Điều trị bệnh truyền nhiễm

Penicillin được lấy từmột sốnấm sợi Penicillum rotatumvà

Penicillum crysogenum. Có nhiều loại penicillin (F, G, X, K), trong đó

penicillin G là tốt nhất. Các dạng penicillin vềthực chất khác nhau ởcấu

trúc nhóm bên còn nhóm chức tác dụng diệt khuẩn đều là vòng beta-lactam. Các dạng khác nhau có tính chất vật lý, hóa học khác nhau, do đó

tính diệt khuẩn, tính tiện dụng, bảo quản và khảnăng duy trì nồng độ điều

trịtrong cơthểkhác nhau. Ởliều thấp penicillin kìm hãm vi khuẩn, liều

cao làm dung giải vi khuẩn. Tác dụng tốt đối với các vi khuẩn Gram dương

(liên cầu khuẩn, tụcầu khuẩn, vi khuẩn uốn ván, đóng dấu lợn, nhiệt

thán,.). Tuy nhiên chất kháng sinh này có tác dụng yếu đối với vi khuẩn

tụhuyết trùng và không có tác dụng đối với vi khuẩn lao, sẩy thai truyền

nhiễm (các Brucella), phó thương hàn và các virut. Khi tiêm vào bắp thịt,

penicillin G thấm rất nhanh vào máu, duy trì lâu được hàng giờtrong các

tổchức, tuy nhiên khó thấm vào các khớp, màng phổi, màng tim, phúc

mạc, không thấm vào dịch não - tủy, hầu hết bài tiết qua thận. Trong khi

đó, penicillin V nhờtính thấm tốt qua niêm mạc ruột và đềkháng với axit

dạdày nên có thể

pdf29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2980 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều trị bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác chất kháng sinh diệt khuẩn vào kỳ đầu của bệnh, sau đó sử dụng các chất kháng sinh chế khuẩn. Các thuốc kháng sinh diệt khuẩn như penicillin và 10 dẫn xuất, oxacyclin, ampicillin, carbenicillin, xeporin, gentamycin, ristomycin,... Các thuốc kháng sinh chế khuẩn bao gồm erythromycin, oleandomycin, lincomycin, furidin, tetracyclin, morfocyclin, levomycetin (chloramphenicol),... Phân loại theo cơ chế tác động: nghĩa là xác định chính xác phần gen chịu tác động hoặc khâu nào đó trong quá trình chuyển hóa của tế bào vi khuẩn chịu tác động. Theo cách này có thể chia các chất kháng sinh thành 4 nhóm: - Các chất kháng sinh kìm hãm tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: penicillin, bacitracin, vancomycin,... - Các chất kháng sinh làm tăng thẩm thấu màng tế bào chất: streptomycin, polymyxin,... Hai nhóm trên có hiệu quả diệt khuẩn. - Các chất kháng sinh kìm hãm tổng hợp protein: chủ yếu gồm các chất kháng sinh tác động lên ribosom (chủ yếu) hoặc kìm hãm sự tổng hợp ARN. Thuộc nhóm này có chloramphenicol, streptomycin, kanamycin, tetracyclin,... - Các chất kháng sinh tác động lên di truyền: là những chất có tính ái lực cao đối với ADN hai sợi và ngăn trở quá trình tách đôi của chuỗi xoắn kép hoặc phong tỏa hệ thống enzym tham gia quá trình tổng hợp ADN. Ví dụ, actinomycin, novobiocin,... Hai nhóm sau có hiệu quả chế khuẩn. Phân loại theo họ: Cách sắp xếp này được coi là hợp lý hơn cả. Các chất kháng sinh tùy thuộc chủ yếu vào bản chất hóa học được chia thành các họ khác nhau. - Họ aminosid: gồm streptomycin, kanamycin, gentamycin, neomycin, framycetin, paromycin. - Họ tetracyclin: gồm tetracyclin, oxytetracyclin, chlortetracyclin, domycyclin, dimethylchlortetracyclin,... - Nhóm các chloramphenicol: chloramphenicol (chlorocid, levomycetin), thiamphenicol, synthomycin, eulevomycin,... được sản xuất chủ yếu bằng con đường hóa tổng hợp, ngày nay chloramphenicol cấm dùng trong thủy sản và thú y vì vấn đề dư lượng kháng sinh gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng (tuy vẫn sử dụng trong nhân y). - Các sulfamid: là họ gồm nhiều hợp chất khác nhau, những chất ban đầu có hoạt phổ rộng nhưng càng ngày càng phát hiện ra những chất có hoạt phổ hẹp. 11 - Các nitrofuran: furagin, furazolidon,... Các chất này gần đây bị cấm sử dụng trong thú y vì dư lượng của chúng trong thực phẩm gây tác hại đối với sức khỏe người tiêu dùng. - Họ beta-lactam gồm một số nhóm, như sau: Nhóm penicillin G (benzylpenicillin) và các phân tử gần gũi là những chất có tác dụng lên vi khuẩn Gram dương và dễ bị phân hủy bởi enzym penicillinaza do các vi khuẩn tiết ra. Nhóm methicillin - oxacillin và dẫn xuất là những chất có cấu trúc phân tử gần giống các penicillin nêu trên nhưng không bị penicillinaza phân hủy. Ampicillin là dẫn xuất penicillin có hoạt phổ rộng, tác động lên tất cả các vi khuẩn Gram dương. Cũng giống penicillin chất kháng sinh này cũng bị một số penicllinaza phân hủy. Cephalosporin có chung ba nhóm nhân beta-lactam, có hoạt phổ rộng như penicillin nhưng ít nhạy cảm với các penicillinaza. - Các dẫn xuất của axit izonicotinic: izoniazid (rimifon), etionamid,... Hoạt phổ hẹp (hoạt phổ chọn lọc) và có tác động lên các Mycobacterium. - Họ các macrolid có tác động lên các vi khuẩn Gram dương và một số vi khuẩn Gram âm thuộc họ Parvobacteriaceae (họ cũ, gồm Pasteurella, Brucella, Bordetella, Francisella, Malleomyces (Burkholderia)). Họ này gồm erythromycin, oleandomycin, spiramycin, lincomycin, katazamycin,... - Họ các synergistin gồm pristinamycin, verginiamycin,... - Họ các polymyxin gồm các chất có cấu trúc hóa học là polypeptid vòng, thường chỉ tác động lên vi khuẩn Gram âm: colistin, polymyxin,... - Nhóm các chất tác động lên vi khuẩn Gram dương có bản chất hóa học khác nhau: bacitracin, novobiocin, axit furidic, vancomycin, rifamycin SV,... - Nhóm các chất kháng sinh chỉ tác động lên vi khuẩn Gram âm: axit nalidixic,... - Các chất kháng sinh chống nấm: gồm nhiều loại, có bản chất hóa học khác nhau (xem kháng sinh chống nấm), thường dùng nistatin, griseofulvin, các azol. 3.2. Hoạt phổ của các loại chất kháng sinh 12 Tác động của các thuốc kháng sinh có tính chọn lọc hay có tính đặc hiệu, cũng nhờ vậy mà chúng có tính độc thấp đối với động vật trong khi tác động mạnh đến những loại vi sinh vật nhất định. Thuốc kháng sinh có tính đặc hiệu nghĩa là nó có tác dụng ngăn cản sự sinh sản hoặc tiêu diệt vi khuẩn nhóm này mà không có tác dụng đối với vi khuẩn nhóm khác. Tính đặc hiệu của một thuốc kháng sinh càng cao thì hoạt phổ của nó càng hẹp. Hoạt phổ của một chất kháng sinh được hiểu là tỷ lệ giữa các vi khuẩn mẫn cảm với chất kháng sinh đó so với toàn bộ giới vi khuẩn hay vi sinh vật. Các kháng sinh hoạt phổ rộng có tác dụng đối với cả vi khuẩn Gram âm lẫn vi khuẩn Gram dương, trong khi các kháng sinh có hoạt phổ hẹp chỉ tác động lên một số ít nhóm vi khuẩn. Chất kháng sinh có hoạt phổ càng rộng thì thường có độc tính càng cao đối với động vật do tính chọn lọc thấp. Nhờ độc tính chọn lọc thuốc kháng sinh có tính độc đối với vi khuẩn (vi sinh vật) mà không có tính độc đối với động vật và đây là điểm khác biệt cơ bản với các chất sát trùng (có tính độc với cả hai phía và tác động toàn bộ). Bảng dưới đây nêu hoạt phổ của một số kháng sinh đối với các vi khuẩn mầm bệnh cảm nhiễm tiêu biểu ở gia súc, gia cầm. 13 Bảng: Hoạt phổ của một số kháng sinh chủ yếu đối với một số vi khuẩn mầm bệnh tiêu biểu ở gia súc, gia cầm Mầm bệnh Hóa dược S t a p h y l o c o c c u s S t r e p t o c o c c u s E r y s i p e l o t h r i x C o r y n e b a c t e r i u m C l o s t r i d i u m t e t a n i B a c i l l u s a n t h r a c i s P a s t e u r e l l a B o r d e t e l l a A c t i n o b a c i l l u s H a e m o p h i l u s E s c h e r i c h i a c o l i S a l m o n e l l a K l e b s i e l l a P r o t e u s P s e u d o m o n a s p y o g e n e s L e p t o s p i r a S e r p u l i n a N ấ m M y c o p l a s m a R i c k e t t s i a C h l a m y d i a Các chất kháng sinh (nghĩa hẹp) Nhóm penicillin Penicillin G 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2 Benzyl penicillin procain 2 2 2 2 2 2 1 1 2 Dichloxysacillin 1 1 1 Nafcillin 1 1 1 Ampicillin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 1 2 Amoxicillin 1 1 1 1 1 1 Mesilinam 1 2 Aspoxicillin 1 1 Nhóm cephalosporin Cephalonium 1 1 1 1 1 2 Cephazolin 1 1 1 1 1 2 Cefloxim 1 1 1 1 1 2 Linkomycin 1 1 14 Colistin 1 1 2 1 1 2 Nhóm aminoglycosid(e) Streptomycin 1 1 1 1 1 1 1 1 2 Dihydrostreptomycin 1 1 1 1 1 1 1 1 2 Kanamycin 1 1 1 1 1 2 1 2 2 1 Fladiomycin 1 1 1 1 1 1 Gentamycin 1 2 1 1 1 2 Spectinomyci n 1 1 1 Aplamyc in 1 Nhóm macrolid(e) Erythromycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Oleandomycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Kitasamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Mypolamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Spiramycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Tylosin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Zusamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 Tirmycosi n 1 1 1 Chloramphenicol 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 Nhóm tetracyclin Tetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 Oxytetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 Chlortetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 Doxicyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 Terdecamycin 2 1 Phosphomycin 1 1 1 1 1 15 Tiamulin 1 1 1 1 1 2 2 Vicosamycin 1 1 Các chất kháng sinh chống nấm Siccanin 1 Nanaomycin 1 Các chất hóa trị liệu tổng hợp Nhóm nitrofuran Furazolido n 1 1 Diflazo n 1 1 Nhóm sulfamid(e) Sulfothiazin 1 1 1 1 1 Sulfamethoxin 1 1 1 1 1 Nhóm neoquinolon(e) Ofloxacin 1 1 1 1 1 1 1 Enrofloxacin 1 1 1 1 1 1 1 Danofloxacin 1 1 1 1 1 1 1 Venofloxacin 1 1 1 1 1 1 1 Orbifloxacin 1 1 1 1 1 1 1 Các thuốc hóa trị liệu tổng hợp khác Carbado x 1 1 2 Axit oxolinic 1 1 1 1 1 1 1 Thiamphenicol 1 1 1 1 1 1 1 1 Florphenico l 1 Ghi chú: Các số 1 và 2 chỉ mức độ tác dụng của các chất kháng sinh với mầm bệnh tương ứng; 1, tác dụng tốt; 2, tác dụng rất tốt, là kháng sinh cần chọn thứ nhất trong điều trị bệnh tương ứng. 16 4. Ứng dụng khả năng kháng khuẩn của các chất kháng sinh 4.1. Các thuốc kháng sinh thông dụng Thuốc kháng sinh có nhiều loại. Dưới đây trình bày một số chất kháng sinh thông dụng. Penicillin được lấy từ một số nấm sợi Penicillum rotatum và Penicillum crysogenum. Có nhiều loại penicillin (F, G, X, K), trong đó penicillin G là tốt nhất. Các dạng penicillin về thực chất khác nhau ở cấu trúc nhóm bên còn nhóm chức tác dụng diệt khuẩn đều là vòng beta- lactam. Các dạng khác nhau có tính chất vật lý, hóa học khác nhau, do đó tính diệt khuẩn, tính tiện dụng, bảo quản và khả năng duy trì nồng độ điều trị trong cơ thể khác nhau. Ở liều thấp penicillin kìm hãm vi khuẩn, liều cao làm dung giải vi khuẩn. Tác dụng tốt đối với các vi khuẩn Gram dương (liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, vi khuẩn uốn ván, đóng dấu lợn, nhiệt thán,...). Tuy nhiên chất kháng sinh này có tác dụng yếu đối với vi khuẩn tụ huyết trùng và không có tác dụng đối với vi khuẩn lao, sẩy thai truyền nhiễm (các Brucella), phó thương hàn và các virut. Khi tiêm vào bắp thịt, penicillin G thấm rất nhanh vào máu, duy trì lâu được hàng giờ trong các tổ chức, tuy nhiên khó thấm vào các khớp, màng phổi, màng tim, phúc mạc, không thấm vào dịch não - tủy, hầu hết bài tiết qua thận. Trong khi đó, penicillin V nhờ tính thấm tốt qua niêm mạc ruột và đề kháng với axit dạ dày nên có thể áp dụng cho người và động vật dạ dày đơn qua đường miệng (cho uống). Penicillin gây rối loạn sự quá trình tổng hợp peptidoglycan của vách tế bào vi khuẩn nên làm cho tế bào vi khuẩn bị vỡ trong quá trình tế bào tăng trưởng thể tích. Vì vậy, các penicillin có tác dụng tốt đối với vi khuẩn đang phát triển mạnh (thường trong bệnh cấp tính) nhưng tác dụng rất hạn chế đối với vi khuẩn phát triển chậm (trong bệnh mãn tính). Các thuốc kháng sinh làm chậm quá trình tăng trưởng của vi khuẩn (như nhóm tetracyclin,...) có tác động làm giảm hiệu quả điều trị của penicillin. Penicillin thường gây hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc, còn ở người có thể gây dị ứng nặng. Streptomycin: được chiết xuất từ vi khuẩn dạng sợi Streptomyces griseus. Chất kháng sinh này có tác dụng rộng rãi đối với vi khuẩn Gram âm (tụ huyết trùng, Brucella, các trực khuẩn đường ruột,...), các vi khuẩn gram dương (tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn,...), vi khuẩn lao và xạ khuẩn. Chất kháng sinh này có thể dùng tiêm hoặc cho uống do thuốc ít bị phá hủy ở ruột và thải trừ ra ngoài theo phân, còn nếu tiêm bắp thịt thuốc vào 17 máu rất nhanh, thấm dễ dàng vào các tổ chức, thấm cả vào bào thai, thấm không đều vào dịch não - tủy, màng phổi, phúc mạc. Streptomycin thải trừ ra ngoài chậm hơn penicillin, chủ yếu bài tiết qua thận, một phần nhỏ theo mật bài tiết ra ngoài. Streptomycin cũng dễ gây hiện tượng vi trùng kháng thuốc, nên khi dùng phải phối hợp các loại kháng sinh khác. Kháng sinh này cũng gây nên hiện tượng dị ứng, làm tổn thương dây thần kinh số VIII (phổ biến nhất ở người, gây điếc), dễ gây ngộ độc nặng và có khi làm chết gia cầm. Nhóm tetracyclin: Nhóm này gồm có ba chất thường dùng là chlortetracyclin, tetracyclin, oxytetracyclin, có tính chất dược lý giống nhau. Chúng có tác dụng đối với nhiều loài mầm bệnh: vi khuẩn gram dương, vi khuẩn gram âm, trực khuẩn lao, Rickettsia và Chlamydia, cũng như một số virut có kích thước lớn,... Ngoài tác dụng chữa bệnh nhóm kháng sinh này trước đây còn được dùng bổ sung vào thức ăn để phòng bệnh và kích thích sinh trưởng gia súc non. Chlortetracyclin (oreomycin, biomycin) được sản xuất từ vi khuẩn dạng sợi Streptomyces aureofaciens, có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi khuẩn Gram dương và Gram âm, với một số virut có kích thước lớn (nhóm virut đậu), rickettsia, chlamydia và nhiều loại nguyên trùng (Coccidia hay Eimeria). Khi uống, ở ruột thuốc không bị phá hủy, dễ hấp thụ và phân phối đều trong cơ thể. Đậm độ thuốc trong vẫn cao sau khi uống 8 giờ. Thuốc này dùng chữa các bệnh nhiệt thán, ung khí thán, nhất là các bệnh viêm phổi, bệnh bạch lỵ, phó thương hàn, tụ huyết trùng, bệnh cầu trùng ở gà và các động vật khác, có tác dụng cả đối với cả những bệnh mà mầm bệnh đã kháng penicillin và streptomycin. Oxytetracyclin (teramycin, tetran) được sản xuất từ vi khuẩn dạng sợi Streptomyces grimosus, có tác dụng kháng khuẩn rộng tương tự chlortetracyclin, nhưng ít độc và có tác dụng kéo dài hơn. Tetracyclin (ambromycin, achromycin, tetracin, mediacyclin,...) là chất kháng sinh giữ được đậm độ trong máu lâu hơn các loại kháng sinh cùng nhóm, hoạt phổ rộng, kìm hãm vi khuẩn (chế khuẩn), với nhiều cầu trùng, các vi khuẩn Gram dương và Gram âm, xoắn khuẩn, rickettsia và một số virut lớn nhưng hiện nay đã xuất hiện nhiều chủng kháng thuốc. Thuốc được chỉ định điều trị các bệnh cảm nhiễm Pasteurella, Haemophilus, Rickettsia, Chlamydia, Mycoplasma, Brucella, lậu cầu, xoắn khuẩn, phẩy khuẩn tả (ở người),... các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, sinh dục, tiết niệu, mắt, tai - mũi - họng. Kháng sinh này có tác dụng kích thích sinh trưởng gia súc non cho nên trước đây thường được phối chế vào thức ăn gia súc, nhưng cũng vì vậy mà dẫn đến hiện tượng phát sinh nhiều chủng kháng thuốc, đồng thời dư lượng kháng sinh trong sản phẩm động vật gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Các loại sulfamid được dùng hiện nay ở nước ta là sulfathiazol, sulfadiazin, sulfamerazin, sulfadimethoxin,... Chúng có tác dụng kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn do làm rối loạn trao đổi chất của tế bào vi khuẩn, tác dụng mạnh đối với các loại cầu khuẩn, một số vi khuẩn Gram âm, một số virut và các vi khuẩn đường ruột. Đại đa số sulfamid được hấp thụ tốt qua ruột. Tiêm bắp thịt, thuốc thấm nhanh vào máu, khuyếch tán vào khắp cơ thể, dịch thể và thải ra ngoài chủ yếu qua thận nhanh chóng. Dùng sulfamid cũng có thể gây tai biến, vi khuẩn có thể quen thuốc và kháng thuốc, nên phải dùng liều lượng cao ngay từ đầu, tránh ngừng dùng quá sớm, cho uống nhiều nước khi dùng hoặc uống natri bicarbonat (NaHCO3) để tránh sulfamid kết tủa trong thận. Cần phối hợp nhiều loại sulfamid với chất kháng sinh khác (penicillin, streptomycin). 4.2. Phối hợp thuốc 18 Hiệu quả phối hợp một số thuốc kháng sinh thông dụng được trình bày ở bảng sau. Chất kháng sinh thường được sử dụng đơn độc nhưng nhiều khi cần phối hợp hai thuốc trong việc điều trị bệnh cảm nhiễm. Mục đích của việc phối hợp thuốc là để 1) tăng cường năng lực diệt khuẩn, 2) mở rộng hoạt phổ kháng khuẩn, 3) ức chế xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc và 4) giảm tác dụng phụ bất lợi đối với cơ thể,... Hiệu quả tác dụng tăng cường diệt khuẩn thường thấy khi phối hợp trimethoprim (hay thuốc cùng nhóm) với thuốc sulfamid, đặc biệt trong điều trị bệnh tiêu chảy ở lợn, tác dụng tăng cường diệt khuẩn và mở rộng hoạt phổ kháng khuẩn thu được nhờ phối hợp penicillin G với streptomycin. Phối hợp thuốc mở rộng hoạt phổ kháng khuẩn có ý nghĩa lớn khi chưa kịp phân lập và đồng định (giám biệt) mầm bệnh, khi cảm nhiễm vi khuẩn hỗn hợp như bệnh đường hô hấp hay viêm vú,... Cần lưu ý rằng phối hợp thuốc chứ không phải pha trộn thuốc, mặc dù trong nhiều trường hợp có thể pha trộn các thuốc kháng sinh với thuốc kháng sinh khác cũng như các thuốc kháng sinh với các thuốc khác. 19 Bảng: Tương tác của một số thuốc kháng sinh khi sử dụng phối hợp để điều trị bệnh cảm nhiễm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 C hất kháng sinh N hóm penicillin O xacillin A m picillin C ephalosporin Erythrom ycin Lincom ycin N ovobiocin Fusadin natri R istom ycin R ifam ycin N hóm streptom ycin M onom ycin K anam ycin G entam ycin sulfat(e) Levom ycetin* Tetracyclin C ác sulfam id(e) N ístatin Polym yxin 1 x 2 2 + x 3 2 + + x2 4 2+ 2+ 2+ x 5 ± ± ± ± x 6 ± ± ± ± 2+ x 7 ± ± ± ± 2+ 2+ x 8 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ x 9 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ 2+ x 10 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ x 11 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + x 12 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - x 13 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - - x 20 14 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - - - x 15 ± ± ± ± 3+ 2+ 2+ 2+ - 2+ + + + + x 16 ± ± ± ± 3+ 2+ 3+ 2+ 2+ 2+ + + + + 2+ x 17 2+ 2+ 2+ 2+ 3+ 3+ 3+ 3+ - + + + + + - 3+ x 18 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ x 19 2+ 2+ 2+ 2+ + + + 2+ + + - - - - + + - 3+ x 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 N hóm penicillin O xacillin A m picillin C ephalosporin Erythrom ycin Lincom ycin N ovobiocin Fusadin natri R istom ycin R ifam ycin N hóm streptom ycin M onom ycin K anam ycin G entam ycin sulfat(e) Levom ycetin* Tetracyclin C ác sulfam id(e) N ístatin Polym yxin Ghi chú: 3+, tác dụng hợp đồng; 2+,tác dụng cộng; +, phối hợp không phát huy tác dụng; ±, đôi khi biểu hiện đối kháng; -, đối kháng; gạch chân, phối hợp không hợp lý đôi khi tăng tính độc của thuốc; x, phối hợp gây độc; *chloramphenicol là thuốc kháng sinh đã bị cấm dùng trong thú y và thủy sản nhưng vẫn dùng trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn ở người. 21 5. Ứng dụng các đặc tính dược lý của chất kháng sinh Khi cần sử dụng thuốc kháng sinh có hai điểm cần lưu ý là cần chọn những thuốc có tính chất dược lý thích hợp dễ xâm nhập vào tổ chức ổ bệnh (bệnh sào) và với một liều lượng quy định cần đưa thuốc vào cơ thể với một khoảng cách nhất định và thời điểm nhất định. 5.1. Đường đưa vào cơ thể Tùy theo mục đích điều trị và đặc tính dược lý của thuốc mà đưa thuốc theo đường miệng (đưa thuốc từng lần hoặc đưa thuốc liên tục nhờ bổ sung vào thức ăn, nước uống), theo đường tiêm (trong cơ, dưới da, trong tĩnh mạch, trong phúc mạc), tiêm vào bầu vú và bơm vào tử cung và âm đạo. Trong trường hợp không thể điều trị cá thể thường sử dụng biện pháp đưa thuốc liên tục qua miệng theo thức ăn, nước uống với mục đích điều trị, trừ khử và dự phòng. Các biện pháp đưa thuốc khác ứng dụng trong các trường hợp điều trị cá thể. 5.2. Tính hấp thu của chất kháng sinh và nồng độ trong huyết tương Sau khi đưa vào cơ thể tính hấp thu vào máu của chất kháng sinh và sau đó là nồng độ của chúng trong huyết tương có sự khác biệt phụ thuộc vào loại thuốc và đường đưa thuốc vào cơ thể. Sự tăng giảm nồng độ và thời gian duy trì thuốc sau khi đưa vào cơ thể được coi là động thái trong cơ thể của thuốc và là một trong những chỉ tiêu quan trọng của thuốc cần vận dụng trong quá trình điều trị. Đặc biệt, trong các trường hợp bệnh có ổ bệnh trong cơ thể (như viêm phổi, viêm thận,...) để thực hiện trị liệu đích xác cần nắm nồng độ của thuốc trong máu và trong tổ chức. Nếu đưa thuốc qua đường miệng có thuốc hấp thụ, nhóm neoquinolon, nhóm sulfamid,...) và có thuốc khó hấp thụ kém (nhóm aminoglycosid, colistin,...). Hơn nữa trong số các thuốc dễ hấp thụ ở ống tiêu hóa nếu bổ sung thuốc vào thức ăn hay nước uống thì nồng độ thuốc tăng dần trong tổ chức. Mặc dù nồng độ thuốc trong tổ chức tăng chậm so với tiêm thuốc nhưng trong thời gian dùng thuốc nồng độ duy trì tương tự. Do đó đây là phương pháp thích hợp trong trị liệu, dự phòng và trừ khử, đặc biệt trong trường hợp dự phòng và trừ khử biện pháp cho thuốc vào nước uống tiện lợi vì cả khi động vật biếng ăn cũng có thể tiếp thụ được thuốc. Khi ép cho động vật uống thuốc hay cho uống từng lần, nồng độ thuốc trong máu tăng nhanh hơn so với bổ sung kéo dài vào nước uống, duy trì một thời gian nhất định nhưng thời gian duy trì dài hay ngắn phụ thuộc vào loại thuốc. Do đó phương pháp này thích hợp đối với trừ khử, dự phòng hoặc trị liệu vào kỳ đầu của bệnh nhưng khi bệnh đã tiến triển thì có nhiều trường hợp không hiệu quả. Nếu cho uống các thuốc khó hấp thu qua đường ruột thì có thể có hiệu quả điều trị bệnh tiêu chảy nhưng nếu mầm bệnh đã xâm nhập vào trong niêm mạc ruột hoặc trong trường hợp các bệnh có ổ bệnh trong cơ thể (như viêm phổi) thì do không đạt nồng độ hữu hiệu của thuốc trong tổ chức nên không thể mong có hiệu quả điều trị. Với trường hợp trâu bò chỉ nên cho bò cái và bò trưởng thành uống thuốc thời gian ngắn, tránh cho uống thuốc kéo dài vì thuốc ảnh hưởng xấu đến các vi sinh vật có lợi trong dạ cỏ (đặc biệt nhóm tetracyclin). 22 Trong trường hợp tiêm thuốc, nồng độ thuốc trong máu tăng nhanh hơn cho uống. Nếu tiêm tĩnh mạch nồng độ thuốc tăng rất nhanh nhưng thời gian duy trì nồng độ trong máu ngắn. Do đó nên áp dụng biện pháp này khi cần điều trị cấp tốc và khi tổ chức ổ bệnh khó thẩm thấu đối với thuốc, nhưng sau đó cần kèm phương pháp tiêm trong cơ để duy trì nồng độ thuốc kéo dài trong tổ chức. Hơn nữa tiêm tĩnh mạch cần thực hiện chậm rãi. Các thuốc như kanamycin và streptomycin nếu tiêm tĩnh mạch sẽ gây hại thận vì vậy cần phải tránh. Mặc dù nồng độ trong máu tăng chậm so với tiêm tĩnh mạch nhưng tiêm trong cơ và dưới da duy trì nồng độ thuốc trong cơ thể kéo dài hơn. Thời gian duy trì nồng độ phụ thuộc vào loại thuốc, penicillin G có thời gian duy trì trong máu ngắn trong khi các thuốc nhóm tetracyclin kéo dài. Để kéo dài thời gian duy trì nồng độ trong máu người ta chế các thuốc tiêm hấp thu chậm như penicillin G procain (hơn 24 giờ) và oxytetracyclin LA (đến 5 ngày) là những thuốc hấp thu từ từ khi tiêm trong cơ. Trước khi tiêm những thuốc này cần tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm trong cơ các thuốc cùng loại có tính hấp thu nhanh để đạt nồng độ hữu hiệu nhanh chóng. Với phương pháp tiêm vào buồng vú và trong tử cung - âm đạo chủ yếu tác dụng điều trị tại chỗ, lượng rất ít thuốc có thể được hấp thu nhưng không vượt quá mạch máu. 5.3. Di hành và phân bố ở tổ chức Sau khi đưa vào cơ thể thuốc được hấp thu vào máu, khi đạt đến một nồng độ nào đó thì di hành (thấm) vào tổ chức tiếp theo. Bình thường khi nồng độ thuốc trong tổ chức tăng dần thì nồng độ của nó trong máu giảm dần rồi sau một thời gian nhất định đạt đến mức bằng nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, ở các tổ chức (đặc biệt các tổ chức có chức năng bài tiết như gan và thận) nồng độ thuốc tăng lên cao và có khuynh hướng tồn lưu ngay cả khi hết thuốc trong máu. Tính di hành vào tổ chức của các thuốc kháng sinh phụ thuộc vào loại thuốc, có thuốc di hành tốt vào tổ chức (nhóm macrolid, nhóm tetracyclin, nhóm neoquinolon) và các thuốc khó di hành vào tổ chức (nhóm aminoglycosid). Penicillin là thuốc trung gian về thuộc tính di hành vào tổ chức. Có thuốc có tính di hành mạnh đối với tổ chức nhất định, như tính di hành vào phổi của các thuốc nhóm macrolid, nhóm tetracyclin và các sulfamid,... mạnh, ngược lại các thuốc nhóm aminoglycosid có tính di hành vào phổi kém hơn. Các thuốc bài xuất qua thận như penicillin và các thuốc nhóm aminoglycosid có nồng độ ở thận cao hơn nhiều so với trong máu và các tổ chức khác. Các thuốc có tính di hành mạnh vào tổ chức thường có hiệu quả điều trị cao đối với cảm nhiễm toàn thân, viêm phổi, viêm thận,... nhưng có khuynh hướng tồn lưu kéo dài trong tổ chức (như trong trường hợp tiêm các thuốc nhóm aminoglycosid, nhóm tetracyclin, nhóm macrolid). Ngoài ra còn lưu ý thêm rằng nếu dùng liều cao các thuốc nhóm aminoglycosid thường dẫn đến suy thận. 6. Ứng dụng lâm sàng của chất kháng sinh 6.1. Điểm chú ý với kháng sinh diệt khuẩn và kháng sinh chế khuẩn 23 Các thuốc kháng sinh (kháng khuẩn) bao gồm các thuốc diệt khuẩn (gây chết vi khuẩn) và các thuốc chế khuẩn (ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn). Khi sử dụng nên chú ý một số điểm sau. Các thuốc nhóm penicillin và nhóm cephalosporin có tác dụng chỉ đối với các vi khuẩn ở kỳ tăng trưởng (pha log). Do trong ổ bệnh thường có lẫn các tế bào vi khuẩn mầm bệnh ở kỳ dừng phát triển nên nếu chỉ sử dụng thuốc một lần thì sau một thời gian, khi nồng độ thuốc trong tổ chức ổ bệnh đã hết, những tế bào vi khuẩn này bắt đầu phát triển và làm bệnh tái phát. Cho nên dù là kháng sinh diệt khuẩn cũng phải dùng nhiều lần, đồng thời duy trì thời điểm dùng thuốc cũng như khoảng cách dùng thuốc thích hợp. Mặt khác khi dùng thuốc kháng sinh chế khuẩn, các thuốc này do chỉ ức chế vi khuẩn phát triển mà không làm chết vi khuẩn nên sau một thời gian khi nồng độ thuốc hữu hiệu không còn vi khuẩn lại bắt đầu phát triển. Do đó, thuốc này cũng cần áp dụng lại nhiều lần với thời gian và khoảng cách dùng thuốc nhất định. Khi đó, các hệ thống miễn dịch (thực bào, bổ thể,...) sẽ tiêu diệt các vi khuẩn ở trạng thái tĩnh. Trong các trường hợp bệnh nặng cũng như các bệnh làm suy giảm cơ năng miễn dịch, do chức năng đề kháng giảm, cơ thể không thể có sự hiệp lực diệt khuẩn nên không thể lành bệnh. Trong những trường hợp đó cần dùng các thuốc kháng sinh diệt khuẩ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfc5_2991.pdf