MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU iv
DANH MỤC HÌNH VẼ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về nút giao thông và tổ chức giao thông tại nút 4
1.1. Cơ sở lý luận về nút giao thông 4
1.1.1. Khái niệm về nút giao thông 4
1.1.2. Đánh giá mức độ an toàn, phức tạp của nút giao thông 8
1.1.3. Yêu cầu và nguyên tắc cơ bản thiết kế nút giao thông 12
1.1.4. Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cơ bản khi thiết kế nút giao thông đồng mức 14
1.2. Tổ chức giao thông tại nút đồng mức 18
1.2.1. Khái niệm về tổ chức giao thông 18
1.2.2. Các giải pháp tổ chức giao thông tại nút đồng mức 19
Chương 2: Hiện trạng nút giao thông Ô Chợ Dừa 33
2.1. Khái quát giao thông vận tải đô thị Hà Nội 33
2.1.1. Khái quát hiện trạng giao thông đường bộ đô thị Hà Nội 33
2.1.2. Hiện trạng phương tiện, vận tải và ATGT đô thị Hà Nội 40
2.2. Hiện trạng nút giao thông Ô Chợ Dừa 42
2.2.1. Vị trí và đặc điểm hình học của nút Ô Chợ Dừa 42
2.2.2. Hiện trạng cơ sở hạ tầng tại nút 45
2.2.3. Hiện trạng tổ chức giao thông tại nút 46
2.2.4. Hiện trạng tham gia giao thông tại nút 48
2.2.5. Lưu lượng giao thông tại nút 51
2.3. Đánh giá hiện trạng nút giao thông Ô Chợ Dừa 56
2.3.1. Đánh giá cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông của nút Ô Chợ Dừa 56
2.3.2. Đánh giá tình hình tổ chức giao thông tại nút Ô Chợ Dừa 57
Chương 3: Đề xuất và lựa chọn phương án tổ chức giao thông tại nút giao Ô Chợ Dừa 58
3.1. Dự báo lưu lượng giao thông qua nút Ô Chợ Dừa 58
3.1.1. Phương pháp dự báo lưu lượng giao thông 58
3.2 Xây dựng các giải pháp tổ chức giao thông tại nút đồng mức Ô Chợ Dừa 63
3.2.1. Cơ sở xây dựng giải pháp tổ chức giao thông tại nút Ô Chợ Dừa 63
3.2.2. Xây dựng các giải pháp tổ chức giao thông cho nút Ô Chợ Dừa 65
3.3. Đánh giá và lựa chọn giải pháp tổ chức giao thông hợp lý cho nút Ô Chợ Dừa 80
3.3.1. Đánh giá các giải pháp tổ chức giao thông 80
3.3.2. Lựa chọn giải pháp TCGT cho nút Ô Chợ Dừa 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 2779 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đồ án Đề xuất và lựa chọn phương án tổ chức giao thông tại nút giao Ô Chợ Dừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y lớn hơn 25m thì thường phải bố trí đảo an toàn cho người đi bộ giữa hai phần xe chạy hai chiều (hình 1.2). Bề rộng đảo tối thiểu 1,5m, diện tích đảo xác định bởi công thức:
Fo = f * Qo (m2) (1.15)
Trong đó: f (m2): là diện tích định mức cho 1 người đi bộ đứng trên đảo.
Qo: Số lượng người trú lại đảo trong thời gian đèn đỏ. Được xác định bằng số người đi bộ qua đường trong thời gian đèn vàng
Qo = Q*Tv/3600 (người) (1.16)
Trong đó: Q: là số lượng người đi bộ trong 1 giờ
Tv: là thời gian đèn vàng bật sáng.
Để hướng cho người đi bộ đi dúng phần đường quy định và đảm bảo an toàn cho họ, người ta thường bố trí rào chắn .Cấu tạo hàng rào có thể gồm các trụ đỡ có chắn song luồn qua, hoặc dây mềm luồn qua. Cũng có khi là rào bằng thép ghép vào trụ bê tông…Tất cả phải sơn vạch trắng - đỏ để mọi người dễ nhận biết.
Chương 2: Hiện trạng nút giao thông Ô Chợ Dừa
2.1. Khái quát giao thông vận tải đô thị Hà Nội
Trong phần này ta sẽ nghiên cứu về GTVT đường bộ của Thành phố Hà Nội làm cơ sở để nhận xét về đối tượng nghiên cứu và thấy được GTĐT khu vực ảnh hưởng của nút Ô Chợ Dừa.
2.1.1. Khái quát hiện trạng giao thông đường bộ đô thị Hà Nội
a) Mạng lưới quốc lộ hướng tâm:
Nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, Thủ đô Hà Nội là nơi hội tụ của các tuyến Quốc lộ chiến lược quan trọng như Quốc lộ 1A, 5,18, 6,32,2 và 3. Đây là các tuyến đường tạo ra mối liên hệ từ Thủ đô Hà Nội đi các trung tâm dân cư, kinh tế và quốc phòng của cả nước. Đồng thời ngược lại cũng tạo sự giao lưu giữa các Tỉnh thành khác trong cả nước với Thủ đô.
Mạng lưới đường bộ khu vực Hà Nội được cấu thành bởi các trục đường giao thông liên tỉnh là những quốc lộ hướng tâm có dạng nan quạt và các trục đường đô thị bao gồm các đường vành đai, các trục chính đô thị và các đường phố.Trong thời gian gần đây nhiều tuyến giao thông quan trong đã được cải tạo và nâng cấp nhằm giải toả, phân luồng giao thông cho Thủ đô Hà Nội từ xa, giảm áp lực quá tải cho mạng lưới giao thông đô thị Hà Nội, đặc biệt trên các trục hướng tâm và các cửa ô hiện nay, đó là:
Quốc lộ 5 và Quốc lộ 18 tạo nên một hành lang nối Hà Nội với khu vực Đông Bắc và các cảng Hải Phòng, Cái Lân. Đây là những tuyến đường có tầm quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng có nhiệm vụ nối hai trung tâm kinh tế lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Hiện tại Quốc lộ 5 đã được nâng cấp cải tạo thành 4 làn xe, rút ngắn được 1/3 thời gian xe chạy so với trước đây, Quốc lộ 18 đang được nâng cấp cải tạo theo tiêu chuẩn đường 2 làn xe, trong tương lai sẽ hình thành đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long với quy hoạch phát triển các khu công nghiệp vùng Đông Bắc.
Quốc lộ 1A phía Bắc: đây là tuyến giao thông nối Hà Nội với cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn, một trong các cửa khẩu đường bộ chính giao lưu giữa Việt nam và Trung Quốc. Hiện tại đã được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường cấp 3. Đặc biệt đoạn từ Bắc Giang về Hà Nội tuyến được tách ra, làm mới đi song song với tuyến hiện có về phía Đông Nam để nối với cầu Đuống mới, gặp Quốc lộ 5 tại ví trí cầu Bây (nút giao thông lập thể Phù Đổng).
Quốc lộ 1A phía Nam: Với mục đích giảm lưu lượng hiện nay cũng như trong tương lai trên tuyến giao thông huyết mạch này, hiện tại đã xây dựng xong tuyến đường cao tốc đoạn Cầu Giẽ - Pháp Vân. Vị trí tuyến cơ bản chạy song song và cách tuyến đường 1A hiện có từ 1200m - 2000m về phía Đông.
Quốc lộ 6: Tuyến đường này có nhiệm vụ nối Hà Nội với các khu vực Tây Bắc của đất nước. Đặc biệt nối với trung tâm thuỷ điện lớn nhất nước ta hiện nay là nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, cách Hà Nội khoảng 70km. Hiện tại tuyến đường này đã và đang được nâng cấp, mở rộng, trong đó đoạn từ Thị xã Hà Đông đến Ba La đang được mở rộng thành 6 làn xe . Hiện tại Quốc lộ 6 đang được nâng cấp cải tạo theo tiêu chuẩn đường 2 làn, tạo mối liên hệ chiến lược với các tỉnh vùng núi Tây Bắc phục vụ cho việc xây dựng thuỷ điện Sơn La trong những năm tới đây.
Quốc lộ 3 và Quốc lộ 2: Trong những năm qua hai tuyến đường này cũng được tập trung nâng cấp nhằm tăng năng lực thông qua trên toàn tuyến. Hiện tại Quốc lộ 2 được đấu nối với đường Bắc Thăng Long - Nội Bài , tạo mối liên hệ từ Thủ đô đi các tỉnh phía Tây và Tây Bắc. Quốc lộ 3 đoạn từ huyện Sóc Sơn về Thành phố đã được mở rộng để đảm bảo lưu lượng giao thông. Đang có các dự án nâng cấp cải tạo Quốc lộ 2 theo tiêu chuẩn đường 2làn xe và các dự án xây dựng đường cao tốc song hành với Quốc lộ 2 đến Đoan Hùng và Quốc lộ 3 đến Thái Nguyên.
Quốc lộ 32: là Quốc lộ quan trọng liên kết vùng Tây Bắc với cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội. Đoạn Cầu Giấy- Cầu Diễn đã được cải tạo mở rộng và đi vào hoạt động theo mặt cắt ngang đường đô thị có 4 làn xe cơ giới, song vẫn chưa tương xứng với vai trò và vị trí của một tuyến đường nối vào cửa ngõ phía Tây của Hà Nội.
Tuyến đường cao tốc Láng - Hoà Lạc: Liên kết Thủ đô Hà Nội với chuỗi đô thị đối trọng Miếu Môn - Xuân Mai - Hoà Lạc - Sơn Tây. Trong tương lai đây là một trục chính quan trọng nhất nối Thủ đô Hà Nội và chùm đô thị vê tinh Sơn Tây-Hoà lạc- Miếu Môn, được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cao tốc đô thị
b) Giao thông đối ngoại:
Đây là các tuyến đường vành đai được xây dựng nhằm giải tỏa, điều phối các luồng xe qua cảnh qua khu vực Hà Nội cũng như mạng lưới giao thông đối ngoại. Quy hoạch tổng thể của thủ đô Hà Nội đến năm 2020 được chính phủ phê duyệt năm 1998 định hướng cho giao thông Hà Nội có 4 tuyến đường vành đai :
Vành đai 1: Nguyễn Khoái – Trần Khát Chân – Đại Cồ Việt – Kim Liên – La Thành – Ô chợ Dừa – Giảng Võ – Ngọc Khánh – Liễu Giai – Hoàng Hoa Thám. Hiện tại vành đai 1 chủ yếu đóng vai trò là tuyến đường phố chính do nằm sâu trong trung tâm thành phố. Hiện tại mở rộng từ 50 - 54m một số đoạn như Đại Cồ Việt, Trần Khát Chân, Kim Liên.
Vành đai 2: Minh Khai – Ngã Tư Vọng – Ngã Tư Sở - đường Láng – Cầu Giấy – Bưởi – Lạc Long Quân – Nhật Tân và vượt sông Hồng từ vị trí xã Phú Thượng sang xã Vĩnh Ngọc qua Đông Hội, Đồng Trứ, Quốc lộ 5 tiếp tục vượt sông Hồng tại Vĩnh Tuy nối vào dốc Minh Khai. Hiện tại vành đai 2 đã cơ bản hoàn thành các đoạn tuyến phía Nam sông Hồng và đang đảm nhiệm vai trò tuyến vành đai chính của Thủ đô. Tuy nhiên do tốc độ đô thị hoá của Hà Nội nói chung và các khu vực chính mà tuyến đường vành đai 2 đang diễn ra nhanh chóng nên hiện nay thực tế vành đai 2 đồng thời phải đảm nhiệm hai chức năng là tuyến vành đai thành phố và tuyến giao thông đô thị.
Vành đai 3: Bắc Thăng Long-Nội Bài – Mai Dịch – Phạm Hùng – Thanh Xuân – Pháp Vân – Sài Đồng – Cầu Đuống (mới) – Ninh Hiệp – Việt Hưng nối với đường Bắc Thăng Long - Nội Bài thành tuyến đường khép kín. Tuyến đường vành đai 3 cho tới thời điểm năm 2005 vẫn chưa hình thành một tuyến liên tục, bước đầu mới hình thành một số đoạn như sau:
+ Đoạn từ sân bay Nội Bài - Trung Hoà giao đường Láng Hoà Lạc với chiều dài khoảng 20km, bề rộng mặt cắt ngang 23 - 24m và 68m bao gồm 4 làn xe cơ giới, hai bên có dải dành cho xe thô sơ. Hiện tại tuyến này đang đảm nhiệm vai trò là tuyến chính nối Trung tâm Hà Nội với sân bay Quốc tế Nội Bài và là tuyến quan trọng nối với các tỉnh phía Tây và Tây Bắc.
+ Đoạn Pháp Vân - Yên Sở với chiều dài khoảng 2 km, bề rộng mặt cắt ngang 10 - 12m, gồm 2 làn xe.
+ Đoạn Trung Hoà - Thanh Xuân (giao với đường Nguyễn Trãi).
Vành đai 4: Bắt đầu từ phía Nam thị xã Phúc Yên qua xã Mê Linh và vượt xã Đại mạch (Giáp giữa Hà Nội và Phúc Yên) sang xã Thượng Cát (Cầu Thượng Cát), đi song song phía ngoài đường 70 và giao với đường 32 tại xã Kim Trung và giao với đường Láng – Hòa Lạc (Km 8 + 500), qua ga Hà Đông, Ngọc Hồi và vượt sông Hồng tại Vạn Phúc sang xã Thắng Lợi (Cầu Mễ Sở) và giao với quốc lộ 5 tại Như Quỳnh và đi thẳng nối tiếp vào đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh.
c) Giao thông đối nội:
Hạ tầng đường bộ ở trung tâm Hà Nội gồm 326 đường phố, với tổng chiều dài 598 Km chiếm diện tích 7,3km2. Các đường phố hiện tại đều ngắn và hẹp, chất lượng đường xấu hoặc trung bình. Mật độ trung bình đường nội thành rất thấp chỉ đạt 4,38 km/km2 và 0,22km/1000 dân, lại phân bố không đều. Chẳng hạn mật độ đường ở quận Hoàn Kiếm đạt 11,6km / km2 nhưng ở quận Tây Hồ chỉ đạt 1,8km/km2. Trừ một số con đường xây dựng gần đây có mặt cắt ngang đường tương đối rộng còn hầu hết là rất hẹp (cả lòng đường và vỉa hè). Đặc biệt các đường phố cổ có chiều rộng từ 6 đến 8m, phố cũ từ 12 - 18m. Khoảng cách đường tới ngã ba, ngã tư ở phố cổ đạt từ 50 - 100m, phố cũ từ 200 - 400m dẫn tới tốc độ xe chạy chỉ đạt 17.7 - 27.7 km/h. Tại các khu phố này đều có lưu lượng xe lớn nên thường xuyên ách tắc đặc biệt là các giờ cao điểm. Theo khảo sát, lưu lượng giao thông ở các trục đường như Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tôn Đức Thắng, Khâm Thiên, Giảng Võ, Phố Huế bình quân giờ cao điểm có trên 10.000 xe/h.
Mật độ mạng lưới thấp và phân bố không đều. Mật độ bình quân ở khu vực nội thành là 0.87km/km2 chỉ bằng 35-40% so với mức trung bình trên thế giới.
Cùng với sự mở rộng của các đường đô thị hướng tâm đã mở rộng và xây dựng một số đường cấp thành phố trong khu vực nội thành nhằm tăng khả năng thông qua trên các trục giao thông chính.
Về cơ bản, các tuyến hướng tâm chính đã được mở rộng, cụ thể như sau:
- Đường Giải Phóng đoạn từ Văn Điển - Kim Liên: Có mặt cắt ngang đã mở rộng tới 38,5 - 42m với 4 - 6 làn xe cơ giới, mỗi bên có đường cho xe thô sơ rộng 5 - 6 m.
- Đường Nguyễn Trãi: mặt cắt ngang rộng 50 - 60 m, có 6 làn xe cơ giới trong đó có hai làn dành riêng cho xe buýt, hai làn xe thô sơ hai bên.
- Đường 32, đoạn Cầu Giấy - Xuân Thủy: Có mặt cắt ngang rộng 33m với 6 làn xe chạy.
- Đường Nguyễn Văn Cừ: Có mặt cắt ngang đảm bảo cho 4 làn xe chạy liên tục, hai bên đường có làn xe thô sơ rộng 5.5m.
- Ngoài ra, đoạn Cầu Chui - Trâu Qùy, mặc dù hiện tại được coi như đường Quốc lộ nhưng do tốc độ đô thị hoá khu vực Sài Đồng nhanh chóng, một loạt các khu công nghiệp, đô thị mới đã và đang được triển khai xây dung tại đây, do đó tính chất đường đô thị của đoạn này càng được khẳng định.
Cùng với sự mở rộng các đường đô thị hướng tâm, đã mở rộng và xây dựng một số tuyến đường cấp thành phố trong khu vực nội thành nhằm tăng khả năng lưu thông trên các trục giao thông chính, từng bước hoàn chỉnh các tuyến đường “khung” cấp thành phố, đó là:
- Tuyến đường Liễu Giai - Ngọc Khánh – Nguyễn Chí Thanh – Trần Duy Hưng, có mặt cắt ngang rộng 50m với 6 làn xe chạy.
- Tuyến đường Trần Khát Chân - Đại Cồ Việt - Kim Liên: Có mặt cắt ngang rộng từ 50 - 54m gồm 4 làn xe cơ giới và 4 làn xe thô sơ.
- Tuyến đường Yên Phụ - đê Nhật Tân: Mặt cắt ngang đảm bảo cho 4 - 6 làn xe chạy.
- Tuyến đường Kim Mã - Cầu Giấy: Có mặt cắt ngang rộng 33m với 6 làn xe.
- Tuyến đường Thái Hà - Huỳnh Thúc Kháng: Có mặt cắt ngang rộng 30 m với 4 làn xe.
- Tuyến đường Hoàng Quốc Việt: Có mặt cắt ngang rộng 50 m với 6 làn xe cơ giới và dự trữ cho đường sắt nội đô.
d) Hệ thống nút giao thông đô thị:
- Hệ thống giao thông Hà Nội có nhiều giao cắt, chỉ tính trong nội thành có khoảng 610 nút giao cắt đồng mức (từ ngã ba trở lên) và rất ít các nút giao thông khác mức. Trong đó có khoảng 170 nút có đèn tín hiệu giao thông. Chính tình trạng nút giao thông là đồng mức nên tạo rất nhiều giao cắt và dẫn đến xung đột và gây ra tai nạn và ùn tắc giao thông thường xuyên.
- Hệ thống tín hiệu giao thông của Hà Nội được thiết kế theo đơn vị tiêu chuẩn là xe con và xe cá nhân, cho nên có nhiều hạn chế khi vận hành và điều khiển dòng giao thông với xe máy là chủ đạo.
- Phần lớn hệ thống đèn tín hiệu điều khiển hiện nay mới chỉ có 2 pha nên trong nhiều trường hợp làm cho dòng phương tiện càng trở nên phức tạp hơn.
Các nút giao đã cải tạo và lắp đèn mới như là:
- Nút Daewoo: Với hệ thống đèn 3 pha đã khác phục được hiện tượng ùn tác giao thông, giảm được tai nạn tại đây.
- Nút Nam Chương Dương: đây là một nút giao khác mức tương đối hiện đại và cơ bản khắc phục được hiện tượng ùn tắc giao thông tại nút và các phương tiện giao thông hoạt động ổn định.
- Nút Ngã Tư Vọng: đây cũng là giao cắt khác mức, các xung đột tại nút đã được hạn chế tối đa, đã cơ bản khắc phục được tình hình ùn tắc giao thông và hoạt động có hiệu quả hơn.
- Nút Ngã Tư Sở: đã xây dựng xong cầu vượt và đang thi công hầm cho người đi bộ.
- Nút Kim Liên - Đại Cồ Việt: đang xây dựng hầm giao thông khác mức.
- Nút Trần Duy Hưng (đoạn đi hoà Lạc): giao cắt khác mức bằng hầm chui.
- Một số nút khác cũng đã có đèn tín hiệu 3 pha như: Nút Tôn Thất Tùng- Chùa Bộc, Chùa Bộc – Tây Sơn, phố Huế - Đại Cồ Việt, Cát Linh, còn các nút còn lại là đèn hai pha và tự điều chỉnh tự động hoặc bán tự động.
Hiện nay trong nội thành các nút và các đường giao thông trọng điểm đang tiếp tục được cải tạo như: Nút Bưởi, các tuyến đường như Láng, Khu vực Minh Khai…
Bên cạnh các nút đã được nâng cấp cải tạo thì rất còn nhiều nút vẫn trong tình trạng hoạt động kém hiệu quả và các dòng phương tiện xung đột nhau mà chưa kiểm soát được gây ra những bức xúc nhất định. Các giao cắt thường là đồng mức cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho việc cải tạo, khắc phục vì nếu xây dựng giao cắt khác mức thì vốn đầu tư rất lớn.
e) Hệ thống cầu
Với việc phát triển Hà Nội về phía Bắc như hiện nay thì sông Hồng và sông Đuống sẽ là con sông chảy qua nội thành .Khi đó hệ thống cầu bắc qua sông Hồng và sông Đuống đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giao thông đô thị.
Hiện nay có 5 cây cầu chính đó là:
- Cầu Chương Dương: Có hai làn xe cho ôtô và 2 làn xe bên cho xe máy, chiều dài cầu 1,2km. Qua điều tra đây là cây cầu có lưu lượng thông qua cao nhất trong các cầu hiện có, ngày cao điểm đạt tới 10 000 – 11000 lượt xe qua cầu .
- Cầu Long Biên: Đây là cây cầu sắt bộ liên hợp dài 1,6 km gồm một đường sắt và mỗi bên là một làn xe cho xe đạp và người đi bộ.
- Cầu Thăng Long: Với chiều dài 3500m, cấu tạo là giàn thép, cấu trúc là cầu đường bộ và đường sắt đi chung, gồm 2 tầng: Tầng trên cho đường bộ, tầng dưới cho đường sắt. Cầu có 25 nhịp phần cầu chính và 46 nhịp cầu đường dẫn của đường sắt và đường xe thô sơ.
+ Tầng 1: có 2 làn cầu riêng biệt, rộng 3,5 m ( 1 làn) dùng cho phương tiện thô sơ. phần giữa tầng 1 là đường dành cho tầu hỏa có chiều rộng 11m.
+ Tầng 2: dành cho các loại xe cơ giới có chiều rộng 21m, mặt cầu bê tông, bê tông nhựa và 2 làn dành cho người đi bộ tham quan.
Cầu Đuống: Bắc qua sông Đuống nối từ Gia Lâm sang Đông Anh.
Cầu Thanh Trì: Bắc qua sông hồng, vừa được hợp long vào cuối năm 2008, và đang trong quá trình hoàn thiện, đây là cây cầu có ý nghĩa rất lớn nối giữa Quốc lộ 1 và Quốc lộ 5 và là giao thông huyết mạch của Quốc gia.
- Cầu Phù Đổng: mới xây dựng sử dụng cho đường ôtô.
Cũng trong giai đoạn nay có một số cây cầu đang được chuẩn bị xây dựng hoặc đã gần hoàn thiện như cầu Thượng Cát, cầu Nhật Tân, cầu Thanh Trì, cầu Mễ Sở, cầu Từ Liên, cầu Đông Trù.
Ngoài ra hiện nay trong nội thành Hà Nội tại một số tuyến chính đã xây dựng cầu vượt cho người đi bộ như: Cầu Giấy, Nguyễn Chí Thanh, Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, tuy vậy nhưng hiệu quả hoạt động của cầu cho người đi bộ chưa cao.
f) Hệ thống bến xe trong đô thị:
- Bến xe phía Tây (Mỹ Đình): phục vụ nhu cầu vận chuyển hành khách từ tả ngạn sông Hồng đi các tỉnh phía Tây- Bắc và ngược lại. Có diện tích 30.000m2 thuộc địa bàn xã Mỹ Đình - Hà Nội. Lượt xe trung bình là 280 xe/ngày lượng hành khách bình quân là 2350 HK/ngày.
- Bến xe phía Bắc (Gia Lâm): có diện tích là 11468,5m2 thuộc địa phận quận Long Biên - Hà Nội. Lấy trả khách từ Hà Nội đi các tỉnh phía bắc trên 51 tuyến đường. Lượt xe trung bình trong ngày là 300 xe/ngày, lượt khách trung bình là 855 HK/ngày.
- Bến xe phía Nam (Giáp Bát): Có diện tích 36000 m2 thuộc địa bàn phường Giáp Bát- Hoàng Mai -Hà Nội. Bến xe phía Nam đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân Hà Nội đi các tỉnh: Thái Bình, Nam Định, các tỉnh phía Nam Hà Nội cho đến các tỉnh đồng bằng nam bộ. Số lượng khách bình quân 390 xe/ngày, lượng hành khách bình quân là 6440 HK/ngày.
- Trạm Thanh Xuân (bến đi Sơn La): Có diện tích 400m2, phục vụ hành khách đi Sơn La và một số tỉnh phía Bắc. Năng lực thông qua của bến là 60 xe/ngày. Tổng lượt khách ra vào bến khoảng 200 HK/ngày. Có 7 tuyến đi Sơn La và Lai Châu với thời gia phục vụ từ 3h đến 13h30. Ngoài ra xí nghiệp quản lý bến xe còn tổ chức thêm các loại xe khách có chất lượng cao đi các tỉnh theo các tuyến để phục vụ cho hành khách được nhanh chóng và thuận tiện.
- Bến xe Lương Yên: Được xây dựng nhằm giải tỏa cho bến xe Gia Lâm ở mạn phía Bắc của thành phố với diện tích 10200m2.
- Ngoài ra còn có các bến xe nhỏ khác như: Bến xe Nước Ngầm, bến xe Hà Đông...
g) Hệ thống các điểm đỗ xe trong thành phố:
Toàn thành phố có 189 điểm trông xe thì có 31 điểm không có giấy phép. Công ty khai thác điểm đỗ xe Hà Nội – sở GTCC đang quản lý 126 điểm đỗ xe công cộng với diện tích khoảng 55000m2.Có 3000 vị trí đỗ xe với diện tích bình quân một vị trí đỗ là 15,5 m2. Công ty cũng đang giám sát 33 điểm đỗ xe taxi với tổng sức chứa 327 xe.
Ngoài ra còn có một số điểm đỗ xe do các cơ quan tự xây dựng và quản lý và các điểm đỗ xe trên đường, hè phố.
Diện tích đỗ xe của thành phố Hà Nội mới đạt 260 nghìn m2, chiếm 0,32% diện tích thành phố, chỉ đảm bảo được 10% nhu cầu đỗ xe.
Bảng 2.1: Các điểm đỗ xe công cộng do công ty khai thác điểm đỗ xe quản lý
Quận (huyện)
Số bến, điểm
Tổng DT (m2)
Sức chứa (xe)
DT đỗ (m2)
Tên bến
Hè đường
Bến theo QH
Hoàn Kiếm
36
21190
1513
21190
Hai Bà Trưng
27
15038
1034
15038
0
Ba Đình
26
39848
1215
23173
16657
Ngọc Khánh
Đống Đa
11
8416
385
8416
Tây Hồ
2
320
28
320
Hoàng Mai
2
26717
400
4800
21917
Kim Ngưu
Cầu Giấy
11
41148
1236
12148
20900
DV, NTL
Long Biên
1
12993
180
12993
Gia Thuỵ
Từ Liêm
2
93000
1530
93000
MĐ1,2
Đông Anh
1
20000
160
20000
Hải Bôi
Tổng
146
27610
7681
93185
185425
7
(Nguồn: Sở GTCC Hà Nội)
Nhìn chung, hầu hết các gara, bãi đỗ xe ôtô tập trung tại khu vực trung tâm Thành phố dẫn đến tình trạng một số khu vực tập trung cao và ngược lại một số khu vực gần như không có dịch vụ giao thông tĩnh. Các khu vực vành đai chưa thiết kế được hệ thống các điểm trung chuyển, đầu cuối để giảm áp lực giao thông trong khu vực nội thành. Nhiều khu vực chưa có điểm đỗ xe công cộng lên dẫn đến tình trạng xe để dưới lòng đường, vỉa hè gây cản trở giao thông. Các điểm đỗ xe công cộng chủ yếu là phục vụ cho xe buýt như: Bến xe Nam Thăng Long, điểm đỗ xe Kim Ngưu, điểm đỗ xe Long Biên, điểm đỗ xe Nguyễn Công Trứ, điểm đỗ xe Trần Khánh Dư, điểm đỗ xe Bác Cổ…
2.1.2. Hiện trạng phương tiện, vận tải và ATGT đô thị Hà Nội
a) Hiện trạng về phương tiện.
Tính đến cuối năm 2007 Hà Nội có 201.933 xe ôtô các loại, với tốc độ tăng trưởng bình quân từ 12 – 15%. Ngoài ra thành phố còn có 2.063.374 môtô, xe máy, với mức tăng trưởng là 15% năm. Xe đạp có hơn 1 triệu chiếc, có xu hướng bão hòa, và có khoảng 300 xe xích lô phục vụ khách du lịch (trước Quyết định 240/QĐ – UB có khoảng 6.000 xe). Mặt khác nhu cầu sử dụng phương tiện cá nhân của người dân ngày càng tăng. Theo dự báo trong thời gian tới ô tô sẽ tăng từ 10-15%/năm, xe máy 20-25%/năm, riêng xe đạp đã bão hoà và đang có xu hướng giảm dần. Hiện nay 70-80% hộ gia đình có khả năng mua xe máy
Cơ cấu đi lại ở Hà Nội là: đi bộ, xe đạp 13,1%; đi bằng xe máy 60,3%; đi bằng ôtô con chiếm 5,8%; đi bằng các phương tiện khác 3,2% và đi bằng xe bus chỉ chiếm 17,6%.
Hình 2.1: Cơ cấu phương tiện theo chuyến đi ở Thành phố Hà Nội
Như vậy, dòng phương tiện ở Hà Nội là dòng hỗn hợp nhiều xe máy. Hà Nội đã và đang cố gắng giảm số xe máy đăng ký trong nội thành để làm giảm số phương tiện cá nhân đồng thời quy hoạch lâu dài, nâng cao chất lượng dịch vụ của VTHKCC, khuyến khích người dân đi lại bằng VTHKCC. Dự kiến đến năm 2020 số chuyến đi bằng VTHKCC đảm nhận từ 35 – 45% tổng nhu cầu đi lại toàn thành phố.
b) Vận tải đô thị của Hà Nội.
Hà Nội là đô thị lớn nên nhu cầu đi lại trong đô thị là rất lớn, ở đây ta chỉ đề cập đến VTHKCC:
Về luồng tuyến: Tính đến tháng 12 năm 2007 mạng lưới xe bus của Hà Nội gồm 60 tuyến.
Về phương tiện: tổng số có 915 xe hoạt động, trong đó có 317 xe bus lớn 80 chỗ, 441 xe bus trung bình (45-60 chỗ) và 157 xe mini bus (24-30 chỗ).
Có năm đơn vị hoạt động VTHKCC: Công ty cổ phần xe khách Hà Nội, Công ty cổ phần vận tải thương mại dịch vụ Đông Anh, Công ty trách nhiệm hữu hạn Bắc Hà, Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và du lịch Bảo Yến, Tổng Công ty Vận tải Hà Nội.
Về tổ chức quản lý VTHKCC: Hà Nội đã thành lập Trung Tâm điều hành và quản lý GTĐT thuộc Sở giao thông công chính để quản lý VTHKCC.
Hiện tại VTHKCC Hà Nội ngày càng phát triển đã đảm nhận được tương đối nhu cầu đi lại (17,6%) chất lượng dịch vụ được nâng cao và thu hút được tương đối người dân lựa chọn làm phương tiện đi lại.
c) Tình hình ATGT đô thị Hà Nội.
Theo số liệu đánh giá tình hình tai nạn giao thông đường bộ cả nước thì trong những năm qua thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố xảy ra nhiều tai nạn giao thông nhất chiếm 22% số vụ tai nạn trong cả nước.
Theo thống kê của phòng CSGT Thành phố Hà Nội, tính từ năm 2000 đến nay tai nạn giao thông đường bộ của Hà Nội có xu hướng giảm dần. Chiếm phần lớn vẫn là do xe máy và ô tô gây ra. Tai nạn xảy ra không phải vào giờ cao điểm mà vào tầm từ 12h30 đến 16h hàng ngày.
Hình 2.2: Biểu đồ về số vụ TNGT trên địa bàn Hà Nội từ năm 1995 đến 2007
Hình 2.3: Biểu đồ về số vụ TNGT theo loại phương tiện năm 2007
2.2. Hiện trạng nút giao thông Ô Chợ Dừa
2.2.1. Vị trí và đặc điểm hình học của nút Ô Chợ Dừa
a) Vị trí nút
Nút giao thông Ô chợ Dừa là nút giao thông nằm trong đô thị, gần trung tâm thành phố, là nơi giao nhau giữa đường Đê La Thành, Tôn Đức Thắng, Khâm Thiên và Nguyễn Lương Bằng thuộc phường Ô Chợ Dừa – Quận Đống Đa. Nút này có vị trí hết sức quan trọng, nằm trên đường vành đai 1, thu hút lưu lượng trực tiếp từ các quạn lân cận như: Hai Bà Trưng, Ba Đình, Thanh Xuân
Hình 2.4: Vị trí nút giao thông Ô Chợ Dừa
Vì vậy, nếu xảy ra ùn tắc giao thông tại nút này, thì mọi hoạt động VTHK, VTHH và đặc biệt là giao thông liên vùng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng gây nên sự tổn thất rất lớn về thời gian và tiền của cũng như môi trường và cảnh quan đô thị.
b) Đặc điểm hình học của nút
Hình 2.5 thể hiện về kích thước cụ thể của nút
Hình 2.5: Kích thước hình học của nút Ô Chợ Dừa
.
Nút Ô Chợ Dừa là nút có đặc điểm hình học phức tạp nhất trong khu nội thành Hà Nội hiện nay, các dòng giao thông qua nút là hết sức phức tạp và khó giải quyết, vì vậy tình trạng ùn tắc vẫn thường xuyên xảy ra cho dù không phải giờ cao điểm.
- Đường Đê La Thành: Tuyến đường này nằm trên đường vành đai số 1 đi qua nút ô chợ dừa đâm thẳng ra Kim Liên. Bề rộng lòng đường (10m) với chất lượng mặt đường xuống cấp nghiêm trọng, không có dải phân cách ( trừ đoạn vào nút), gồm hai làn xe lưu thông 2 chiều, vỉa hè 2,5m nhưng hầu như bị lấn chiếm làm chỗ để xe và các dịch vụ kinh doanh.
Hình 2.6: Mặt cắt ngang đường Đê La Thành
10 m
- Đoạn Đê La Thành hướng ra Kim Liên thì đường rất nhỏ (5,5)m. là đường gom từ các ngõ, ngách ra nút.
- Đường Tôn Đức Thắng: Đường 2 chiều, mỗi chiều 3 làn, 2 làn dành cho xe cơ giới rộng 3,5 m/làn, 1 làn dành cho xe thô sơ rộng 2m, có dải phân cách cứng. Vỉa hè rộng 2,5m (Tình trạng lấn chiếm vả hè diễn ra phổ biến).
Hình 2.7: Mặt cắt ngang đường Tôn Đức thắng
9m
9m
Dải phân
Cách cứng
- Đường Khâm Thiên: Đường 2 chiều, không có sự phân làn rõ rệt, bề rộng lòng đường 10m. Về kích thước hình học của đường Khâm Thiên tương đối giống với đường Đê La Thành.
- Đường Nguyễn Lương Bằng: Đường 2 chiều, mỗi chiều 2 làn, riêng đoạn vào nút hướng đi Tôn Đức Thắng mở rộng thành 3 làn (đây là đoạn mở rộng , nơi tiếp giáp với ngã 3 Xã Đàn), đoạn vào nút có dải phân cách cứng.
Hình 2.8: Mặt cắt ngang đường Nguyễn Lương Bằng
12 m
9 m
2.2.2. Hiện trạng cơ sở hạ tầng tại nút
Có thể nói hiện trạng cở sở hạ tầng tại nút Ô Chợ Dừa là chưa đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các dòng giao thông qua nút. Về các hướng vào nút chỉ duy nhất tuyến Nguyễn Lương Bằng là có cơ sở hạ tầng tốt vì vừa được cải tạo lại, còn các hướng còn lại hầu như tình trạng mằt đường xấu và không đáp ứng được yêu cầu về mằt đường cũng như vỉa hè. Trên nút xuất hiện nhiều ổ gà gây cản trở lớn cho việc thoát nút của các phương tiện.
Hình 2.9: Ảnh minh họa về hiện trạng nút Ô Chợ Dừa
- Hệ thống vạch sơn trên nút được bố trí để phân luồng khi vào nút và điểm dừng tại đèn tìn hiệu, phần đường dành cho khách bộ hành qua nút.
Hình 2.10: Vạch sơn bố trí tại nút
- Hệ thống biển báo được bố trí nhằm hướng dẫn cho người tham gia giao thông qua nút gồm các loại biển chỉ dẫn, biển cấm các loại phương tiện…
Hình 2.11: Hệ thống biển báo giao thông tại nút
2.2.3. Hiện trạng tổ chức giao thông tại nút
Theo đánh giá của Sở GTCC Hà Nội, trong 71 điểm thường bị ùn tắc giao thông trên địa bàn Hà Nội thì Ô Chợ Dừa là điểm nghiêm trọng nhất, thậm chí không phải trong giờ cao điểm.
Trước khi thông đường Kim Liên mới tại nút Ô Chợ Dừa đã thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc, tình trạng ùn tắc lại xảy ra thường xuyên hơn từ khi thông đường Kim Liên mới . Nguyên nhân là do việc mở tuyến mới thu hút thêm lưu lượng từ Ngã tư Đại Cồ Viêt –
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề xuất và lựa chọn phương án tổ chức giao thông tại nút giao Ô Chợ Dừa.docx