Mở đầu tr1.
Phần 1: Những vấn đề chung về kinh doanh đa cấp .tr4.
1.1_ Quan niệm về kinh doanh đa cấp .tr4.
1.1.1_ Thế nào là kinh doanh đa cấp?.tr4.
1.1.2_ Cỏc chủ thể tham gia vào kinh doanh đa cấp .tr4.
1.1.3_ Nội dung của kinh doanh đa cấp .tr5.
1.1.4_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp và vai trũ của kinh doanh đa cấp tr11.
1.1.4.1_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp .tr11.
1.1.4.2_ Vai trò của kinh doanh đa cấp tr14.
1.1.5_ Vấn đề tiờu thụ sản phẩm cụng nghiệp .tr15.
1.2_ Kinh nghiệm nước ngoài .tr18.
Phần 2: Thực tế của Việt Nam và kiến nghị .tr19.
2.1_ Thực tế của Việt Nam .tr19.
2.1.1_ Ưu điểm tr19.
2.1.2_ Nhược điểm .tr20.
2_ Kiến nghị .tr26.
KẾT LUẬN .tr28.
29 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp và vai trũ của kinh doanh đa cấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó nghĩa là bạn sẽ kiếm được 195.300 đôla trong một tháng.
Tất nhiên, đa số các nhà hoạt động theo mạng không làm ra được nhiều tiền như vậy. Mệt mỏi thường đánh bại 90% các nhà phân phối của bạn trước khi họ có thể nhận được một khoản thu nhập đáng kể nào đó. Cấp số nhân có khuynh hướng kết thúc ở tầng thứ ba hoặc tầng bốn. Và trong hầu hết các sự vụ kinh doanh, các nhà phân phối phải đổ ra rất nhiều tiền của và sức lực để duy trì khả năng cạnh tranh và có được các khoản thu nhập cao.
Nói ngắn gọn, kinh doanh theo mạng- đó chính là ngành thương mại thực sự. Nó có những vấn đề và sự mạo hiểm như một ngành kinh doanh thực sự. Đây không phải là trò chơi may rủi. Thành công chính là ở sự lao động cần cù, số lượng tiền nhất định huy động ra và lòng kiên trì cao độ.
Thành công không đến sau một đêm. Nhưng nếu bạn hoàn toàn hiến mình cho công việc, bạn sẽ tìm thấy cái mà bạn đang tìm kiếm.
Khi nói về phương thức kinh doanh này, tiến sỹ Nguyễn Đức Trí- Đại học Kinh tế Tp.HCM có viết: “Nhu cầu về sản phẩm của khách hàng thường được hình thành từ sự tiếp xúc với các thông tin quảng cáo và nhà cung cấp. Một số lại đến từ sự giới thiệu của bạn bè hay người xung quanh Nhưng nếu thị trường phân tán trên quy mô rộng lớn và sản phẩm chỉ có giá trị vừa phải thì lối tiếp xúc như trên sẽ gặp khó khăn. Thứ nhất, người bán hay công ty sẽ không có đủ thời gian để tiếp xúc với tất cả mọi người. Thứ hai, chi phí tổ chức (như phòng ốc, địa điểm, mạng lưới tiếp xúc) có thể vượt xa thu nhập mà sản phẩm có thể mang lại.
Tiếp thị mạng lưới tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong trường hợp này. Thay vì các địa điểm cố định, công ty nhờ nhân viên bán hàng (thường được gọi là Người phân phối) đến chủ động với khách hàng. Thay vì dùng chuyên gia, họ dùng tài liệu hướng dẫn cặn kẽ kèm theo huấn luyện về sản phẩm và nhờ vậy người phân phối nào cũng có thể hiểu và giải thích cho khách hàng được. Thay vì trả lương , họ chia hoa hồng với người phân phối căn cứ trên doanh thu đạt được. Thay vì cung cấp đồng nghiệp, họ cho phép người phân phối tự tìm thêm đồng nghiệp để chủ động làm việc của mình có hiệu quả.
Mô hình kinh doanh theo mạng lưới đa tầng thực chất không khác gì cơ cấu hành chính của một công ty kinh doanh truyền thống. Người chủ trong cơ cấu hành chính truyền thống hưởng lợi nhuận trên giá trị thặng dư do những người nhân viên tạo ra, nhưng người chủ thông thường là phải trả lương cho nhân viên. Mô hình kinh doanh theo mạng thì cũng tương tự, thu thập là động cơ kích thích nỗ lực của mỗi thành viên và là cỗ máy vận hành của cả mạng lưới. Khi một thành viên tạo ra doanh thu, anh ta tạo một khoản thu nhập cho mình (thu nhập chủ động) và một khoản khác cho một đồng nghiệp cấp trên của mình. Điều này cũng tương tự như khi làm việc cho một công ty, nhân viên tạo ra thu nhập cho mình và cho cả công ty bao gồm nhiều người.
Điều khác biệt là mỗi thành viên trong mạng lưới còn có một đồng nghiệp cấp dưới do chính mình tuyển dụng và huấn luyện. Bởi vậy khi số đồng nghiệp này tạo ra doanh thu thì cá nhân thành viên đó cũng được hưởng một tỷ lệ thu thập theo quy định nào đó (thu thập thụ động). Nếu đồng nghiệp cấp dưới càng đông thì số thu nhập này càng nhiều. Bởi vậy, các thành viên càng tuyển dụng và huấn luyện đồng nghiệp cấp dưới nhiều bao nhiêu thì thu nhập thụ động của họ càng cao bấy nhiêu và các thành viên đều không phải trả lương cho đồng nghiệp cấp dưới.
Theo lý thuyết marketing, hình thức kinh doanh đa cấp hay hoạt động bán hàng theo kiểu “truyền tiêu” thực chất là một dạng bán hàng trực tiếp không thông qua cửa hàng bán lẻ. Hoạt động bán hàng trực tiếp thường diễn ra tại các địa điểm như tại nhà của người mua. Nhân viên tiếp thị của sản phẩm hoặc dịch vụ thường được gọi là tư vấn, đại diện, đại lý hoặc nhà phân phối liên hệ trực tiếp với khách hàng, đa số là người quen, bạn bè, hàng xóm để giới thiệu và bán sản phẩm. Theo thống kê của Bộ Thương mại, đã có trên 20 doanh nghiêp áp dụng hình thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay. Mặt hàng được kinh doanh đa cấp chủ yếu là thực phẩm bổ dưỡng, máy masage, mỹ phẩm. Tỷ lệ hoa hồng của phương thức kinh doanh truyền thống, khá hấp dẫn đối với những người tham gia mạng lưới. Việc quản lý hình thức kinh doanh mới mẻ này được quy định bởi Luật cạnh tranh, đã được Quốc hội thông qua năm 2004, và có hiệu lực từ ngày 1-7-2005. Các nghị định hướng dẫn luật này sẽ có quy định cụ thể về hình thức kinh doanh đa cấp. Hiện tại, việc xử lý các sai phạm đối với hoạt động kinh doanh đa cấp được quy định tại Nghị định số 175/2004/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại.
1.1.4_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp và vai trò của kinh doanh đa cấp.
1.1.4.1_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp.
Trong kinh doanh đa cấp điều kiện để bảo đảm hiệu quả kinh doanh chính là sản phẩm và sơ đồ kinh doanh.
Sản phẩm phải là hàng tiêu dùng thường xuyên, nhu cầu 100% và sản phẩm phải đảm bảo đầy đủ bốn yếu tố là phải độc đáo, độc quyền; phải rẻ; phải dễ dùng; và phải có tính nhu cầu.
Sơ đồ kinh doanh hay chính sách kinh doanh như chính sách trả thưởng phải công bằng. Người gia nhập sau, nếu năng động hơn người đi trước vẫn có thể có thu nhập cao hơn. Ngoài ra trong sơ đồ kinh doanh hàng tháng phải có điểm năng động. Yếu tố điểm năng động rất quan trọng, nó đảm bảo mạng lưới của bạn luôn luôn sống, tức là luôn luôn dao động.
Trong giai đoạn hiện nay, ý thức tiêu dùng và trình độ của mọi người đã có sự nâng cao rõ rệt. Nhu cầu đòi hỏi của con người ngày càng tăng. Những sản phẩm có tính năng độc đáo, kích thích nhu cầu tiêu dùng mà lại rẻ sẽ tác động một cách tích cực đến họ. Khi đó nếu sản phẩm càng dễ sử dụng càng làm cho khách hàng càng cảm thấy thích thú.
Trước hết cần nhấn mạnh rằng hầu hết các loại sản phẩm mà công ty bán hàng đa cấp kinh doanh đều là các loại sản phẩm tiêu dùng có tính đặc thù và độc đáo mà không thể mô tả cặn kẽ theo phương pháp thông tin đại chúng.
Hiện nay kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường là thuận mua vừa bán, người tiêu dùng hoàn toàn có quyền chọn lựa và quyết định mua sản phẩm hay không vì chính họ là người có nhu cầu. Không ai có thể buộc giá bán của một chiếc xe Dream Nhật phải bằng giá của một chiếc Dream Trung Quốc cả dù biết rằng là cả hai loại đều có cùng phân khối như nhau, cấu trúc ngoại hình như nhau, tất nhiên là vì chất lượng khác nhau, độ bền khác nhau, chế độ bảo hành khác nhau. Có một điều không hợp lý đó là khi sản phẩm của doanh nghiệp có thương hiệu độc quyền, tính năng sử dụng tốt, chất luợng bảo đảm, nhu cầu lại lớn, được bán với giá cao thì dư luận lạo chỉ trích là bán với giá “trời ơi”, giá tăng lên gấp nhiều lần so với giá gốc (chẳng một doanh nghiệp nào có thể tồn tại khi bán sản phẩm bằng giá thu nhập )Thế nhưng khi sản phẩm của doanh nghiệp bán không được, bị ế ẩm, bị thua lỗ thì có Cơ quan ngôn luận hay Cơ quan nhà nứơc nào bù lỗ cho doanh nghiệp không?
Bản chất của nền kinh tế thị truờng là lời ăn lỗ chịu, vấn đề quan trọng là người mua chấp nhận đuợc và tất nhiên doanh nghiệp cũng chấp nhận đuợc. Trên thực tế Nhà nước chỉ quản lí về giá của một số mặt hàng như dược phẩm, xăng dầu, điện, cước viễn thông Hầu hết những mặt hàng còn lại Nhà nước không quản lí giá cả mà chỉ quản lý bằng cách thu thuế đầu vào và đầu ra của nó, cho doanh nghiệp được quyền tự do hạch toán. Nếu đứng ở góc độ quản lý, Nhà nước suy cho cùng cũng khuyến khích doanh nghiệp bán được sản phẩm với giá cao, vì sau khi trừ chi phí nhà nước sẽ thu thuế doanh nghiệp cao. Nhưng bán với giá cao thì người tiêu dùng lại mua không nổi, vì thế doanh nghiệp chỉ bán được với số lượng ít nên sẽ không tồn tại được lâu dài. Còn nếu bán với giá thấp hơn giá thành thì doanh nghiệp cũng thua lỗ. Từ đây có thể thấy rằng việc quyết định giá cả của các sản phẩm trên thị trường không phải doanh nghiệp muốn bán bao nhiêu thì bán mà giá cả phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố sức mua của người tiêu dùng, nhu cầu của tình hình thị trường, các khoản chi phí dịch vụ và các khoản thuế đóng nộp Nhà nước.
Nếu cho rằng sản phẩm nâng cao giá cao hơn so với thị trường thì bắt buộc phải có một đối tượng so sánh cụ thể (giống nhau hoàn toàn về chủng loại, quy cách, công dụng, nhãn hiệu nhưng giá lại cao thấp khác nhau) chứ không thể lập luận chung cho rằng giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc (tức thu nhập chưa thuế ) để rồi phủ định thì không hợp lý. Nếu bán sản phẩm với giá cao mà người tiêu dùng chấp nhận, thị trường có nhu cầu thì chỉ có thể khẳng định là sản phẩm đó hoặc là có chất lượng tốt, hoặc là có phương pháp tiếp cận thị trường hiệu quả hoặc là có chế độ trả luơng hợp lý, hoặc là có hệ thống phục vụ hậu mãi chu đáo Tất cả những điều đó là những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại, khả năng cạnh tranh và tiềm lực phát triển của doanh nghiệp .Nếu như Nhà nước cũng đã không có quy định về giá sản phẩm của doanh nghiệp thì dư luận thiết nghĩ cũng không nên can thiệp vào vấn đề này. Còn nếu dư luận cho rằng việc doanh nghiệp nâng cao giá để trả hoa hồng cao để bán sản phẩm thì không hợp lý. Ví dụ như tôi đưa cho một nguời nào đó một bao thuốc 555 với giá 15.000, nhờ anh ta đem ra ngoài bán với giá 45.000 (hoặc cao hơn thế nữa), sau đó chỉ cần gửi lại cho tôi 15.000, còn 30.000 còn lại dùng làm hoa hồng cho anh ta thì thử hỏi liệu người đó có bán được với giá như thế không? Liệu có người nào chịu mua không? Vấn đề là ở chỗ là sản phẩm đó tính năng công dụng thực tế như thế nào, mọi người có nhu cầu hay không. Chứ đâu phải là nâng giá cao hơn thực tế rồi dùng số tiền nâng lên làm hoa hồng cao trả cho người bán là có thể bán được sản phẩm.
1.1.4.2_ Vai trò của kinh doanh đa cấp.
Kinh doanh đa cấp góp phần không nhỏ cho nền kinh tế. Đối với xã hội , phương thức này mở rộng cơ hội việc làm cho nhiều người. Những người chưa có việc làm hay hiện nay là nội trợ cũng có thể tham gia kiếm thêm thu nhập. Kinh doanh đa cấp là cách bán hàng rất có hiệu quả. Vấn đề đặt ra hiện nay là trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển mình để hội nhập còn thiếu lực lượng lao động kỹ thuật cao, chưa đáp ứng đủ các nhu cầu hiện nay. Trong khi giới trẻ, sinh viên, công nhân, lao động phổ thông, người thất nghiệp, trình độ thấp, nông dân nghèo đang là gánh nặng cho xã hội, vấn đề giải quyết việc làm cho họ chính là một áp lực không nhỏ đối với các nhà lãnh đạo và các cơ quan hữu quan. Họ có thể đến các công ty bán hàng đa cấp làm thêm hay làm chuyên nghiệp, tạo thêm thu nhập cho bản thân, nâng cao chất lượng cho cuộc sống, giảm áp lực gia đình và xã hội. Doanh thu bán hàng tăng lên rất cao và rõ rệt, tạo thu nhập cao cho những người tham gia. Phương thức này tiết kiệm được rất nhiều cho chi phí quảng cáo và cho chính bản thân người tiêu dùng. Ngân sách nhà nước cũng được các công ty kinh doanh đa cấp góp một phần không nhỏ thông qua thuế mà công ty phải đóng cho Nhà nước.
1.1.5_ Vấn đề tiêu thụ sản phẩm công nghiệp.
Về vấn đề tiêu thụ sản phẩm, những người tham gia hợp tác tiêu thụ cũng có rất nhiều băn khoăn, lo lắng. Họ có thể thắc mắc như: Dù sao, bán hàng mà không quảng cáo vẫn không hấp dẫn người tiêu dùng. Ai dám tin vào sản phẩm không quảng cáo?
Vậy chúng ta hãy thử tìm xem đã có ai quảng cáo Dream II chưa? Tự bản thân chất lượng hàng hoá là một quảng cáo siêu việt nhất. Người tiêu dùng là quan toà phán xét có nên dùng sản phẩm nào đó hay không chứ không phải quảng cáo. Tuy nhiên, nếu xét kỹ thì kinh doanh theo mạng là loại hình kinh doanh siêu quảng cáo chứ không phải là không có quảng cáo. Bởi vì các công ty kinh doanh theo mạng sử dụng chính người tiêu dùng làm người quảng cáo và vì vậy để tồn tại và phát triển được, các công ty kinh doanh theo mạng phải sản xuất những mặt hàng độc đáo có chất lượng cao.
Các công ty kinh doanh theo mạng không phát tờ bướm trong đó ghi rõ thành phần, công thức, giấy đăng ký chất lượng.Tại sao lại như vậy? Có tờ bướm thì dễ thuyết phục người tiêu dùng hơn chứ?
Thực ra thì bạn thử tưởng tượng xem nhé, bạn vừa bước ra khỏi siêu thị, có người phát cho bạn tờ bướm với đầy đủ nội dung mà bạn vừa nêu và còn khẳng định đây là hàng cực tốt, bạn có chạy ngay đến địa chỉ ghi trong tờ bướm để mua hàng không? Giả sử trong tờ bướm ghi là số lượng sản phẩm hạn chế, chỉ ưu tiên cho ai đến trước, bạn có chạy ngay đến “xí chỗ” không? Kinh doanh theo mạng dựa trên giao tiếp giữa con người với con người. Bạn có thể mới gặp người giới thiệu lần đầu tiên, bạn có thể chưa hề nghe đến sản phẩm đó, nhưng phong thái nói chuyện, tư cách và hưng phấn của người giới thiệu có thể gây cho bạn niềm tin, sự cảm tình và bạn có thể đồng ý thử ngay sản phẩm. Những tờ bướm, hướng dẫn chỉ giúp cho bạn 3% ý thức còn giao lưu chính là ở tiềm thức (chiếm đến 97%), mà giao lưu thức chỉ có trong giao tiếp giữa con người với con người, máy móc kỹ thuật không làm thay được.
Các công ty kinh doanh theo mạng hàng năm đều cho ra đời những sản phẩm mới. Việc tăng chủng loại sản phẩm nhằm tăng đối tượng tham gia và đảm bảo phục vụ các đối tượng khách hàng khác nhau. Tuy nhiên, không thể so sánh giữa công ty có một loại sản phẩm hay công ty có 500 loại sản phẩm xem công ty nào phát triển hơn.
Phải thấy rõ rằng đối tượng khách hàng của các cônh ty bán hàng đa cấp đều thuộc ba nhóm sau: Thứ nhất là những người chỉ đơn thuần có nhu cầu sử dụng sản phẩm, những người này mua sản phẩm chỉ để sử dụng, tuy nhiên nếu họ có hứng thú với việc giúp công ty quảng cáo thì họ vẫn có quyền làm người phân phối, còn nếu không thì công ty cũng không ép họ. Thứ hai, họ là những người vừa có nhu cầu sử dụng sản phẩm lại có nhu cầu làm người phân phối, tất nhiên họ là những người nhiều nhất. Thứ ba, họ là những người không có nhu cầu về sử dụng sản phẩm nhưng lại có nhu cầu làm người phân phối để mở rộng mạng lưới tiêu thụ, họ dùng sản phẩm như một công cụ cho việc mở rộng mạng lưới, họ có thể cho người nhà, bạn bè, khách hàng mình sử dụng sản phẩm để họ thấy được hiệu quả của sản phẩm một cách thực tế để từ đó họ có nhu cầu mua sản phẩm để sử dụng. Và lẽ tất nhiên, mọi đối tượng trên đều có quyền tìm hiểu và quyết định cho mình. Họ đều biết rõ hơn ai hết nhu cầu như thế nào. Thiết nghĩ không ai lại bỏ tiền túi ra để làm một điều vô bổ hoặc để mua sản phẩm không chất lượng trong khi ý thức tiêu dùng ngày càng cao như hiện nay. Còn nếu đặt vấn đề rằng tại sao người ta không có nhu cầu sử dụng vẫn phải mua sản phẩm khi muốn tham gia làm người phân phối thì vấn đề cũng có liên quan đến nhu cầu kiếm tiền của họ. Trong kinh doanh, một người khi muốn trở thành một đại lý phân phối sản phẩm cho mộy công ty bất kỳ nào đó thì chưa hẳn họ đã có nhu cầu sử dụng sản phẩm đó, thậm chí họ còn không sử dụng trong suốt thời gian dài kinh doanh của mình. Nhưng vì họ muốn có được lợi nhuận từ việc hưởng hoa hồng đại lý nên họ vẫn phải bỏ ra hàng chục, hoặc có lúc hàng trăm triệu đồng để mua sản phẩm làm hàng mẫu, hàng dự trữ hoạc thế chân cho công ty cung ứng, đó là quy luật dùng tiền kiếm tiền rất phổ biến hiện nay. Bất kỳ một sản phẩm hay một sự việc ra đời nó chỉ có thể phục vụ nhu cầu cho một tầng cấp nhất định nào đó trở lên mà thôi chứ không thể nào cùng một lúc đáp ứng nhu cầu của mọi tầng cấp trong xã hội. Nếu muốn làm đại lý mà không thoả những điều kiện trên thì việc có những khoản lợi nhuận cao là điều không thể được. Nếu chỉ làm công mà muốn có thu nhập như một người chủ thì không hợp lý.
Riêng về việc để có tiêu dùng nhiều người có vay mượn đó là sự tự nguyện, là cách khắc phục khó khăn của từng người mỗi khi họ có nhu cầu, lẽ nào đây cũng là vấn đề bất hợp lý cần thiết phải công kích? Chẳng lẽ việc một người dân mượn tiền để tiêu dùng, một sinh viên vay tiền để đóng học phí hoặc một doanh nghiệp vay tiền để đầu tư kinh doanh khi có nhu cầu là không hợp lý? Phải thực sự khách quan xem rằng bỏ ra cái gì và có được cái gì sau đó chứ? Còn nếu cho rằng người tham gia vì việc vay mượn tiền để rồi làm không được, bị thất bại, nợ nần chồng chất để rồi sau đó cho rằng bị lừa đảo thì cũng không đúng. Vì trong quá trình kinh doanh bất kỳ một lĩnh vực nào thì việc thành công hay thất bại phụ thuộc vào rất nhiều khả năng phán đoán và nỗ lực của mỗi người, chính họ biết rõ hơn ai hết điều kiện của mình có phù hợp hay không, năng lực của mình có làm được hay không, nhu cầu của mình có thật sự cần thiết lắm hay không và chính họ là những người có đủ thời gian tìm hiểu, suy nghĩ và có quyền đưa ra quyết định cho riêng mình. Vì vậy thiết nghĩ kết quả của việc kinh doanh thành công hay thất bại chính họ phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm chứ không thể nào đổ tội cho ngành nghề, cho hoàn cảnh. Lẽ nào những người nông dân bị thiệt hại nặng nề qua dịch cúm gà vừa qua đều cho rằng mình cũng bị lừa đảo? Có những người vay đến hàng trăm triệu đồng để đầu tư nuôi tôm sú nhưng kết quả là tôm chết, phải bán ruộng bán nhà để trả nợ. Thế ai là người lừa họ? Nhiều nhà kinh doanh vay ngân hàng hàng tỷ đồng để mở công ty, do làm ăn thua lỗ nên phải phá sản và ngồi tù Có ai trong họ cho rằng chính nghành nghề mà họ kinh doanh đã lừa họ hay không? Kinh doanh bao giờ cũng tồn tại rủi ro trong đó, tuy nhiên ai là người có thể giảm thiểu được mức rủi ro xuống mức thấp nhất, người đó sẽ có cơ hội thành công cao nhất.
1.2_ Kinh nghiệm nước ngoài.
Trên thế giới bán hàng đa cấp đã xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XX. Và hiện nay ở các nước tư bản trên thế giới, khoảng 90% người dân tham gia kinh doanh họ kinh doanh theo kiểu bán hàng đa cấp này. Họ đã tiếp thu những kiến thức bổ ích và tiên phong đi trước chúng ta để từ đó ta đúc rút được những bài học quý báu, bài học kinh nghiệm, bài học xương máu trong vấn đề kinh doanh và quản lí kinh doanh. Đặc biệt là kinh doanh đa cấp.
Nổi tiếng trong các thủ lĩnh kinh doanh theo mạng đó là Richaed Poe. Ông đã trải qua những thời kỳ MLM hình thành và phát triển. Từ đó cho ra đời những cuốn sách để lại những bài học vô cùng quý báu. Như là: mình tự nhận biết bản thân mình như thế nào? Phải lựa chọn công ty ra sao? Các cạm bẫy chết người đối với những người mới tham gia gia nhập; các phương pháp bán hàng; các phương pháp đỡ đầu của những người đi trước; Ngoài ra các dạng sơ đồ kinh doanh cũng được đưa ra cụ thể để chúng ta nhận biết và phân biệt, từ đó phát triển cho phù hợp với môi trường, phù hợp với xu thế.
Bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, kinh doanh theo mạng thực sự không phải là dễ. Nó đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân ở mức rất cao. Công việc nào cũng vậy, khó khăn luôn ở phía trước nhưng vượt qua nó mới là điều quan trọng. Được kế thừa phương thức kinh doanh bán hàng đa cấp từ những nước phát triển, Việt Nam có lợi thế hơn hẳn là được đúc rút kinh nghiệm của những người đi trước, được họ đưa ra những cách thức bán hàng, những chiến lược để từ đó mình vận dụng vào thực tế một cách có hiệu quả.
Hấp dẫn nhất là cách thức đào tạo cho người tham gia kinh doanh rất có bài bản. Những người phân phối, những tuyến dưới chính là những đồng nghiệp với nhau, giúp đỡ, hỗ trợ nhau rất tốt trong vấn đề kinh doanh.
Kinh doanh theo mạng chính là con đường để chúng ta đạt đến đỉnh cao của một trong những hệ thống kinh tế đang phát triển nhanh nhất thế giới.
Phần 2: Thực tế của Việt Nam và kiến nghị.
2.1_ Thực tế của Việt Nam.
2.1.1_ Ưu điểm.
Kinh doanh theo mạng đã xâm nhập vào Việt Nam được một thời gian. Trong thời gian đó phương thức kinh doanh này đã để lại những dấu ấn tốt đẹp cho những người kinh doanh chân chính.
Thực tế, cho thấy bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh tốt, đem lại tổng doanh thu và lợi nhuận rất cao cho cả những người sản xuất và những người tham gia kinh doanh. Hiệu quả kinh tế thật đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, người tiêu dùng cũng được lợi rất nhiều. Vì không phải chịu chi phí cho quảng cáo nên người tiêu dùng cuối cùng cũng không phải chịu thêm khoản chi phí cho sản phẩm trong quá trình đến tay họ như là kiểu kinh doanh truyền thống. Họ thật sự hài lòng với chất lượng sản phẩm và giá cả phù hợp.
Ngoài ra kinh doanh theo mạng mà các công ty làm ăn chân chính đã mang lại cho người lao động thất nghiệp những công ăn, việc làm, cho những người có thời gian nhàn rỗi kiếm thêm thu nhập. Họ sẽ trở thành người phân phối cho công ty và hưởng hoa hồng bán sản phẩm theo tỷ lệ quy định.
Trong thời gian đầu gia nhập WTO, Việt Nam càng xúc tiến thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, hình thức kinh doanh được áp dụng như một giải pháp hữu hiệu cần thiết đối với một nền kinh tế mở.
Đối với Nhà nước, các công ty kinh doanh theo mạng đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Giúp cho nhà nước có thêm những thu nhập đáng kể phục vụ người dân Việt Nam.
2.1.2_ Nhược điểm.
Tại Việt Nam, kinh doanh theo mạng đó xõm nhập vào nước ta vào năm 2000. Đõy là thời điểm cú nhiều cụng ty làm ăn bất chớnh và đó gõy tiếng xấu trong dư luận. Mặt khỏc, một số cụng ty làm ăn chõn chớnh cũng cú những thành viờn vỡ ham lợi mà đỏnh mất phẩm cỏch của chớnh mỡnh. Trong xó hội cú nhiều luồng thụng tin trỏi ngược nhau. Bỏo chớ, truyền hỡnh luụn đưa tin về kinh doanh theo mạng. Cũng trong thời gian này, bộ Thương mại nước ta đó soạn thảo luật cạnh tranh để phõn biệt đõu là những cụng ty làm ăn chõn chớnh, đõu là những cụng ty làm ăn bất chớnh với mục đớch quản lý được mụ hỡnh kinh doanh này (giống như cỏc nước khỏc trờn thế giới).
Nhìn chung, Việt Nam vẫn còn có rất nhiều thành kiến đối với hình thức kinh doanh nay. Đơn giản là vì đã thật sự xuất hiện rất nhiều công ty lừa đảo mang danh nghĩa công ty bán hàng đa cấp. Nhưng cũng do sự nhìn nhận không ít của một số nhà báo không thật sự đồng tình với hình thức này. Như có một tờ báo ra hồi tháng 6 năm 2003: “Hàng trăm tỷ hoa hồng người tham gia mạng lưới được hưởng chỉ là một phần nhỏ phần lớn còn lại các ông chủ đã khôn khéo vơ vào túi riêng và đem ra khỏi Việt Nam”? Đọc qua bài viết này không ít người lập tức nghĩ rằng đây là một hình thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, một con đường chảy tiền ra nước ngoài. Nhưng trên thực tế thì vẫn phải được xem xét lại. Bối cảnh Việt Nam hiện đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập, nỗ lực của các nhà lãnh đạo là làm sao có thể thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện thông thoáng về hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn lao động cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu dư luận cho rằng việc các nhà đầu tư nước ngoài đem tiền, thiết bị công nghệ, sản phẩm của họ tới Việt Nam chỉ để đầu tư hoặc chỉ để bán chứ không được mang lợi nhuận về thì có lẽ những nỗ lực thu hút đầu tư của Chính phủ cũng chỉ là vô ích và càng không cần thiết phải mở cửa giao lưu hội nhập để làm gì.
Tại sao không nghĩ là việc đầu tư để mang lại lợi nhuận là hợp lý đối với bất kỳ lĩnh vực nào? Họ đầu tư hàng tỷ đồng thì họ đem về lợi nhuận cho bản thân là hợp lý chứ? Vấn đề quan trọng là họ đã làm tốt nghĩa vụ thuế cho Nhà nước, họ đã nộp thuế nhập khẩu, họ làm đúng theo quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư nước ngoài, họ đã cung cấp sản phẩm chất lượng tốt phục vụ cho nhu cầu cuộc sống người Việt Nam, họ mang tiến bộ kỹ thuật đến cho Việt Nam, họ huấn luyện đào tào tính chuyên nghiệp cho nhân công, họ tạo cơ hội việc làm cho lao động Việt Nam, góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế đất nước Nếu chỉ thấy họ là những người vơ vào túi riêng mà không thấy lợi ích họ mang tới cho đất nước thì làm sao có thể chấp nhận được? Dù cải cách đã gần hai thập kỷ qua nhưng tư tưởng khép kín, bảo thủ tương tự vẫn chưa thật sự chấm dứt trong cách nghĩ của nhiều ngươi. Như thế há chẳng phải cố ý bóp méo sự thật làm người độc hiểu sai về tầm quan trọng cũng như nhu cầu bức thiết của việc thu hút đầu tư nước ngoài đang được xem là một trong những vấn đề mang tính chiến lược kinh tế của quốc gia.
Tuy nhiên, bất cập nhất là việc người phân phối tuyên truyền quá sự thật về công năng sản phẩm và thu nhập của người tham gia. Bản chất của quảng cáo hay tiếp thị là quá trình thể hiện mặt tốt của một sản phẩm hay sự việc. Bán hàng đa cấp phần lớn dựa vào nguyên lý truyền khẩu và chia sẽ cảm nhận qua quá trình sử dụng thực tế sản phẩm do những người xung quanh bao gồm người thân, bạn bè và những người quen biết. Việc tuyên truyền quá sự thật về công năng và thu nhập của những người tham gia khách quan mà nói không phải là không có nhưng nó chỉ là một phần rất ít vì nó đi ngược với nghành nghề này.
Trong giai đoạn hiện nay, ý thức tiêu dùng và trình độ của mọi người đã có sự nâng cao rất rõ. Nếu một người nói một sản phẩm trị bách bệnh hoặc không cần mua làm gì mà mỗi tháng vẫn thu nhập trên chục triệu đồng thì chắc chắn một điều rằng đứa bé cũng không tin vào điều đó. Nói đúng hơn khi tuyên truyền như thế thì chính họ đã làm tổn hại uy tín cho chính mình. Chính vì vậy, dù là người tiêu dùng đơn thuần hay là người kinh doanh bán hàng họ đều nghĩ đến vấn dề này, ngoài ra còn sự phán đoán của người mua chứ không phải muốn nói ra sao thì nói và cũng không phải nói ra sao thì người ta cũng mua.
Riêng về phía công ty bán hàng đa cấp thông thường có những quy định nội bộ về việc xử lý những trường hợp tuyên truyền quá mức về công
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0799.doc