Đồ án Đánh giá mức độ ô nhiễm vi sinh nguồn nước mặt tại rạch Ông Buông, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh

Mục lục

Chương 1 MÔ TẢ ĐỀ TÀI 1

1.1. Lý do chọn đề tài 1

1.2. Mục tiêu của đề tài 2

1.3. Phạm vi và nội dung nghiên cứu 2

1.4. Giải thích một số thuật ngữ 3

Chương 2 TỔNG QUAN ĐỀ TÀI 4

2.1 Tài nguyên nước mặt 4

2.2 Vai trò của tài nguyên nước 7

2.2.1 Vai trò của tài nguyên nước đối với đời sống con người 7

2.2.2 Vai trò của tài nguyên nước đối với môi trường 7

2.2.3 Vai trò của tài nguyên nước đối với hoạt động kinh tế-xã hội 8

2.3 Ô nhiễm nguồn nước 11

2.4 Sơ lược về những vi khuẩn gây bệnh phổ biến trong môi trường nước 12

2.5 Giới thiệu thông số đánh giá sự ô nhiễm vi sinh nguồn nước mặt 15

2.5.1 Tổng số Coliforms 16

2.5.2 Vi khuẩn E.coli 17

2.5.2.1 Hình dạng 17

2.5.2.2 Tính chất sinh hóa 17

2.5.2.3 Phân loại 17

2.5.2.4 Triệu chứng chung khi nhiễm các nhóm E.coli 18

2.5.2.5 Một số ngộ độc thực phẩm và nguồn nước do

vi khuẩn E.coli trên thế giới và Việt Nam 18

2.6 Khái quát về hiện trạng vệ sinh môi trường tại Rạch Ông Buông, Quận 6, TP.HCM 20

2.6.1 Khái quát về Quận 6 20

2.6.2 Khái quát về Rạch Ông Buông 24

2.6.2.1 Lưu vực Rạch Ông Buông 24

2.6.2.2 Địa hình địa chất 27

2.6.2.3 Khí hậu và khí tượng 27

2.6.2.4 Thực trạng dân cư sinh sống tại lưu vực 27

2.6.3 Hiện trạng vệ sinh môi trường 29

2.6.3.1 Hệ thống thoát nước 29

2.6.3.2 Rác thải 30

2.6.3.3 Bể tự hoại 30

2.6.3.4 Nước thải sinh hoạt và công nghiệp 31

2.6.3.5 Sức khỏe cộng đồng 32

Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH 33

3.1 Kỹ thuật lấy mẫu phân tích vi sinh 34

3.1.1 Nơi lấy mẫu 34

3.1.2 Điểm lấy mẫu 34

3.1.3 Số mẫu 34

3.1.4 Thời gian lấy mẫu 34

3.1.5 Chu kỳ lấy mẫu 35

3.1.6 Dụng cụ lấy mẫu 35

3.1.7 Vận chuyển mẫu 36

3.1.8 Bảo quản mẫu 36

 

3.1.9 Thời gian phân tích mẫu 36

3.1.10 Địa điểm phân tích mẫu 37

3.2 Vật liệu 37

3.2.1 Dụng cụ 37

3.2.2 Thiết bị 38

3.2.3 Hóa chất 38

3.3 Phương pháp phân tích 39

3.3.1 Xác định tổng số Coliforms bằng phương pháp MPN (Most Probable number) 39

3.3.2 Quy trình phân tích tổng số Coliforms 40

3.3.3 Xác định E.coli bằng phương pháp MPN (Most Probable Number) và thử nghiệm IMViC 40

3.3.3.1 Thử nghiệm khả năng sinh Indol 41

3.3.3.2 Thử nghiệm Methyl Red 41

3.3.3.3 Thử nghiệm Voges Proskauer 42

3.3.3.4 Thử nghiệm Simmons Citrate 43

3.3.4 Quy trình phân tích E.coli 44

Chương 4 KẾT QUẢ VÀ ĐÁNH GIÁ 45

4.1 Kết quả 45

4.1.1 Cầu Ông Buông 45

4.1.2 Đoạn giữa Rạch Ông Buông 45

4.1.3 Cầu Hậu Giang 46

4.2 Đánh giá 46

4.2.1 Tổng số Coliforms 46

4.2.2 E.coli 49

Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 52

Kết luận 52

Kiến nghị 53

Tài liệu tham khảo 55

Phụ lục 1

Phụ lục 2

 

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2962 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Đánh giá mức độ ô nhiễm vi sinh nguồn nước mặt tại rạch Ông Buông, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Mặc dù tiếp xúc người với người là phương thức lây bệnh chính, nhưng cũng có thể lây qua nước và thực phẩm. Thí dụ, nước ngầm được phát hiện là thủ phạm làm bùng phát hiện tượng nhiễm Shigella ở Florida xảy ra cho 1200 người. Vibrio cholerae: là vi khuẩn hình gậy cong gram âm, hầu như hoàn toàn lây truyền qua nước. Nó phóng thích một loại độc tố ruột gây nên tiêu chảy từ nhẹ đến nặng, nôn ói và mất nước nhanh, có thể gây tử vong trong một thời gian ngắn. Hiếm ở Hoa Kỳ và Châu Âu, bệnh này hầu như lưu hành ở nhiều vùng khắp châu Á. Vi khuẩn này được tìm thấy trong nước thải và ở mức từ 10 đến 104 vi khuẩn trong 100ml nước thải trong một vụ dịch. Sự bùng nổ của dịch tả và thương hàn đã được chứng minh ở Peru và Chile là có liên quan đến việc tiêu thụ rau bị nhiễm nước thải. Vi khuẩn này cũng tồn tại một cách tự nhiên trong môi trường. E.coli: sinh độc tố ruột gây viêm dạ dày, ruột, mất nước kèm theo nôn ối và đau quặn bụng. Thức ăn và nước là yếu tố quan trọng gây lây bệnh do vi khuẩn này. Yersinia: là tác nhân gây viêm dạ dày ruột cấp. Lợn là ổ chứa chính nhưng nhiều động vật nuôi và động vật hoang dại cũng đóng vai trò là ổ chứa vi khuẩn này. Nạn dịch do thực phẩm (sữa) nhiễm Yersinia đã xảy ra ở Hoa Kỳ. Vi khuẩn này được phân lập từ nước thải sau xử lý, nước chưa quan nấu chín và đôi khi từ nước uống. Campylobacter: vi khuẩn này gây bệnh cho người cũng như những động vật nuôi và động vật hoang dại. Nó gây viêm dạ dày cấp (sốt, buồn nôn, đau bụng). Nguồn lây nhiễm do thức ăn bị nhiễm bẩn, chủ yếu là gia cầm và nước bị nhiễm bẩn. Vi khuẩn này là nguyên nhân của một số vụ bùng phát bệnh viêm dạ dày ruột ở Hoa Kỳ và một số vùng khác. Nguồn nước cấp đô thị cũng như nguồn nước suối được kết luận có thể là nguồn gây bệnh. Campylobacter đã được phát hiện ở nước bề mặt, nước uống, và nước thải. Hình 2.1. Vi khuẩn Salmonella, nguồn: Hình 2.2. Vi khuẩn Shigella, nguồn: Hình 2.3. Vi khuẩn Vibrio cholerae, nguồn: Hình 2.4. Vi khuẩn E.coli, nguồn: Hình 2.5. Vi khuẩn Yersinia, nguồn: Hình 2.6. Vi khuẩn Campylobacter, nguồn: 2.5 GIỚI THIỆU THÔNG SỐ ĐÁNH GIÁ SỰ Ô NHIỄM VI SINH NGUỒN NƯỚC MẶT Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5942-1995, tiêu chuẩn chất lượng nước mặt (Water quality-surface quality Seaticandard) qui định giới hạn các thông số và nồng độ cho phép của các chất ô nhiễm trong nước mặt, từ đó để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước mặt ví dụ: đối với nước mặt có thể dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt thì pH từ 6-8,5, nước mặt dùng cho các mục đích khác thì pH từ 5,5-9. (xem phụ lục 1. Bảng 1. Giá trị giới hạn cho phép của các thông số và nồng độ các chất ô nhiễm trong nước mặt). Để đánh giá mức độ ô nhiễm vi sinh của một nguồn nước mặt, thông số Coliforms là một thông số đặc trưng tiêu biểu để đánh giá tình trạng ô nhiễm vi sinh của nguồn nước, đối với nước mặt có thể dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt thì Coliforms giới hạn cho phép là 5.000 MPN/100ml, còn nước mặt dùng cho các mục đích khác thì Coliforms giới hạn cho phép là 10.000 MPN/100ml. Ngoài ra, thông số E.coli (dòng vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy) cũng là một trong những thông số quan trọng để đánh giá nguồn nước có ô nhiễm phân hay không. TỔNG SỐ COLIFORMS Tổng số coliforms bao gồm những vi khuẩn hiếu khí hay kỵ khí tuỳ tiện, gram âm, không sinh bào tử, hình que, lên men lactose và sinh khí trong vòng 48 giờ ở 370C. Coliforms được xem là nhóm vi sinh vật chỉ thị : những vi khuẩn chỉ thị này hữu dụng trong việc xác định chất lượng của nước. Nhóm Coliforms gồm 4 giống là : Escherichia với một loài duy nhất là E. coli, Citrobacter, Klebsiella và Enterobacter.(xem phụ lục 1. Bảng 2. Phân loại vi khuẩn đường ruột). Tính chất sinh hoá đặc trưng của nhóm này được thể hiện qua các thử nghiệm Indol (I), Methyl Red (MR), Voges-Proskauer (VP) và Citrate (iC) thường được gọi tóm tắt chung là IMViC. Coliforms chịu nhiệt (Thermotolerant Coliform) là những Coliforms có khả năng lên men lactose sinh hơi trong khoảng thời gian 24 giờ khi được ủ ở 440C trong môi trường canh EC. Coliforms phân (Fecal Coliforms) là Coliforms chịu nhiệt có khả năng sinh indole khi được ủ khoảng 24 giờ ở 44,50C trong canh Trypton. Coliforms phân là một thành phần của hệ vi sinh ruột đường ở người và các động vật máu nóng khác và được sử dụng để chỉ thị mức độ vệ sinh trong quá trình chế biến, bảo quản, vận chuyển thực phẩm, nước uống cũng như để chỉ thị sự ô nhiễm trong mẫu môi trường. VI KHUẨN E.COLI E.coli sống bình thường ở ruột người và loài vật, nhiều nhất trong ruột già. Vi khuẩn theo phân ra ngoài thiên nhiên, do đó thường thấy trong nước, đất, không khí. Năm 1885, tại München, một bác sĩ nhi khoa tên là Theodor Escherich rất quan tâm đến những phát hiện quan trọng của Louis Pasteur và Robert Kock về vi khuẩn. Cùng với việc nghiên cứu bệnh tiêu chảy, Escherich tỏ rõ mối lưu ý tới một vi sinh vật đường ruột trẻ em qua nhiều thí nghiệm lâm sàng. Vi khuẩn do Escherich phát hiện từ trong tã lót của trẻ em được công bố với tên gọi đầu tiên là Bacterium coli commune. Chỉ 4 năm sau vi khuẩn này được giới chuyên môn đổi tên thành Escherich nhằm tri ân người có công khám phá. Năm 1895, mọi người lại gọi bằng tên Bacillus coli. Năm 1896, gọi thành Bacterium coli. Sau nhiều kiểu gọi, đến năm 1991, vi khuẩn này được định danh thống nhất toàn cầu là Escherichia coli (E.coli). 2.5.2.1 HÌNH DẠNG Trực khuẩn Gam âm, dài hay ngắn tùy thuộc môi trường nuôi cấy. Một số di động, một số lại bất động. Vi khuẩn không sinh bào tử. 2.5.2.2 TÍNH CHẤT SINH HÓA E.coli lên men nhiều loại đường, sinh hơi, khử nitrate thành nitrite. Để phân biệt E.coli với vi khuẩn đường ruột khác, người ta thường dùng thử nghiệm IMViC. Thử nghiệm IMViC với Indol dương tính (+), Methyl Red dương tính (+), Voges-Proskaur âm tính (–), và Simmon Citrate âm tính (–). 2.5.2.3 PHÂN LOẠI Theo cơ chế gây bệnh: người ta chia E.coli ra làm 5 nhóm chủ yếu: Nhóm E.coli gây xuất huyết đường ruột (Enterohemorrhagic E.coli viết tắc là EHEC). Nhóm E.coli gây bệnh (Enteropathogenic E.coli viết tắc là EPEC). Nhóm E.coli sinh độc tố ruột (Enterotoxigenic E.coli viết tắt là ETEC). Nhóm E.coli xâm nhập (Enteroinvasive E.coli viết tắt là EIEC). Nhóm E.coli kết dính ruột (Enteroaggregative E.coli viết tắt là EaggEC). 2.5.2.4 TRIỆU CHỨNG CHUNG KHI NHIỄM CÁC NHÓM E.COLI Bệnh phát đột ngột. Tiêu chảy ra máu là triệu chứng chính của nhiễm E. coli.  Người bị nhiễm cũng có thể cảm thấy đau thắt bao tử và nôn ói.  Triệu chứng thường bắt đầu 3 hay 4 ngày sau khi bị phơi nhiễm vi khuẩn E. coli.  Phần lớn bệnh nhân hồi phục sau vài ngày hay một tuần sau khi mắc bệnh.  Phần lớn bệnh nhân cũng chẳng cần đến bác sĩ vì họ không biết mình bị nhiễm E. coli.  Ngoài ra, nhiều người bị nhiễm mà không có triệu chứng và cũng không mắc bệnh. Khi bệnh nhân bị nhiễm E. coli nghiêm trọng (tức có thể làm rối loạn máu và suy thận), một số triệu chứng sau đây thường được ghi nhận: da trở nên xanh xao, cảm lạnh, cảm thấy yếu cơ, có những vết thâm tím trên người, đi tiểu rất ít nước tiểu. 2.5.2.5 MỘT SỐ NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM VÀ NGUỒN NƯỚC DO VI KHUẨN E.COLI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Tháng 9 năm 2006, một biến cố ngộ độc thực phẩm do rau spinach nhiễm vi khuẩn E.coli đã làm cho trên một trăm người ngã bệnh và có một cụ bà phải thiệt mạng tại Hoa Kỳ. Qua điều tra, đã xác định là rau spinach nói trên đã được sản xuất tại California và được phân phối đi khắp các tiểu bang Hoa Kỳ bởi 2 công ty rất nổi tiếng. Đó là công ty River Ranch, ở Salinas, Calif và công ty Natural Selections Foods ở San Juan Bautista, Calif. Rau spinach của 2 công ty nói trên được bán ra thị trường dưới rất nhiều tên khác nhau. Tháng 5 năm 2000, thành phố Walkerton, Ontario Canada đã chấn động lên sau khi có trên 2000 cư dân thình lình ngã bệnh, đau bụng, tiêu chảy và ói mửa. Trong số bệnh nhân này, cuối cùng có 7 người kém may mắn phải thiệt mạng. Các test thử nghiệm sau đó đã tìm ra được thủ phạm: đó chính là vi khuẩn E.coli 0157:H7 hiện diện trong nguồn nước uống của thành phố. Trước đó vài tuần lễ, cơ quan y tế địa phương đã có báo cho nhà máy nước Walkerton về sự hiện diện của loại vi khuẩn E.coli trên mức quy định trong nước máy. Tuy thế, nhưng giới chức trách nhiệm lại thờ ơ không chịu cho thi hành những biện pháp thích nghi. Năm 1999, thành phố La Baie, tỉnh bang Québec Canada ghi nhận một vụ ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn E.coli 0157:H7 gây nên. Có tất cả 11 người đã mắc bệnh và một em bé phải thiệt mạng sau khi dùng thịt bị nhiễm khuẩn E.coli 0157:H7… Năm 1997, công ty thực phẩm Hudson ở tiểu bang Nebraska (Hoa Kỳ), phải cho thu hồi khẩn cấp để hủy bỏ 25 triệu cân thịt hamburger đã bị nhiễm khuẩn E.coli 0157:H7. Trước đó 1 năm, tại một số tiểu bang phía Tây Hoa Kỳ cũng đã xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm do E.coli nhiễm trong nước pomme (applejuice) không được hấp khử trùng (pasteurized) trước khi bán ra. Tháng 7 năm 1996, tại thành phố Osaka, Nhật bản, một biến cố quan trọng về ngộ độc thực phẩm tương tự cũng gây nên đã làm trên 8000 người bị bệnh, đa số là trẻ em học sinh. Ngày 24/4/2001, hàng loạt vụ ngộ độc ở huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Nguyên nhân do một cơ sở sản xuất nước đá là nguồn cung cấp cho đại đa số công nhân và nhân dân trong vùng Bùi Chu - Bắc Sơn đều nhiễm E.coli trong nước đá cao gấp nhiều lần cho phép. Ngày 21/6/2006, một vụ ngộ độc thức ăn nghiêm trọng đã xảy ra tại Công ty TNHH Dae Won Đà Nẵng đóng tại KCN Hòa Khánh (Liên Chiểu, Đà Nẵng). Sau bữa ăn trưa (do công ty tổ chức), gần 600 công nhân đã bị đau bụng quằn quại, ói mửa, nhức đầu…Nguyên nhân do nguồn nước giếng sử dụng tại cơ sở dịch vụ cấp dưỡng Hiệp Thành (P.Hòa Khánh Nam, Q.Liên Chiểu) đã bị ô nhiễm E.coli cao gấp 150 đến 250 lần mức cho phép. KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TRẠNG VỆ SINH MÔI TRƯỜNG TẠI RẠCH ÔNG BUÔNG, QUẬN 6, TP.HCM 2.6.1 KHÁI QUÁT VỀ QUẬN 6 Quận 6 là Quận ven ngoại thành, nằm về phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh, với tổng diện tích tự nhiên là 7,14 km2, chiếm 0,34% tổng diện tích tự nhiên của toàn Thành phố. Dân số hiện nay của Quận là 247.212 người. Theo địa giới hành chính, Quận 6 được chia thành 14 phường và có vị trí: (xem Hình 2.7. Bản đồ Quận 6, TP.HCM) Hình 2.7. Bản đồ Quận 6, TP.HCM, nguồn: hochiminhcity.gov.vn Phía bắc giáp quận 5, quận 11 và quận Tân Bình, Phía đông giáp quận 8, Phía nam giáp quận 8, quận Bình Tân, Phía tây giáp quận Bình Tân. Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh, có chợ đầu mối Bình Tây là trung tâm bán buôn lớn của cả nước, do đó thế mạnh của Quận là thương mại dịch vụ, trong đó chủ yếu là buôn bán thực hiện trao đổi sản phẩm với các tỉnh miền Tây Nam bộ, bên cạnh đó với phần đông là dân lao động phát triển mạnh về sản xuất nhỏ tiểu thủ công nghiệp. Theo định hướng phát triển của Ủy ban nhân dân Quận, khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm, các ngành công nghiệp sạch không gây ô nhiễm môi trường. Duy trì sản xuất các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống xen lẫn trong khu dân cư, không gây ô nhiễm, sản xuất sạch và có giá trị kinh tế xuất khẩu như: ngành tiểu thủ công nghiệp điêu khắc, sản xuất mộc gia dụng cao cấp. Hệ thống kênh rạch Quận 6 khá đơn giản, nhưng lại kéo dài qua nhiều Phường của Quận đó là kênh Lò Gốm. Thượng nguồn kênh Lò Gốm bắt đầu từ Phường 14, trải dài qua các Phường 12, Phường 9, Phường 11, Phường 5, Phường 8 và hạ nguồn là ranh giới giữa Phường 10 và Phường 7. (xem Hình 2.8. Hệ thống kênh rạch Quận 6, TP.HCM) Vào những năm đầu thế kỷ 19, kênh Lò Gốm đã đóng vai trò là hệ thống giao thông đường thủy nối phía Nam thành phố với hệ thống kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long. Làng “Lò Gốm” là một trong những làng tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng của Sài gòn xưa, hoạt động kinh tế là chủ yếu. Giao thông bằng thuyền ghe đóng vai trò quan trọng trong khu vực. Hàng hóa được vận chuyển đến các vùng khác nhau dọc theo kênh. Một số đường phố chính chạy dọc kênh như đường Renault (hiện nay là đường Hậu Giang), hoặc đường Alexandre de Rhodes (hiện nay là đường Hùng Vương). Cùng với quá trình đô thị hóa, sự phát triển giao thông đường thủy bị chậm lại. Do thương mại phát triển nhanh chóng trong khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn. Đầu những năm 1940 các lò nung gốm và gạch ngưng hoạt động, hoạt động tiểu thủ công nghiệp bị đưa dần ra ngoại ô. (xem Hình 2.9. Kênh Lò Gốm vào những năm đầu thế kỷ 19) Hình 2.9. Kênh Lò Gốm vào những năm đầu thế kỷ 19, nguồn: btcctb.org/thlg/vn/canal.htm. Các khu vực bỏ trống dọc kênh dần dần bị người nhập cư lấn chiếm. Làn sóng người nhập cư đầu tiên là sau ngày giải phóng miền nam là ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố tiếp theo đổi mới vào năm 1986, đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa một cách tự phát. Làn sóng người nhập cư thứ hai, do nguyên nhân kinh tế, từ các vùng nông thôn nhập cư vào thành phố, đa số đến từ đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung. Dân nhập cư mua đất bất hợp pháp hoặc chiếm đất công. Những người đến trước xây những khu nhà lụp xụp trên bờ kênh. (xem Hình 2.10. Nhà lụp xụp đã được xây dựng trên kênh Lò Gốm) Hình 2.10. Nhà lụp xụp đã được xây dựng trên kênh Lò Gốm, nguồn: btcctb.org/thlg/vn/canal.htm. Ngày nay, kênh Lò Gốm là một trong những dòng kênh ô nhiễm nghiêm trọng của thành phố, nước đục màu nâu, đen và gây mùi hôi thối nặng ảnh hưởng tới hàng nghìn người dân sống hai bên kênh. Các dòng kênh trong nội thành phố không chỉ có chức năng tiêu thoát nước mà còn là đường giao thông thủy và cảnh quan đô thị. Ở thượng nguồn, vấn đề ô nhiễm do rác thải ra kênh được xem là điểm nóng về vệ sinh môi trường. Các ban, ngành, công ty vệ sinh trên địa bàn quận đã tổ chức tổng vệ sinh nhiều lần nhưng tình trạng mất vệ sinh do dân thiếu ý thức liên tục tái diễn. (xem phụ lục 2. Hình 1. Kênh lò Gốm ngày nay bị ô nhiễm nghiêm trọng). Khu vực thuộc lưu vực kênh Lò Gốm có đặc thù cho môi trường định cư. Hầu hết các khu định cư lân cận được thành lập với mật độ nhà ở cao. (xem Bảng 2.5. Lưu vực Kênh Lò Gốm-Sử dụng đất). Bảng 2.5. Lưu vực kênh Lò Gốm-Sử dụng đất. Đất sử dụng chính Diện tích đất Quận 6 Định cư 358,89 Sử dụng cho công cộng 20,65 Công nghiệp 50,94 Nhà kho 15,44 Công viên cây xanh 8,32 Quân đội 23,70 Đất trống 74,57 Đường xá/kênh và thứ khác 120,98 Tổng cộng 673,49 (Nguồn: Dự án cải thiện vệ sinh môi trường lưu vực kênh Tân Hóa-Lò Gốm ) Dự án cải tạo kênh và đường dọc kênh Tân Hoá – Lò Gốm cách đây 5 năm, do Ban Quản lý dự án nâng cấp đô thị thành phố làm chủ đầu tư bằng nguồn vốn vay ODA nhưng tới nay vẫn chưa vay được vốn, dự án chưa có vốn để triển khai. Trong khi đó, tình trạng xả rác, nước thải sinh hoạt của những người dân thiếu ý thức vẫn tiếp tục khiến ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng hơn. KHÁI QUÁT VỀ RẠCH ÔNG BUÔNG 2.6.2.1 LƯU VỰC RẠCH ÔNG BUÔNG Rạch Ông Buông là một trong những con rạch nằm trong hệ thống kênh rạch Lò Gốm, là ranh giới giữa Phường 12 và Phường 9, kéo dài khoảng 700m bắt đầu từ Cầu Ông Buông đến Cầu Hậu Giang. Chiều rộng của lòng Rạch xấp xỉ từ 4-9m.(xem phụ lục 2. Hình 2.11. Vị trí Rạch Ông Buông và Hình 2.12. Rạch Ông Buông, đoạn từ Cầu Ông Buông đến Cầu Hậu Giang). Hình 2.11. Vị trí Rạch Ông Buông Hình 2.12. Rạch Ông Buông, đoạn từ Cầu Ông Buông đến Cầu Hậu Giang, nguồn: Google Earth. 2.6.2.2 ĐỊA HÌNH ĐỊA CHẤT Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực đồng bằng lân cận, được tạo nên do đất bồi từ Đồng bằng sông Cửu Long và tạo ra đồng bằng, lớp đất bồi xấp xỉ mặt nước biển bọc lấy lớp nham thạch và đá trầm tích. Lưu vực kênh rạch tại đây có đặc tính vừa cát và đất sét phủ lên các trầm tích. Với mục đích xây dựng thì đất ở đây kết cấu có khả năng chịu tải thấp. 2.6.2.3 KHÍ HẬU VÀ KHÍ TƯỢNG Tổng lượng mưa hành năm 1.855mm. Có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm 93% tổng lượng mưa hàng năm (1.788mm) và mùa nắng từ tháng giêng đến tháng 3 chiếm 1% tổng lượng mưa hàng năm (18mm). Nhiệt độ trung bình hàng năm 27,40C và độ ẩm tương đối 77,2% Khí hậu thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là khí hậu gió mùa với đặc tính nhiệt độ cao, độ ẩm cao và gió mùa tây nam vào mùa mưa và gió mùa tây bắc từ tháng 11. 2.6.2.4 THỰC TRẠNG DÂN CƯ SINH SỐNG TẠI LƯU VỰC Mật độ dân số trung bình trong lưu vực là 350 người /ha cao hơn rất nhiều so với mật độ trung bình trong toàn thành phố và mật độ cộng đồng thu nhập ven kênh biến thiên trong khoảng 800-1100 người/ha. Phần lớn người có thu nhập dưới mức nghèo. (xem Bảng 2.6. Bảng kích cỡ và vị trí của khu vực thu nhập thấp và Hình 2.13. Các khu vực thu nhập thấp). Bảng 2.6. Bảng kích cỡ và vị trí của khu vực thu nhập thấp Quận/phường Diện tích (ha) Dân số Hộ gia đình Mật độ dân số (người/ha) Q6/P12 5,70 3.110 622 545 Q6/P9 3,53 3.092 619 875 Q6/P9 3,47 2.601 521 750 Q6/P14 3,33 2.901 581 871 Q6/P14 2,74 2.563 513 935 Q6/P14 1,98 1.852 371 935 Q6/P14 1,48 1.291 259 871 (Nguồn: Dự án cải thiện vệ sinh môi trường lưu vực kênh Tân Hóa-Lò Gốm ) Nhìn chung, những hộ dân này thiếu thốn về điều kiện vệ sinh, dịch vụ cung cấp nước sinh hoạt và loại bỏ rác thải, mức độ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng cao. Hệ thống kênh là loại hình thải bỏ chính của nước thải sinh hoạt và rác. (xem phụ lục 2. Hình 2.. Dân cư có mức thu nhập kém sinh sống dọc bờ kênh và Hình 3. Nối tiếp và Hình 4. Nối tiếp). 2.6.3 HIỆN TRẠNG VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Chức năng của Rạch Ông Buông chủ yếu là giao thông thuyền ghe để phục vụ thương mại, du lịch đường thủy và tiêu thoát nước của thành phố, nhưng hiện nay nước ở đây bị ô nhiễm nặng nề, có mùi hôi, đen, rác thải làm dòng nước khó lưu thông, hầu như sinh vật không tồn tại được, dòng kênh hoàn toàn không thể sử dụng để khai thác những chức năng vốn có của một dòng kênh, làm thiệt hại về tài nguyên nước. Người dân sống dọc hai bên dòng kênh hầu như không thể sinh hoạt bình thường được, do mùi hôi của con kênh bóc lên gây nhiều khó chịu, ảnh hưởng đến sức khỏe của công động sống trong khu vực này. (xem phụ lục 2. Hình 5. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng tại Rạch Ông Buông và Hình 6. Nối tiếp). HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC Hệ thống thoát nước tại Rạch Ông Buông gồm có 6 cống chính được bố trí tại Cầu Ông Buông, đoạn giữa Rạch Ông Buông và Cầu Hậu Giang và 9 cống phụ dọc có kích cở <600mm và 9 cống phụ (xem Hình 2.14. Thoát nước và thoát nước bẩn, năm 1999). Hệ thống thoát nước của lưu vực thoát nước kênh rạch tại đây là hệ thống cống ngầm. Mạng lưới cống ngầm (hình tròn) được vận hành như một hệ thống thoát nước chung dẫn cả nước mưa và nước thải từ nguồn sinh hoạt thải ra kênh. Khảo sát cho thấy đoạn Rạch Ông Buông chịu ảnh hưởng của thủy triều khá cao, chủ yếu từ sông Sài Gòn dẩn vào kênh rạch tại đây. (xem phụ lục 2. Hình 7. Cống xả nước thải sinh hoạt tại Rạch Ông Buông →Hình. 12. Nối tiếp). RÁC THẢI Việc thu gom rác bị hạn chế ở nhiều nơi do xe thu gom rác không thể vào các con hẻm nhỏ. Ngoài ra, một số hộ gia đình không có hợp đồng hay thỏa thuật với người thu gom, thường vì các lý do chi trả. Điều này đặc biệt xảy ra đối với các hộ gia đình sống dọc kênh và trong các khu vực có thu nhập thấp. Do các tình trạng nêu trên, một lượng chất thải sinh hoạt đáng kể bị vứt xuống hệ thống kênh rạch. (xem phụ lục 2. Hình 13. Rác thải bị vứt xuống kênh rạch→Hình 18. Nối tiếp). Nhưng các biển cấm đổ rác được đặt tại nhiều nơi dọc con kênh dường như không có hiệu lực vẫn không thể ngăn nổi tình trạng đổ rác xuống kênh. Dường như việc xả rác tại lưu vục kênh dần dần trở nên chuyện bình thường của các hộ dân..(xem phụ lục 2. Hình 19. Biển cấm đổ rác tại lưu vực kênh →Hình 22. Nối tiếp). BỂ TỰ HOẠI Nước thải sinh hoạt từ các hộ gia đình có hai thành phần: nước thải từ bếp và phòng tắm, và nước thải từ nhà vệ sinh. Nước thải từ nhà bếp và phòng tắm thải thẳng ra cống được đặt dọc theo hầu hết các đường phố và hẻm. Nước thải từ nhà vệ sinh được thu vào các hầm tự hoại ngay từ ban đầu, hầm thường đặt dưới nền nhà. Dòng thảy từ các hầm tự hoại sau đó được thải vào cống. Tuy nhiên một số hộ gia đình không có hầm tự hoại và do đó thải nước thải từ nhà vệ sinh thải vào cống. (xem Bảng 2.7. Đặc điểm của các khu dân cư thu nhập kém). Bảng 2.7. Đặc điểm của các khu dân cư thu nhập kém Quận Phường Diện tích (m2) Nhà Hộ gia đình Dân số Mật độ dân số (người/ha) % nhà không có toilet % các nhà không có hầm tự hoại 06 12 61.446 1.484 1.526 3.110 545 12,5 13 06 09 38.120 637 668 3.092 875 2 9,8 06 09 35.452 427 532 2.601 750 20,5 31,6 (Nguồn: Dự án cải thiện vệ sinh môi trường lưu vực kênh Tân Hóa-Lò Gốm ) 2.6.3.4 NƯỚC THẢI SINH HOẠT VÀ CÔNG NGHIỆP Với mật độ dân số cao khoảng 350 người/ha. Mỗi ngày một lượng nước thải lớn đã đổ vào kênh. Do điều kiện sinh sống còn nghèo nàn như nhà ổ chuột, nhà sàn trên kênh, tất cả nước thải đều bị đưa trực tiếp vào kênh. Đó là nguồn ô nhiễm quan trọng của dòng kênh. Ở thượng nguồn, phần lớn có nhiều loại xí nghiệp nhà máy quy mô nhỏ như: xí nghiệp chế biến Cầu Tre, công ty thủy sản Nhan Hòa, công ty thủy sản Vạn Hưng…Các xí nghiệp này hầu như không có hệ thống xử lý nước thải do đó nước thải công nghiệp đều đưa vào kênh.(xem Hình 2.15. Vị trí các công ty xí nghiệp trong lưu vực Tân Hóa-Lò Gốm, năm 1998). 2.6.3.5 SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG Để đánh giá sự tác động đến sức khỏe qua các dữ liệu thống kê tại lưu vực kênh Lò Gốm của trung tâm y tế quận, và các trạm y tế phường với 3 năm gần đây được thu thập tại các phường ở dọc kênh Lò Gốm. Kết quả từ các trung tâm y tế quận cho thấy cùng mẫu như nhau cho cả 3 quận đều có sự than phiền về khí thải. Các bệnh có liên quan đến nước (viêm da, tiêu chảy) là nhóm quan trọng thứ 2 đe dọa sức khỏe và cho thấy môi trường có chất lượng kém. Mùi hôi thối kênh Lò Gốm tác động chất lượng không khí không tốt đối với cộng động ven kênh ảnh hưởng rỏ ràng qua tỷ lệ mắc bệnh hô hấp đối với dân địa phương lẩn thiệt hại về cơ sở hạ tầng và các thiết bị dân dụng ở gần kênh. Các dữ liệu ghi chép được từ quận 6 cho thấy rằng lãnh vực tiêu chảy, kiết lỵ và thương hàn đã báo hiệu chiều hướng giảm dần trong khi đó bệnh sốt rét, sốt nhiệt đới đã gia tăng. Các phường 5,8,12 và 14 cạnh kênh Lò Gốm cho thấy sự đe dọa về sức khỏe quần chúng ở mức cao nhất, qua sự gia tăng lãnh vực bệnh hoạn thường xuyên kết hợp với môi trường có chất lượng kém (bệnh tiêu chảy và hô hấp) qua tiến trình tư vấn công cộng với nhóm có thu nhập thấp ở phường 12 quận 6, người dân địa phương báo cáo rằng vào năm 1998 có bệnh dịch sốt nhiệt đới và sốt thương hàn. Các dữ liệu cho thấy, tại đây có nguy cơ nhiễm các vi khuẩn gây bệnh rất cao. Chất lượng nước kênh đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh tế xã hội, đời sống dân cư. Có thể nguồn nước vượt tiêu chuẩn về chất lượng nước mặt của tiêu chuẩn Việt Nam, tình trạng này làm cho suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ngày càng trầm trọng hơn. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước hiện nay đã đến mức báo động không chỉ riêng ở thành phố mà trên khắp tỉnh thành cả nước cũng như trên thế giới. Không chỉ ở khu vực đô thị mà ngay cả khu vực nông thôn tình trạng ô nhiễm nguồn nước đã diễn ra khá trầm trọng. Chất lượng nước mặt kém, người dân không thể sử dụng cho sinh hoạt hằng ngày. CHƯƠNG 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH Hình 3.1.Vị trí lấy mẫu tại Rạch Ông Buông, Quận 6, TP.HCM, nguồn: google Earth. 3.1 KỸ THUẬT LẤY MẪU PHÂN TÍCH VI SINH NƠI LẤY MẪU Các mẫu được lấy tại 3 vị trí khác nhau tại vùng Rạch Ông Buông là: Vị trí thứ nhất- Cầu Ông Buông Vị trí thứ hai -đoạn giữa Rạch Ông Buông (cách Cầu Ông Buông và Cầu Hậu Giang khoảng 350m). Ví trí thứ ba-Cầu Hậu Giang.(xem Hình 3.1. Vị trí lấy mẫu tại Rạch Ông Buông). 3.1.2 ĐIỂM LẤY MẪU Các mẫu được lấy ở giữa dòng chảy tại 3 vị trí lấy mẫu của vùng Rạch Ông Buông 3.1.3 SỐ MẪU Chương trình lấy mẫu phân tích vi sinh, tổng cộng số mẫu lấy tại 3 vị trí là 15 mẫu, mỗi vị trí lấy 5 mẫu. 3.1.4 THỜI GIAN LẤY MẪU Mẫu được lấy tại 3 vị trí nói trên trong cùng một khoảng thời gian là 15 giờ chiều, lúc nước lớn.(Bảng 3.1. Lịch trình lấy mẫu tại Rạch Ông Buông, Quận 6, Thành Phố Hồ Chí Minh). Bảng 3.1. Lịch trình lấy mẫu tại Rạch Ông Buông, Quận 6, Thành Phố Hồ Chí Minh. Thời gian lấy mẫu Nơi lấy mẫu Đặc điểm của mẫu Ký hiệu 15 giờ, 06/04/2009 Cầu Ông Buông Mùi hôi, đục, đen C.OB1 Đoạn giữa Rạch Ông Buông Mùi hôi, đục, đen ĐG1 Cầu Hậu Giang Mùi hôi, đục, đen C.HG1 15 giờ, 19/04/2009 Cầu Ông Buông Mùi hôi, đục, đen C.OB2 Đoạn giữa Rạch Ông Buông Mùi hôi, đục, đen ĐG2 Cầu Hậu Giang Mùi hôi, đục, đen C.HG2 15 giờ, 10/05/2009 Cầu Ông Buông Mùi hôi, đục, đen C.OB3 Đoạn giữa Rạch Ông Buông Mùi hôi, đục, đen ĐG3 Cầu Hậu Giang Mùi hôi, đục, đen C.HG3 15 giờ, 24/05/2009 Cầu Ông Buông Mùi hôi, đục, đen C.OB4 Đoạn giữa Rạch Ông Buông Mùi hôi, đục, đen ĐG4 Cầu Hậu Giang Mùi hôi, đục, đen C.HG4 15 giờ, 07/06/2009 Cầu Ông Buông Mùi hôi, đục, đen C.OB5 Đoạn giữa Rạch Ông Buông Mùi hôi, đục, đen ĐG5 Cầu Hậu Giang Mùi hôi, đục, đen C.HG5 CHU KỲ LẤY MẪU Khoảng thời gian của mỗi chu kì lấy mẫu là 2 tuần. Tức là cách 2 tuần lấy mẫu một lần tại 3 vị trí. 3.1.6 DỤNG CỤ LẤY MẪU Mẫu được lấy bằng một dụng cụ tự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphan 2.doc
  • dochinh 2.8.he thong kenh rach q6.doc
  • docHINH 2.13 .THU NHAP THAP.doc
  • docHINH 2.14.doc
  • dochinh 2.15.doc
  • docphan 1.doc
  • docphan 3.doc