MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VƯỢT QUA RÀO CẢN CHỐNG PHÁ PHÁ GIÁ Ở CÁC NƯỚC NHẬP KHẨU 5
I/ Khái niệm bán phá giá, các hình thức, vai trò và mặt trái của bán phá giá 5
1.Khái niệm bán phá giá 5
2. Phân loại 5
3. Mặt trái và vai trò của bán phá giá 7
II/ Những nguyên nhân của hành động bán phá giá và điều kiện được xem là bán phá giá 8
1. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá 8
1.1. Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác 9
1.2. Do có các khoản tài trợ của Chính phủ 9
1.3. Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường 10
1.4. Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh 11
1.5. Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này 11
1.6. Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu 11
1.7. Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn 12
2. Điều kiện được xem là bán phá giá 12
III/ Khái niệm về chống bán phá giá 13
1. Khái niệm về chống bán phá giá. 13
2. Mục tiêu và bản chất của các biện pháp chống bán phá giá 15
IV/ GIỚI THIỆU HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO 17
1. Xác định việc bán phá giá 17
1.1. Định nghĩa phá giá 17
1.2. Nguyên tắc xác định phá giá: 17
1.3. Tính biên độ phá giá 17
2. Xác định thiệt hại 19
2.1. Định nghĩa thiệt hại: 19
2.2. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước 21
3. Ngành sản xuất trong nước 21
4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá 21
5. Thu thập thông tin 23
6. Áp dụng biện pháp tạm thời 24
7. Cam kết giá 25
8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 26
9. Truy thu thuế 27
10. Rà soát 28
11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận 29
12. Cơ chế khiếu kiện độc lập 30
13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba 30
14. Thành viên đang phát triển 30
15. Uỷ ban chống bán phá giá 30
16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp 31
17. Điều khoản cuối cùng 31
V/ Quy định của WTO về chống bán phá giá và các hình thức đối kháng. 32
1. Các quy định của WTO về bán phá giá 32
2. Các hình thức đối kháng 38
VI/ Vai trò của việc áp dụng chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ. 41
VII/ Hậu quả của việc áp dụng chống bán phá giá và các hình thức đối kháng. 43
VI/ Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá trên thế giới và Việt Nam. 44
1.Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá trên thế giới 44
2. Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá tại VN 51
2.1 Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu của nước ngoài ở Việt nam 51
2.2 Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá tại Việt Nam 56
VIII/ Đề xuất giải pháp để vượt rào cản chống bán phá ở nước nhập khẩu 67
Kết luận 74
Tài liệu tham khảo 76
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4114 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Bán phá giá và chống bán phá giá trong hoạt động thương mại và những giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua rào cản chống phá phá giá ở các nước nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứt áp dụng thuế chống bán phá giá
Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo riêng, trong đó nêu đầy đủ thông tin và kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá giá và thiệt hại và phải bao gồm những thông tin như sau:
+ tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường hợp không có thông tin thì phải nêu tên nước cung cấp sản phẩm đó;
+ mô tả sản phẩm;
+ biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khẩu với giá trị thông thường;
+ chứng minh thiệt hại;
+ lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị của nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
12. Cơ chế khiếu kiện độc lập
Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có quy định về biện pháp chống bán phá giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc toà án độc lập với cơ quan điều tra nhằm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có áp dụng chống bán phá giá hay không và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá.
13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba
Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước khác. Đơn này phải nêu các thông tin về giá để chứng minh rằng hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba. Chính phủ ở nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập khẩu điều tra các thông tin cần thiết.
Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem xét tác động của việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên quan của nước thứ ba, nghĩa là không chỉđánh giá thiệt hại do tác động của việc bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối với toàn bộ xuất khẩu của ngành đó.
Việc quyết định có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khẩu quyết định.
14. Thành viên đang phát triển
Các thành viên phát triển của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành viên đang phát triển khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá.
15. Uỷ ban chống bán phá giá
Uỷ ban chống bán phá giá bao gồm đại diện thành viên WTO được thành lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao đổi với nhau về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Chống bán phá giá. Uỷ ban này họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban Thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho Uỷ ban này.
Các thành viên WTO phải thông báo cho Uỷ ban chống bán phá giá: ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài; nửa năm một lần (theo mẫu quy định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban thư ký WTO; cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật quy định thủ tục điều tra phá giá ở nước mình.
16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp
Các quy định trong biên bản về Giải quyết tranh chấp (DSU) của WTO sẽ được áp dụng cho việc trao đổi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trừ khi có quy định khác đi.
17. Điều khoản cuối cùng
Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đối phó với hàng xuất khẩu bị bán phá giá từ các nước thành viên khác theo quy định của GATT 1994 và được diễn giải bởi Hiệp định này. Các thành viên cũng phải đảm bảo luật, các quy định và các thủ tục hành chính về chống bán phá giá của mình phù hợp với Hiệp định này.
V/ Quy định của WTO về chống bán phá giá và các hình thức đối kháng.
1. Các quy định của WTO về bán phá giá
Luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu ra đời năm 1968 và đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần chủ yếu nhằm đưa những nội dung mới của việc thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch 1994 (Hiệp định Chống bán phá giá 1994) vào luật của EU hiện nay.
Theo Hiệp định về thực hiện Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (hay còn được biết đến dưới tên gọi Hiệp định chống bán phá giá)ban hành vào tháng 4/1979, một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.
Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là:
biên độ phá giá từ 2% trở lên;
số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%).
Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản chi phí hợp lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hóa tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và phản ánh được một cách hợp lý các chi phí.
Để xác định hàng hóa có bị bán phá giá hay không, việc bán phá giá có gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không để áp đặt các biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất và phức tạp nhất này ở quá trình điều tra về bán phá giá. Ở những quốc gia khác nhau, việc điều tra sẽ được thực hiện bởi các cơ quan chức năng khác nhau. Theo quy định trong Hiệp định về chống bán phá giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được làm ra. Tuy nhiên, việc điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.
Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước).
Thuế chống bán phá giá đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO cũng như luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về sản lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong nước. Chính vì những lý do trên mà các nước, nhất là những nước phát triển đã và đang sử dụng lý do chống bán phá giá để chèn ép một cách bất bình đẳng các nước đang phát triển. Điển hình của vụ việc này là các vụ kiện tôm và cá ba sa của Mỹ đối với các nhà sản xuất các mặt hàng này của Việt Nam và một số nước khác. Để đảm bảo tính công bằng trong thương mại quốc tế, tất cả các nước liên quan cần nghiên cứu và thực hiện đúng những quy định của Hiệp định chống bán phá giá của GATT/ WTO.
Xác định hành vi bán phá giá
Thông lệ quốc tế định nghĩa hành động bán phá giá là bán sang nước khác với giá thấp hơn thị trường trong nước. 'Than phiền' chỉ là theo cảm tính, còn để khởi kiện thì phải tìm bằng chứng có tính thuyết phục, và điều này thường không đơn giản.
Bằng chứng thứ hai của hành động bán phá giá là căn cứ vào giá bán cao nhất của sản phẩm sang một nước thứ ba, hay chi phí sản xuất của DN tại nước xuất khẩu cộng thêm chi phí bán hàng và lợi nhuận nhất định. Đây là trường hợp mà Mỹ đã áp dụng trong vụ kiện cá basa của Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ.
Một bằng chứng khác để kiện bán phá giá là việc chính phủ trợ cấp cho DN sản xuất hàng xuất khẩu. Phía Mỹ cùng một số nước khác đã cố gắng tìm bằng chứng này trong các vụ kiện bán phá giá đối với VN nhưng đều thất bại.
Chi phí kiện bán phá giá
Để khởi kiện và xét xử một vụ bán phá giá, như vụ kiện cá basa, phía Mỹ đã phải huy động một lực lượng hùng hậu các luật sư kinh nghiệm đầy mình, cũng như mọi lý lẽ từ kinh tế đến chính trị. Bộ Thương mại Mỹ cũng phải cử các đoàn điều tra sang Việt Nam nhiều lần để 'xem' qui trình sản xuất của từng doanh nghiệp cụ thể. Vụ kiện bán phá giá đó đã phải kéo dài 14 tháng và kết quả cũng mang tính áp đặt hơn là thuyết phục.
Thi hành án và trả đũa
Nếu một mặt hàng bị buộc là bán phá giá, nước nhập khẩu có thể áp một loại thuế bán phá giá với hai mục đích: để nâng giá bán tại thị trường nhập khẩu - bảo vệ các doanh nghiệp của mình, và để trừng phạt các doanh nghiệp ở nước xuất khẩu.
Nếu một nước không công nhận kết quả vụ kiện vì cho là bất hợp lý, họ có thể tuyên bố trả đũa thương mại bằng việc tăng thuế nhập khẩu với nước kia, kết quả là các nước nhỏ sẽ bị thiệt nhiều hơn.
Các nước thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) có thể khiếu nại kết quả vụ kiện lên WTO để hy vọng có kết quả công bằng hơn. Nhưng ngay cả khi kết luận một nước sai mà không thuyết phục được chính phủ nước đó, WTO cũng chỉ có thể cho phép nước kia trả đũa thương mại “một cách hợp pháp”.
Các điều kiện để thắng trong cuộc chơi
Việt Nam càng sớm tham gia vào WTO thì càng sớm được hưởng một luật chơi tương đối công bằng. Phải hiểu nghĩa tương đối để không nên kỳ vọng một cách tuyệt đối vào quyền lực của WTO. Nước Mỹ đã từng bị cộng đồng Châu Âu kiện về nâng thuế mặt hàng thép, và kết quả WTO cũng chỉ có thể cho phép Châu Âu trả đũa.
Trên thực tế, nhằm bảo hộ công nghiệp nội địa, có rất nhiều chính phủ đều áp dụng các hành động nhằm vào bán phá giá. Cho đến nay, WTO chưa đưa ra việc giải quyết vấn đề bán phá giá thông qua đàm phán mà vẫn căn cứ theo điều 6 của GATT cho phép các nước hành động chống bán phá giá. Nhưng chỉ khi việc bán phá giá làm tổn hại đến công nghiệp của nước nhập khẩu thì các biện pháp chống bán phá giá mới được áp dụng.
Ngày nay, các nước nhập khẩu chống bán phá giá bằng cách thu thuế nhập khẩu ngoại ngạch đối với sản phẩm cá biệt của nước xuất khẩu cá biệt, khiến giá hàng nhập 'xấp xỉ giá thông thường', hoặc loại bỏ sự tổn hại của công nghiệp nội địa nước nhập khẩu. WTO đã sửa đổi một số điều trong Hiệp định Chống bán phá giá, trong đó quy định các nước nhập khẩu phải kết thúc các biện pháp chống bán phá giá và thời gian thực thi sau 5 năm. Khi nước nhập khẩu xác định được biên độ của bán phá giá đặc biệt nhỏ (nhỏ hơn 2% giá cả xuất khẩu của sản phẩm này) thì việc điều tra bán phá giá phải kết thúc.
Hiệp định cũng quy định các thành viên WTO phải thông báo kịp thời và chi tiết với Uỷ ban các biện pháp chống bán phá giá về những hành động chống bán phá giá tạm thời và cuối cùng, khi nảy sinh tranh chấp, khuyến khích các thành viên thương lượng với nhau. Các thành viên cũng có thể sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO.
Luật chống bán phá giá áp dụng đối với tất cả các nước không phải là thành viên EU. Đối với các nước bị coi là chưa có nền kinh tế thị trường hoặc đang trong quá trình chuyển đổi, EU có thể áp dụng những điều khoản đặc biệt được quy định trong các hiệp định ký giữa EU với các nước thứ 3.
Luật sửa đổi năm 1996 đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá theo 4 điều kiện:
mặt hàng đó đang bị bán phá giá (giá bán thấp hơn giá thương mại thông thường);
ngành công nghiệp sản xuất mặt hàng đó đang bị đe dọa hoặc đang bị tổn thương vật chất;
có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu đó và tổn thương vật chất của ngành công nghiệp của EU; và (iv) việc áp đặt các biện pháp chống bán phá giá là vì lợi ích của Cộng đồng.
Định nghĩa bán phá giá (dumping) được trình bày trong các văn kiện GATT như sau: bán phá giá và việc bán những hàng hóa xuất khẩu ở một giá thấp hơn “giá trị bình thường” (giá trị bình thường nghĩa là giá bán sản phẩm ở nước xuất khẩu).
GATT cũng xác định:
Mức phá giá = Giá bán hàng tại thị trường trong nước – Giá xuất khẩu.
EU áp dụng luật chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ nước thứ ba, kể cả các đối tác thương mại được hưởng ưu đãi, trừ các thành viên của khu vực kinh tế châu Âu (EEA) trong một số lĩnh vực chịu sự chi phối trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh của EU.
Khi một mặt hàng nào đó được xác định là bán phá giá vào thị trường EU và có đơn kiện của người sản xuất của Liên minh thì Ủy ban châu Âu sẽ xem xét việc bán phá giá đó có ảnh hưởng đến lợi ích chung của EU hay không. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra biện pháp xử lý cụ thể.
“Trốn thuế bán phá giá” là cụm từ chỉ những nỗ lực của các bên đáng lẽ phải đóng thuế chống bán phá giá nhưng lại trốn tránh để không phải đóng loại thuế này bằng cách tìm mọi cách để hoạt động “chính thức” ở bên ngoài phạm vi thuế chống bán phá giá, trong khi đó lại vẫn tham gia lâu dài vào các hoạt động thương mại tương tự như trước đây.
Các cuộc đàm phán tại Vòng Uruguay đã xác định được ba loại trốn thuế chống bán phá giá là: Trốn thuế của các nước nhập khẩu, trốn đóng thuế của các nước thứ ba, và trốn đóng thuế của các nước “đang phát triển”. Các nguyên tắc về các biện pháp để ngăn chặn tình trạng trên đã được thảo luận nhưng vẫn chưa đi đến cách giải quyết thống nhất. ủy ban chống bán phá giá của WTO đã bắt đầu tiến hành cuộc thảo luận, xem xét các biện pháp để có được giải pháp cho vấn đề này, và đã đạt được sự thoả thuận về phạm vi xem xét trong tương lai (gồm các quá trình và các chương trình nghị sự). Những cuộc thảo luận không chính thức và lâu dài về yếu tố nào gây nên tình trạng trốn thuế bán phá giá, đã được tổ chức. Đây là vấn đề đầu tiên được nêu lên trong chương trình nghị sự
Mâu thuẫn cơ bản của vấn đề chống trốn thuế là mâu thuẫn giữa Mỹ, Liên minh Châu Âu và các nước khác. Những nước này đã có các nguyên tắc chống trốn thuế và mong muốn hợp pháp hoá các nguyên tắc này. Nhiều nước rất thận trọng khi đưa ra các biện pháp chống trốn thuế bán phá giá, bởi vì các biện pháp này có thể hạn chế các hoạt động đầu tư hợp pháp, có thể bóp méo giao dịch thương mại và đầu tư. Để giải quyết mâu thuẫn này, đòi hỏi phải có sự phù hợp giữa Hiệp định chống bán phá giá hiện thời của WTO và các biện pháp chống trốn thuế bán phá giá trong tương lai. Để thực hiện được điều này, cần phải tính đến lợi ích mà quá trình toàn cầu hoá các hoạt động, các nguyên tắc cơ bản và các mục tiêu trong Hiệp định của WTO mang lại. Việc này đòi hỏi phải phân tích các trường hợp cụ thể để xem xét xem, giao dịch thương mại được tiến hành như thế nào, nhằm tìm kiếm giải pháp không phương hại đến giao dịch và đầu tư hợp pháp, đồng thời tăng cường các nguyên tắc của Hiệp định chống bán phá giá hiện thời. Mặt khác, hiện tại chưa có các nguyên tắc thống nhất về việc chống trốn thuế trong Hiệp định của WTO. Vì vậy, các nước có luật về chống trốn thuế nên đưa ra các biện pháp cụ thể, căn cứ vào điều VI của GATT hoặc của Hiệp định chống bán phá giá của WTO, và phải được giải quyết rõ ràng trong phạm vi của GATT/WTO .
Các hình thức đối kháng
Những quy định mới về các biện pháp chống trốn thuế được phác thảo dựa trên kết luận của hội thảo (được rút ra trong các trường hợp bán phá giá ) và dựa trên các quan điểm được đưa ra tại các cuộc đàm phán Vòng Uruguay. Những quy định mới quy định hai biện pháp, đó là :
Biện pháp thứ nhất, những thay đổi trong mô hình hoạt động kinh doanh không thể được giải thích bằng những lý do pháp lý hay những suy đoán kinh tế .
Biện pháp thứ hai, suy yếu hiệu lực về giảm thuế chống bán phá giá và đây là dấu hiệu của bán phá giá khi so sánh với giá thông thường .
EU cũng bổ sung thêm các tiêu chí trong tiêu chuẩn xác định các biện pháp chống trốn thuế, EU cũng từng bước tiến hành các biện pháp hành chính để hoàn thiện các biện pháp chống bán phá giá từ việc đăng ký hàng nhập khẩu đến việc cấp các giấy chứng nhận đã đóng thuế. Phạm vi của các biện pháp này không chỉ rộng mà còn phải tính đến các cuộc điều tra mới về bán phá giá và mức độ thiệt hại do bán phá giá gây ra .
Dưới đây là các trường hợp trốn thuế chống bán phá giá được hầu hết các nước quan tâm :
(1) Khai báo sai thuế hải quan và những hành động bất hợp pháp khác ;
(2) Chuyển sang xuất khẩu hàng hoá có mức độ chênh lệch nhỏ so với hàng hoá phải đóng thuế chống bán phá giá ( những sản phẩm có ít sự điều chỉnh );
(3) Xuất khẩu các linh kiện sản phẩm phải đóng thuế chống bán phá giá và lắp ráp các linh kiện tại nước nhập khẩu ( trốn thuế của nước nhập khẩu);
(4) Xuất khẩu các linh kiện sản phẩm phải đóng thuế chống bán phá giá sang nước thứ ba và lắp ráp các linh kiện tại đó ( trốn thuế của nước thứ ba);
(5) Xuất khẩu sản phẩm phải đóng thuế chống bán phá giá từ nước thứ ba .
Bên làm đơn kiện chống bán phá giá có thể là một thể nhân, một pháp nhân, một hiệp hội hoặc một liên đoàn đại diện cho tối thiểu 25% tổng sản lượng mặt hàng đó tại các nước EU.
Một Uỷ ban Tư vấn gồm đại diện của các nước thành viên EU và do đại diện của Uỷ ban châu Âu làm chủ tịch sẽ xem xét đơn kiện. Uỷ ban châu Âu sẽ tiến hành điều tra chống bán phá giá nếu đơn kiện được đánh giá là cung cấp đầy đủ bằng chứng việc bán phá giá và những tổn thất vật chất. Uỷ ban châu Âu phải quyết định tiến hành điều tra hay khước từ đơn kiện trong vòng 40 ngày kể từ khi nhận được đơn kiện.
Uỷ ban châu Âu (EC) sẽ cho đăng quyết định điều tra chống bán phá giá trên Công báo (The Official Journal of the European Communities). Quyết định này bao gồm tên sản phẩm sẽ bị điều tra, tên nước xuất xứ của sản phẩm đó và tóm tắt những thông tin EC đã nhận được, họ cũng nêu thời gian tiến hành điều tra, thời gian cho phép các bên hữu quan trình bày quan điểm của họ;
Tổng vụ Thương mại thuộc Uỷ ban châu Âu tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá. Trong trường hợp liên quan đến Việt Nam, Uỷ ban châu Âu sẽ tìm một nước có những điều kiện tương tự với Việt Nam để xác định trị giá thông thường của mặt hàng đang bị điều tra. Thường thường họ sẽ chọn các nước có giá cao hơn giá của các doanh nghiệp liên quan của Việt Nam để làm tăng biên độ phá giá của các vụ điều tra.
Mặc dù vậy, các nhà xuất khẩu mặt hàng đang bị điều tra vẫn có thể làm đơn xin được xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường (MES) nếu chứng minh được rằng họ hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường và không có sự can thiệp của nhà nước. Nếu đơn xin công nhận quy chế kinh tế thị trường được chấp nhận, giá trị thông thường sẽ được tính toán trên cơ sở các thông tin về giá thành do nhà xuất khẩu cung cấp. Trong trường hợp đơn xin công nhận quy chế thị trường bị từ chối, các nhà xuất khẩu vẫn có thể tìm cách chứng minh họ hoạt động không có sự can thiệp của nhà nước đối với đến giá xuất khẩu và như vậy họ có quyền yêu cầu được đối xử riêng rẽ (IT) khi EU tính toán thuế chống bán phá giá.
Trong một số vụ điều tra liên quan đến nhiều nhà xuất khẩu, do rất khó hoàn thành được việc điều tra trong một thời gian nhất định, EC có thể áp dụng việc lấy mẫu, tức là chọn một số công ty để điều tra kỹ và kết quả điều tra các công ty mẫu này sẽ là cơ sở để xác định thực trạng đối với các công ty không bị điều tra trực tiếp. Uỷ ban châu Âu chỉ tính toán trên cơ sở thông tin do các nhà xuất khẩu được chọn làm mẫu cung cấp để xác định biên độ phá giá cho các nhà xuất khẩu khác. Trong trường hợp này, tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn được chọn làm mẫu để được điều tra trực tiếp trên cơ sở thông tin của chính công ty mình.
Thời gian biểu và thủ tục điều tra chống bán phá giá như sau:
Ngày thông báo điều tra chống bán phá đăng trên Công báo
Các việc phải làm
Trong thời gian 10 ngày
Các nhà xuất khẩu bình luận về nước do EC chọn
Trong thời gian 15 ngày
Các nhà xuất khẩu biểu thị mong muốn được chọn làm mẫu và cung cấp thông tin nêu trong thông báo tiến hành điều tra
Không muộn quá 15 ngày
Các doanh nghiệp không được nêu tên trong đơn kiện, thông báo cho EC mối quan tâm của họ và yêu cầu gửi bộ các câu hỏi
Từ 15 đến 21 ngày
Các nhà xuất khẩu gửi đơn xin công nhận quy chế kinh tế thị trường và yêu cầu được đối xử riêng rẽ
37 ngày kể từ ngày được thông báo nằm trong các doanh nghiệp được chọn làm mẫu
Các doanh nghiệp được chọn làm mẫu nộp bộ câu hỏi đã được hoàn tất và các hoạt động xuất khẩu của mình sang thị trường EU cho EC
Không muộn quá 9 tháng
Uỷ ban châu Âu có thể áp đặt thuế chống bán phá giá tạm thời
Trong vòng 15 tháng
Uỷ ban châu Âu có thể kết thúc điều tra. Uỷ ban châu Âu cũng có thể chấm dứt điều tra mà không áp đặt biện pháp chống bán phá giá hoặc áp đặt thuế chống bán phá cuối cùng hoặc kết thúc cuộc điều tra bằng việc chấp nhận cam kết giá của các doanh nghiệp thoả thuận xem xét lại chính sách giá của họ.
Trong trường hợp bị áp thuế chống bán phá giá, thuế chống bán phá giá sẽ có hiệu lực 5 năm kể từ ngày áp thuế hoặc sau khi có kết luận xem xét lại các biện pháp chống bán phá giá. Thuế chống bán phá giá được tính toán theo thực tế phá giá hay biên độ phá giá.
Khi tình hình đã cho thấy rõ là EU sẽ áp thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu có thể cân nhắc việc “cam kết giá” để tránh thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của mình. Cam kết giá là một hình thức của biện pháp chống bán phá giá mà theo đó nhà sản xuất của nước xuất khẩu cam kết sẽ tăng giá xuất khẩu của sản phẩm có liên quan vào thị trường EU tới mức độ không gây tổn thương, cũng không gây phá giá. Cam kết giá được đưa ra đàm phán với EC vào giai đoạn cuối của cuộc điều tra chống bán phá giá, khi mức thuế đã được EC tính toán trên cơ sở biên độ bán phá giá của các nhà xuất khẩu. Cam kết giá có thể được đàm phán đối với thuế chống bán phá tạm thời cũng như thuế chống phá giá cuối cùng. Khi EC chấp nhận cam kết giá thì EU sẽ không áp thuế chống bán phá tạm thời hay thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với việc nhập khẩu mặt hàng có liên quan sản xuất tại nước xuất khẩu đã cam kết giá. EC thường rất thận trọng khi chấp nhận hay khước từ cam kết giá của nhà xuất khẩu nước ngoài. Uỷ ban châu Âu thường không chấp nhận cam kết giá đối với các nhà xuất khẩu bất hợp tác hoặc không hợp tác đầy đủ trong quá trình điều tra hoặc các nhà xuất khẩu không sản xuất hoặc không xuất khẩu mặt hàng liên quan trong thời gian điều tra.
VI/ Vai trò của việc áp dụng chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ.
Chống bán phá giá là một công cụ lợi hại mà các nước đang sự dụng như một con bài để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo đảm một nền thương mại công bằng. Thông thường, tranh chấp liên quan tới bán phá giá chỉ thuần túy mang tính thương mại, nhưng đôi khi ẩn đằng sau lại là các vấn đề có chính trị nhạy cảm tại nước nhập khẩu cũng như giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Tại nước nhập khẩu việc điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ đụng chạm trực tiếp tới lợi ích vật chất của hai nhóm lợi ích căn bản là những sản xuất các mặt hàng tương tự và những người tiêu dùng mặt hàng đó, trong số này phải kể đến những nhà sản xuất sử dụng những mặt hàng này như đầu vào cho quá trình sản xuất của họ
Mặc dù lợi ích chung của to
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De tai so 5- ban pha gia.doc