Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành chưa chấp nhận cơ chế hardship quy định việc đàm phán lại để điều chỉnh nội dung của hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh có sự thay đổi làm mất cân bằng kinh tế nghiêm trọng giữa các bên. Tuy vậy, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các chính sách điều hành của Chính phủ, điều kiện hardship cũng đã được đề cập đến ở một mức độ nhất định. Có thể kể đến một số quy định cụ thể, như quy định cho phép điều chỉnh phí bảo hiểm khi xảy ra những biến cố làm tăng mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (Điều 20); quy định cho phép các bên thỏa thuận thay đổi giá bán trong hợp đồng khi có những thay đổi của Nhà nước về chính sách tiền lương, chính sách giá các mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá trong Luật Đấu thầu 2005 (Điều 50 (2) và 57); hoặc trường hợp Chính phủ cho phép điều chỉnh giá tiền mua hóa giá nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước do giá vàng tăng đột biến (43); hay việc cho phép điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng hình thức “giá cố định” và hình thức “giá trọn gói” do “giá vật liệu xây dựng biến động ngoài khả năng kiểm soát của chủ đầu tư và nhà thầu” (44). Tuy nhiên, đây chỉ là những quy định tương đối đặc thù để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng chuyên biệt, nên không được xem là căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng khác.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2667 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một bên trở nên vô cùng khó khăn. Nhưng các bên cam kết có thể tránh việc huỷ bỏ hợp đồng bằng cách đề nghị chỉnh sửa hợp đồng một cách công bằng (Điều 1467 (3))(26). Tuy nhiên, các quy định này không bắt buộc, và các bên có thể thoả thuận với nhau không áp dụng chúng. án lệ của ý từng có phán quyết về vấn đề này (27).
Ngoài ra, Điều 258 Bộ luật Dân sự Hà Lan cho phép thẩm phán chỉnh sửa các điều khoản của hợp đồng dựa trên sự thay đổi của hoàn cảnh mà không lường trước được. Điều 437 của Bộ luật Dân sự Bồ Đào Nha cũng quy định tương tự (28).
Ở Anh: việc thay đổi hoàn cảnh không được xem là căn cứ để điều chỉnh hay đàm phán lại hợp đồng, “bởi lẽ ở Anh - theo quan điểm luật truyền thống thì người mắc nợ chỉ phải đảm bảo trả đủ cho chủ nợ một số tiền nào đó, chứ không phải thực hiện nghĩa vụ theo thực chất” (29). Richard Stone cũng có cùng quan điểm (30). Nhưng điều này cũng không phải tuyệt đối. Theo Ewan McKendrick thì “người ta thường nói rằng luật Anh không khuyến khích việc chỉnh sửa việc thoả thuận trong trường hợp việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn. Điều này không hoàn toàn chính xác” (31). McKendrick cho rằng, trong những trường hợp này, tòa án Anh có thể cho phép điều chỉnh hợp đồng và chính các bên ký kết hợp đồng phải thực hiện việc chỉnh sửa. Toà án không thực hiện việc chỉnh sửa hợp đồng đã ký giữa các bên, cũng không đưa ra bất kỳ trở ngại nào khi các bên cố gắng chỉnh sửa thoả thuận của họ để phù hợp với hoàn cảnh thay đổi, như quyết định của Thượng viện trong vụ Walford v. Miles [1992] 2 AC 128(32). án lệ Anh cũng chấp nhận một cách hiếm hoi việc thay đổi hoàn cảnh dẫn đến chấm dứt hợp đồng, như phán quyết của Tòa Phúc thẩm, trong vụ Krell v. Henry [1903] 2 KB 740: Bị đơn thuê một căn hộ tại Pall Mall trong vòng 2 ngày. Mục đích khi ký kết hợp đồng là nhìn thấy lễ diễu hành đăng quang của Edward VII, mặc dù mục đích này không được nêu ra trong hợp đồng. Sau khi hợp đồng được ký kết, lễ đăng quang bị hoãn do nhà vua bị bệnh nên hợp đồng không thể thực hiện được. Tòa đã tuyên cho phép bên thuê được từ chối thực hợp đồng mà không phải bồi thường. Nhưng thực chất, phán quyết này không dựa trên điều khoản hardship mà lại căn cứ vào điều khoản không thể thực hiện hợp đồng do mục đích của hợp đồng không còn tồn tại (Frustration of purpose).
Ở Mỹ: án lệ có những phán quyết không nhất quán về vấn đề này. Trong vụ Transatlanic Corp. v United States, CA Dis Col 363 F2d 312 (1966): Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (A) thuê Công ty xuyên Đại Tây Dương (B) chở tàu chiến qua kênh đào Suez, Ai Cập. Nhưng do kênh đào này bị đóng cửa, nên B phải đi đường vòng quanh Châu Phi, làm tăng chi phí rất lớn. B đòi A phải thanh toán chi phí tăng lên ngoài dự kiến. Mặc dù tòa nhận xét: “nghĩa vụ không thể thực hiện được” không cần phải hiểu theo nghĩa tuyệt đối mà chỉ dựa trên các lý do kinh tế là đủ, nhưng tòa lại kết luận rằng, rủi ro này có thể phải do một bên dự liệu và phải tự gánh chịu. Trái lại, các án lệ Mineral Park land Co. v. Howard, 156 P. 458 Cal. 1916 và án lệ Waegemann v. Montgomary Ward & Co., Inc. CA9 Cal 713 F2d 452 (1983) cũng như Điều 2 - 609 UCC lại thừa nhận và cho áp dụng điều khoản đàm phán lại hợp đồng do thay đổi hoàn cảnh. Theo đó, “nếu chi phí để thực hiện nghĩa vụ trong thực tế đã thay đổi đáng kể, lớn hơn gấp 10 lần chi phí đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng, thì bên phải thực hiện nghĩa vụ có thể yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt quan hệ hợp đồng vì lý do không thể thực hiện được” (33) hoặc cho phép điều chỉnh hợp đồng. Trong vụ Waegemann kiện Montgomary Ward & Co., Inc., Tòa sơ thẩm đã lập luận rằng, “các bên đã giao kết hợp đồng thì phải thực hiện cam kết đó dựa trên niềm tin chắc chắn là hợp đồng sẽ được thực hiện, nhưng quy tắc này sẽ phải bị giới hạn trong một số trường hợp gọi là extreme hardship” (34). Tương tự quan điểm này, có thể xem thêm các án lệ khác, như: Cutter Laboratories, Inc. v. Twining, 221 Cal.App.2d 302, 34 Cal.Rptr. 317 (1963); Lloyd v. Murphy, 25 Cal.2d 48, 153 P.2d 47 (1944); Davidson v. Goldstein, 58 Cal.App.2d Supp. 909, 136 P.2d 665 (1943); Grace v. Croninger, 12 Cal.App.2d 603, 55 P.2d 940 (1936)...
Ở các nước thuộc Châu Phi như Ai Cập, Syrie, Algérie đều có những quy phạm điều chỉnh các hợp đồng, công hoặc tư, trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi bất ngờ. Những điều khoản do các bên thỏa thuận trái với các quy phạm này đều vô giá trị (35).
Ở Nam Tư: khoản 1 Điều 133 Luật Nghĩa vụ của Nam Tư quy định: “(1) trong trường hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng của một bên gặp khó khăn hoặc mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong muốn của các bên cũng như việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ là không công bằng, thì bên gặp khó khăn… có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng”; khoản 2 của Điều này quy định không cho phép hủy bỏ hợp đồng trường hợp này nếu đã lường trước được khó khăn hoặc có thể vượt qua hay khắc phục được khó khăn đó. Ngoài ra, Quy tắc số 56 còn liệt kê “các sự kiện kinh tế, chẳng hạn như sự đột biến, hoặc sự tăng, giảm mạnh về giá cả” là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng (36).
Ở Việt Nam trước 1945: pháp luật thực định công nhận nguyên tắc “các hợp ước phải được thi hành với sự thành ý” (Điều 673.k3 Bộ Dân luật Bắc, Điều 713.k3 Bộ Dân luật Trung). Theo Vũ Văn Mẫu, “một sự thi hành thành ý không thể nào trái với sự công bằng”. Bởi vậy, “khi sự thi hành quá lợi cho người trái chủ và quá thua thiệt cho người phụ trái, sự thi hành ấy trái với sự công bằng, và không thành ý”. Dựa theo nguyên tắc này, thẩm phán có quyền can thiệp vào hợp đồng nếu các thỏa thuận đó là không công bằng, gây ra sự bất lợi quá đáng cho một bên. Nhưng Vũ Văn Mẫu cũng cho rằng, hiểu và giải thích quá rộng rãi các điều khoản trên đây là một sai lầm. Thế nên, trong bản án ngày 27/12/1946, Tòa Thượng thẩm Sài Gòn đã không chấp nhận sự thay đổi hiệu lực hợp đồng chỉ vì bên có nghĩa vụ lâm vào hoàn cảnh khó khăn do xuất hiện sự kiện không lường trước được: “mặc dù nhà thầu phải thi hành khế ước thầu khoán trong những điều kiện tốn kém hơn vì giá vật liệu do tình trạng chiến tranh đã tăng hơn 300%, các thẩm phán cũng không thể thay đổi khế ước” (37). Điều này cho thấy, theo luật thực định Việt Nam thời bấy giờ, tòa án có thể cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng khi gặp khó khăn đặc biệt, nhưng án lệ lại không chấp nhận giải pháp này.
Trên bình diện quốc tế, trong thực tiễn thương mại, điều khoản hardship thường được các thương gia đưa vào hợp đồng để chia sẻ rủi ro khi có sự biến động lớn về kinh tế. Các Bộ quy tắc quốc tế, như điều kiện của Hiệp hội các kỹ sư tư vấn quốc tế (FIDIC) trong văn bản về xây dựng ( “Sách đỏ”) hoặc trong văn bản về các hoạt động điện lực và cơ khí ( “Sách vàng”), đều có quy định về các điều khoản “rủi ro ngoại lệ”, “rủi ro đặc biệt” nhằm làm cơ sở giải quyết các trường hợp khó khăn đặc biệt khi thực hiện các hợp đồng xây dựng, tương tự như điều khoản hardship hay “bất khả kháng” (38).
Ngày nay, điều khoản này càng trở nên phổ biến hơn trong thực tiễn thương mại quốc tế, và đã trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng để được “pháp điển hóa” trong các Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế, như Bộ Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu - Principle European Contract Law (PECL).
Có thể thấy, bằng nhiều cách thể hiện khác nhau, pháp luật hợp đồng ở các nước phát triển phương Tây và nhiều quốc gia khác trên thế giới hiện nay đều có xu hướng chấp nhận cơ chế hardship để cho phép một bên được quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại, hay điều chỉnh nội dung hợp đồng khi “hoàn cảnh kinh tế biến động” so với thời điểm xác lập hợp đồng, “nếu việc làm đó thỏa mãn tiêu chuẩn hợp lý và công bằng” (39).
2. Nội dung cơ bản của điều khoản hardship
Nội dung cơ bản của điều khoản hardship quy định về ba vấn đề: khái niệm và các điều kiện của hoàn cảnh được coi là hardship, hạn chế áp dụng, các hệ quả pháp lý của việc áp dụng điều khoản này. Có thể xem xét ba nội dung này trong PICC và PECL sau đây:
Theo định nghĩa của UNIDROIT trong PICC 2004, “hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống...” và thỏa mãn bốn điều kiện được quy định trong đoạn tiếp theo của Điều 6.2.2: các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; bên bị bất lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; các sự kiện đó nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và, rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu (40).
Tuy vậy, PICC cũng không thừa nhận một cách dễ dãi quyền đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi đặc biệt. Những người soạn thảo văn kiện này khá khắt khe, bởi điều 6.2.1 PICC quy định “Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, trừ các quy định liên quan dưới đây về hardship”. Điều này cho thấy, việc áp dụng hardship để cho phép điều chỉnh lại hợp đồng là một giải pháp ngoại lệ của nguyên tắc pacta sunt servanda và phải được áp dụng rất hạn chế.
Cũng theo UNIDROIT tại Điều 6.2.3 PICC, hệ quả của việc áp dụng điều khoản hardship cho phép: (i) bên bị bất lợi được đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng (một cách không chậm trễ và có căn cứ) và nếu đã yêu cầu đàm phán lại hợp đồng thì không được tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ; (ii) nếu các bên không thể thỏa thuận lại được hợp đồng trong thời gian hợp lý thì mỗi bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết; tòa án nếu xét thấy hợp lý thì có thể hoặc cho chấm dứt hợp đồng theo điều kiện và thời điểm do tòa ấn định, hoặc cho sửa đổi nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng.
Điều khoản hardship được thể hiện trong Bộ nguyên tắc luật hợp đồng chung Châu Âu (PECL phiên bản 1999 - 2002), với tên gọi “Sự thay đổi hoàn cảnh” (change of Circumstances) tại Điều 6: 111. Theo đó, “mỗi bên phải hoàn thành các nghĩa vụ của mình, ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, do chi phí thực hiện tăng hoặc do giá trị của khoản thanh toán giảm” (khoản 1), và khoản 2: “Tuy nhiên, nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn cảnh, các bên buộc phải tiến hành thoả thuận với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng, với điều kiện là: (a) Việc thay đổi hoàn cảnh xảy ra sau thời gian ký kết hợp đồng; (b) khả năng xảy ra sự thay đổi về hoàn cảnh không phải là một trong những tình huống mà các bên buộc phải tính đến khi ký kết hợp đồng; và (c) rủi ro về sự thay đổi không phải là một tình huống, theo như hợp đồng, bên bị ảnh hưởng bị yêu cầu là phải gánh chịu”.
PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng quy định về sự thay đổi hoàn cảnh, như quy định tại Điều 6:111, khoản 3: “Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong khoảng thời gian hợp lý, toà án có thể: (a) chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện do toà án xác định; hoặc (b) sửa đổi hợp đồng nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo một cách thức công bằng và bình đẳng.
Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi thường thiệt hại mà bên kia phải gánh chịu” (41).
Như vậy, mặc dù trong PECL, điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi được sử dụng với tên gọi khác với PICC, nhưng vấn đề được quy định trong hai văn kiện này tương đối đồng nhất về khái niệm, phạm vi áp dụng, cũng như xử lý hệ quả của nó. So với PICC, quy định trong PECL có phần đầy đủ và hợp lý hơn vì khoản 3 Điều 6: 111 quy định trách nhiệm các bên phải điều chỉnh hợp đồng trước, và chỉ khi các bên không điều chỉnh thì tòa án “cho chấm dứt” hoặc “sửa đổi hợp đồng theo một các thức công bằng”. Theo nhận xét của Michel Trochu thì “Các nguyên tắc của pháp luật hợp đồng Châu Âu cũng có những quy định gần giống, nhưng rộng hơn” khái niệm hardship trong Bộ nguyên tắc Unidroit (42).
3. Thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản hardship
Pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành chưa chấp nhận cơ chế hardship quy định việc đàm phán lại để điều chỉnh nội dung của hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh có sự thay đổi làm mất cân bằng kinh tế nghiêm trọng giữa các bên. Tuy vậy, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các chính sách điều hành của Chính phủ, điều kiện hardship cũng đã được đề cập đến ở một mức độ nhất định. Có thể kể đến một số quy định cụ thể, như quy định cho phép điều chỉnh phí bảo hiểm khi xảy ra những biến cố làm tăng mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (Điều 20); quy định cho phép các bên thỏa thuận thay đổi giá bán trong hợp đồng khi có những thay đổi của Nhà nước về chính sách tiền lương, chính sách giá các mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá trong Luật Đấu thầu 2005 (Điều 50 (2) và 57); hoặc trường hợp Chính phủ cho phép điều chỉnh giá tiền mua hóa giá nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước do giá vàng tăng đột biến (43); hay việc cho phép điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng hình thức “giá cố định” và hình thức “giá trọn gói” do “giá vật liệu xây dựng biến động ngoài khả năng kiểm soát của chủ đầu tư và nhà thầu” (44)... Tuy nhiên, đây chỉ là những quy định tương đối đặc thù để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng chuyên biệt, nên không được xem là căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp liên quan trong các hợp đồng khác.
Về thực tiễn, có nhiều vụ tranh chấp phát sinh trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, nhưng do quy định về vấn đề này trong luật thực định còn thiếu sót, nên đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên liên quan trong việc áp dụng pháp luật. Sau đây là một số vụ tranh chấp điển hình có liên quan đến việc thay đổi hoàn cảnh ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng và đã làm cho các bên liên quan, các nhà tư vấn và cả tòa án trở nên lúng túng.
Vụ thứ nhất: Tháng 11/2007, bà Trương Thị H. (Đồng Nai) ký hợp đồng mua một ôtô tải của Công ty T., với giá gần 120 triệu đồng. Theo thỏa thuận, bà H phải đặt cọc số tiền 20 triệu đồng (số tròn), và công ty sẽ giao xe vào cuối tháng 4/2008. Đến hạn, công ty mời bà H đến nhận xe nhưng đòi tăng giá xe lên thêm hơn 30 triệu đồng so với giá ban đầu. Bà H. không chấp nhận và đã khởi kiện công ty ra tòa để đòi công ty giao xe theo đúng giá ghi trong hợp đồng. Theo người đại diện công ty: “Công ty có cam kết không tăng giá xe nhưng đến thời điểm giao xe thì Nhà nước áp dụng quản lý khí thải xe theo quy chuẩn mới nên công ty buộc phải điều chỉnh giá xe. Nếu bà H không chịu nhận xe giá cao hơn vì chất lượng tốt hơn, công ty sẵn sàng trả lại tiền cọc cộng lãi suất ngân hàng đối với số tiền mà bà H đã nộp cho công ty”. Theo Luật sư Nguyễn Văn H., công ty có trách nhiệm bán xe cho bà H. theo đúng giá đã thỏa thuận trong hợp đồng. Những lý do nêu ra như nguồn xe của công ty bị cắt, Nhà nước quản lý khí thải xe theo quy chuẩn mới tại thời điểm giao xe… chỉ là những vướng mắc của công ty, không phải là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để công ty được quyền giao xe chậm và tăng giá xe (45). Như vậy, quan điểm của bên bán là khi Nhà nước đưa ra quy định mới về tiêu chuẩn khí thải dẫn đến việc thay đổi làm giá thành của xe tăng lên thì bên mua phải chịu khoản chi phí tăng lên này. Còn bên bên mua và luật sư đều cho rằng, đây không phải là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên bên bán phải trách nhiệm thực hiện đúng hợp đồng.
Vụ thứ hai: liên quan đến việc thực hiện hợp đồng thi công nạo vét luồng lạch được ký kết giữa Tổng Công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco - gọi là bên B) kiện đòi Công ty Liên doanh Xi măng Holcim Việt Nam (MSC - gọi là bên A) bồi thường gần 5, 5 triệu USD, do Tòa Phúc thẩm - Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chsi Minh đã xét xử ngày 17/01/2007. Vụ kiện đã kéo dài gần 10 năm và đây là phiên tòa thứ 6 (46). Năm 1995, bên A thuê bên B đào một luồng tàu và một vũng quay tàu tại dự án xây dựng Nhà máy xi măng Sao Mai ở Hòn Chông, Kiên Giang. Hai bên còn lập hai bản phụ lục, quy định rõ “trong khi thi công nếu thiết bị của DI (nhà thầu phụ của B) gặp phải sỏi đá và san hô/đất sét cứng gây thiệt hại máy móc, tăng phí tổn thì DI được trả thêm chi phí căn cứ vào kết luận giám định của Giám định viên độc lập”. Thực tế khi thực hiện hợp đồng, thì “hệ thống nạo vét luồng gặp sự trở ngại, hao mòn nặng cho máy móc và đường ống dẫn cũng như giảm năng suất thi công”. Theo B và DI, sự cố này thuộc trường hợp được nêu trong phụ lục nói trên, nên bên B đã phải thuê và mua sắm thêm các thiết bị mới, chuyên dụng hơn để tiếp tực thực hiện hợp đồng, nên đã làm phát sinh chi phí thêm so với cam kết ban đầu trong hợp đồng, với số tiền được bên B nêu ra là 2.866.650 USD. Văn kiện thỏa thuận tăng giá thành giữa B với nhà thầu phụ DI được đại diện của A xác nhận. Sau khi thực hiện xong hợp đồng, bên B yêu cầu bên A thanh toán chi phí phát sinh này, nhưng bên A từ chối. B khởi kiện A ra tòa, nhưng yêu cầu này của B đều đã bị cả tòa sơ thẩm và phúc thẩm bác bỏ. Lý do: cách thức chứng minh trở ngại khách quan của B là không có căn cứ và giá trị tăng thêm nếu có phải do bên B chịu, chứ bên A không có nghĩa vụ phải thanh toán thêm vì trong hợp đồng không cam kết, cũng như theo pháp luật thì bên A không phải chịu trách nhiệm về những chi phí này (47).
Có thể thấy, vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn và tăng chi phí thực hiện hợp đồng không phải là tình huống ít diễn ra trong thực tiễn pháp lý Việt Nam. Nhưng sự thiếu vắng các quy định loại này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã cho thấy sự phản ứng quá thận trọng (nếu không nói là quá chậm chạp) của nhà lập pháp Việt Nam, làm cho các tranh chấp loại này không có căn cứ pháp lý để giải quyết thỏa đáng. Đó cũng là nguyên nhân làm cho việc quyết vấn đề này của tòa án hiện vẫn còn chưa nhất quán. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với PGS.TS Phạm Duy Nghĩa khi ông cho rằng, sự thiếu sót trên đây có thể được xem như là một trong những biểu hiện của sự “lạc hậu” của pháp luật hợp đồng nước ta vì “không đáp ứng được nhu cần quản lý rủi ro thời nay” (48).
4. Kết luận và một số kiến nghị bước đầu
4.1. Mặc dù hợp đồng được giao kết có hiệu lực thì phải được tôn trọng và thực hiện đúng. Nhưng việc thực hiện hợp đồng là một quá trình có nhiều rủi ro mà các bên không lường trước được. PGS.TS Hà Thị Mai Hiên cũng cho rằng: “cần phải nhìn nhận hợp đồng không phải là một giá trị bất biến mà nó là một công cụ linh hoạt, uyển chuyển. Quá trình thực hiện hợp đồng có thể phát sinh những tình tiết mà các bên cần phải xem xét” (49). Mặt khác, những tranh chấp về loại này ở Việt Nam ngày càng phổ biến, nhất là trong các hợp đồng về xây dựng, hợp đồng cung ứng các hàng hóa hoặc dịch vụ dài hạn, hợp đồng phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành nghề mới, có nhiều rủi ro: nhu cầu thị trường thay đổi, khó khăn đặc biệt do điều kiện sự thay đổi của tự nhiên, công nghệ, hay sự mất giá trầm trọng của đồng tiền (như ở Zimbabwe vừa qua)(50), sự can thiệp của Nhà nước về tiêu chuẩn kỹ thuật mới hoặc hạn chế trong chính sách ngoại thương… Bởi vậy, yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi chúng ta cần phải quy định bổ sung những cơ chế pháp lý cho phép điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp thay đổi hoàn cảnh dẫn đến khó khăn đặc biệt cho việc thực hiện hợp đồng, nhất là trong bối cảnh của toàn cầu hóa hiện nay, khi “chủ nghĩa đế quốc với nền kinh tế bất ổn đã làm gia tăng nhiều trường hợp khiến cho các bên khi thực hiện hợp đồng phải theo những điều kiện mới về thực chất mà các bên không thể lường trước được và càng không thể trù tính được vào lúc ký hợp đồng”, và khi mà việc tuân thủ vô điều kiện nguyên tắc ‘hiệu lực bất biến của hợp đồng’ có thể dẫn đến “quyết định sai lầm khiến một số người giàu lên bằng những tổn thất phi lý của người khác” (51), thì việc tìm cơ chế pháp lý thích hợp để giải quyết vấn đề này càng trở nên cách cấp bách hơn bao giờ hết.
4.2. Không chỉ trong thực tiễn thương mại hay trong các tập quán thương mại quốc tế, mà có rất nhiều nước, cả trong luật thực định và trong án lệ, đã thừa nhận và áp dụng điều khoản hardship để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống pháp lý ở các nơi đó. Thậm chí, còn có ý kiến đề xuất “cần đưa điều khoản hardship trong PICC (của Unidroit) trở thành một phần của Bộ luật Dân sự toàn cầu (The Global Code)”(52). Vì vậy, việc đưa các quy định về hardship vào phần quy định chung trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam, là rất cần thiết.
Nhưng cũng có một số điểm cần lưu ý là, quy định về điều khoản hardship trong pháp luật các nước và cả trong hai Bộ “pháp điển hóa” về pháp luật hợp đồng của Châu Âu (PECL) và của Unidroit (PICC) là không hoàn toàn giống nhau. Hơn thế nữa, quy định này trong PICC vàc PECL không phải không có bất cập. Ngay trong Điều 6.2.3. PICC quy định về điều khoản hardship, ngoài việc buộc các bên phải đàm phán lại hợp đồng, quy định này còn cho phép các bên yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Như vậy đã làm cho điều khoản hardship trở nên không còn khác biệt gì so với điều khoản bất khả kháng. Thiết nghĩ, quy định về hardship nên khác với điều khoản bất khả kháng, tức là nên ưu tiên quy định theo hướng tòa án có quyền buộc các bên đàm phán lại để duy trì việc thực hiện hợp đồng đã ký. Chỉ khi nào các bên không thể đàm phán lại thì mới tính tới việc giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ hợp đồng, nhưng giải pháp này phải thật hạn chế và phải được xem là “giải pháp cuối cùng”. Như vậy, quy định điều kiện áp dụng và cơ chế xử lý hậu quả giữa hardship và bất khả kháng đã có sự khác nhau cơ bản.
Mặt khác, điều khoản hardship trong nhiều trường hợp cũng không thích ứng với yêu cầu thực tiễn của một số loại hợp đồng có đối tượng là các công việc mang tính rủi ro cao và thường xuyên, như các hợp đồng liên quan đến các lĩnh vực tài chính dự án (Projet Financing) có mục đích chủ yếu là phân chia rủi ro, đánh giá rủi ro (53). Để có được nguồn vốn vay cần thiết từ ngân hàng, nhà đầu tư phải thuyết phục được ngân hàng bằng cơ chế phân chia rủi ro để ngân hàng được lợi và cảm thấy an toàn. Hơn nữa, khi đã xuất vốn cho vay để nhà đầu tư đưa vào công trình, chắc các ngân hàng sẽ không bao giờ muốn hợp đồng bị hủy bỏ hay chấm dứt. Bởi vậy, các quy định về hardship như hiện nay của PICC có thể sẽ không thích hợp cho các hợp đồng loại này, hoặc nếu có thì việc xử lý hậu quả theo một cách khác, phù hợp với mong muốn và bản đảm sự công bằng hơn giữa các bên trong loại hợp đồng này.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế thế giới, pháp luật cũng không thể “ngoài cuộc” mà cần phải tiếp thu có chọn lọc các quy định tiên tiến của pháp luật các nước và các nguyên tắc, tập quán thương mại về pháp luật hợp đồng, làm cơ sở cho việc bổ sung và hoàn thiện hơn pháp luật hợp đồng Việt Nam. Việc tiếp thu phải tính đến những điểm bất cập và chưa hoàn thiện của các quy định trong pháp luật các nước, từ đó loại bỏ được những khiếm khuyết của các quy định của pháp luật các nước đã được ban hành trước đây, đồng thời làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng trở nên hiện đại, tương thích với pháp luật của các nước và của các tổ chức quốc tế, nhưng cũng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và trình độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta.
4.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam về điều khoản hardship bước đầu được thể hiện trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Chính sự thiếu sót này đã làm cho cả cơ quan tư pháp lẫn các bên liên quan lúng túng khi giải quyết các tranh chấp liên quan vì thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết. Thực tiễn xét xử cũng có xuất hiện các tranh chấp loại này, nhưng cách giải quyết hiện nay giữa các tòa án là chưa nhất quán, cũng như chưa đề cập tới điều khoản hardship trong việc giải quyết tranh chấp này. Để hoàn thiện hơn pháp luật hợp đồng Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho ứng xử của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, và cho tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan, thiết nghĩ những thiếu sót này cần phải được bổ sung cụ thể, theo hướng: xác định rõ ràng về căn cứ, điều kiện, phạm vi áp dụng và hậu quả pháp lý của điều khoản hardship, như quy định cơ chế cho phép tòa án buộc các bên đàm phán lại hợp đồng hoặc tuyên chấm dứt hợp đồng nếu các bên không thỏa thuận lại được, khi xảy ra sự kiện khách quan, không lường trước được dẫn đến việc thực hợp đồng trở nên đặc biết khó khăn, tốn kém hay làm giảm cơ bản thu nhập từ hợp đồng của bên có nghĩa vụ. Cụ thể là cần thiết kế thêm 3 loại điều khoản sau:
(i) Điều luật quy định rõ khái niệm hardship: có thể vẫn sử dụng thuật ngữ “hardship” hoặc Việt hóa thuật ngữ này với tên gọi, ví dụ “việc điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi”; đồng thời điều luật cần quy định rõ nội hàm, cũng như cần chỉ rõ phạm vi áp dụng của điều khoản này, với các dấu hiệu pháp lý cụ thể và chặt chẽ. Quy định về điều khoản này cũng cần phải được đặt t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam.doc