. Người ta thường lấy Prômêtê (Prometheus) [33] trong thần thoại mà ví nhà cách mạng, cho rằng trộm lửa đem về cho loài người, tuy bị Thiên đế hành hạ, vẫn không hối hận, lòng kiên nhẫn to lớn đó cũng tương tự như thế. Nhưng tôi trộm lửa ở nước khác về, bản ý là nấu thịt tôi, cho rằng nếu có thể làm cho mùi vị ngon hơn, thì cơ hồ về phía người cắn xé cũng có lợi phần nào, mà tôi cũng không uổng phí thân tôi: xuất phát điểm hoàn toàn là cá nhân chủ nghĩa, lại còn kèm theo thói xa hoa tiểu thị dân, và cả cái ý muốn “báo thù”, dần dần sờ ra được lưỡi dao mổ xẻ, sẽ quay lại đâm vào tâm tạng người mổ xẻ. Ông Lương Thực Thu nói “bọn họ sẽ báo thù!”. Kỳ thực há phải chỉ “bọn họ” mà thôi đâu, người như thế trong tàn dư phong kiến rất nhiều. Thế nhưng, tôi cũng muốn đưa lại chút ích lợi gì cho xã hội, kết quả người xem thấy được, vẫn là lửa và ánh sáng. Như vậy, lúc bắt đầu bắt tay vào chỉ là Chính sách văn nghệ [34] , bởi vì trong đó bao gồm nghị luận các phái. Ông Trịnh Bá Kỳ [35] , bây giờ mở hiệu sách, in kinh của Hauptmann [36] và bà Gregori [37] , hồi đó còn là nhà văn học cách mạng, trên tạp chí Sinh hoạt văn nghệ, ông ta là chủ biên, cười tôi dịch cuốn sách đó là không chịu lạc hậu, và đáng thương hại là bị người ta quất cho. Dịch một cuốn sách có thể nói lên được, làm nhà văn học cách mạng dễ dàng lắm, tôi không hề nghĩ vậy. Có một tờ lá cải nói tôi dịch cuốn Bàn về nghệ thuật là “đầu hàng”. Đúng. Đầu hàng là chuyện thường có trên đời. Nhưng lúc bấy giờ, nguyên soái Thành Phương Ngô đã sớm leo lên suối nước nóng Nhật Bản, trọ trong khách sạn Balê rồi, thì ở đây biết tỏ lòng thành của mình với ai nữa? Năm nay, luận điệu khác. Tờ Người vỡ hoang và tờ Tiểu thuyết hiện đại đều nói tôi “chuyển hướng” [38] . Tôi thấy Nhật Bản có một vài tạp chí từng dùng hai tiếng đó nói về ông Phiến Cương Thiết Bình [39] , phái Tân cảm giác trước đây, cho là một danh từ tốt đẹp. Thật ra, bàn tán loạn xị như thế, cũng vẫn là bệnh cũ chỉ nhìn cái đầu đề mà không chịu suy nghĩ. Dịch một cuốn sách về văn học vô sản, không đủ để chứng minh phương hướng, nếu dịch sai, trái lại có thể có hại. Sách tôi dịch cũng là để tặng cho số nhà phê bình văn học vô sản tốc thành kia, bởi vì họ có nghĩa vụ không được ham “thích thú” mà phải nhẫn nại nghiên cứu những thứ lý luận đó. Nhưng tôi tự tin rằng, tôi không cố ý dịch sai, lúc đánh nhằm vết thương của nhà phê bình mà tôi không phục, thì tôi cười, lúc đánh nhằm vết thương của chính mình tôi, thì tôi chịu đau, chứ quyết không thêm bớt. Đó cũng là một nguyên nhân vì sao mà thủy chung “dịch cứng nhắc”. Tất nhiên, thế gian có thể có người dịch hay hơn, có thể dịch thành một thứ văn không sai, cũng không “cứng nhắc”, hoặc không “chết”, lúc đó, bản dịch của tôi tất nhiên sẽ bị đào thải; tôi chỉ cần điền vào chỗ không gian từ “không có” đến “hay hơn” mà thôi! Nhưng thế gian, giấy còn nhiều, mà số người trong các nhóm văn học lại ít, chí lớn sức hèn, không thể viết hết tất cả giấy mình có, thế là nhà phê bình trong nhóm có nhiệm vụ đánh địch giúp bạn, quét sạch kẻ khác loài, thấy người khác cũng bôi vẽ và giấy, thì buồn rầu thở dài, lắc đầu, giẫm chân rất là khổ não. Tờ Thần báo ở Thượng Hải thậm chí còn gọi người dịch khoa học xã hội là “chó, mèo”, giận dữ đến như thế! Ông Tưởng Quang Z [40] mà “địa vị trên văn học mới trưởng thành của Tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn.doc
Tài liệu liên quan