MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MẠNG THẾ HỆ MỚI NGN 1
1.1. Giới thiệu chương 1
1.2. Khái quát chung về mạng viễn thông hiện tại 1
1.2.1. Khái niệm về mạng viễn thông 1
1.2.2. Các đặc điểm của mạng viễn thông hiện nay 3
1.2.3. Những hạn chế của mạng viễn thông hiện nay 4
1.3. Xu hướng phát triển của mạng viễn thông và dịch vụ 6
1.4. Điều cần quan tâm khi phát triển NGN 7
1.5. Định nghĩa mạng NGN 9
1.6. Đặc điểm của mạng NGN . 10
1.7. Một số yêu cầu đối với NGN 11
1.8. Kết luận chương 13
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC MẠNG NGN 14
2.1. Giới thiệu chương 14
2.2. Mô hình NGN của một số hãng và tổ chức quốc tế 14
2.2.1. Mô hình NGN của ITU 14
2.2.2. Mô hình NGN của Alcatel 15
2.2.3. Mô hình NGN của Ericsson 16
2.2.4. Mô hình NGN của Siemens 17
2.3. Nguyên tắc tổ chức mạng NGN 18
2.4. Cấu trúc chức năng của mạng NGN 20
2.4.1. Mô hình phân lớp chức năng của mạng NGN 20
2.4.2. Phân tích cấu trúc tổng quan mạng NGN 21
2.4.2.1. Lớp truyền dẫn và truy nhập 22
2.4.2.2. Lớp truyền thông 23
2.4.2.3. Lớp điều khiển 24
2.4.2.4. Lớp ứng dụng 25
2.4.2.5. Lớp quản lý 25
2.5. Cấu trúc vật lý mạng NGN 26
2.5.1. Cấu trúc vật lý 26
2.5.2. Media Gateway (MG) 26
2.5.3. Media Gateway Controler (MGC) 27
2.5.4. Signaling Gateway (SG) 28
2.5.5. Media Server (MS) 28
2.5.6. Application Server (Feature Server ) 29
2.6. Các công nghệ làm nền tảng cho NGN 29
2.6.1.Giao thức IP 30
2.6.2. ATM 31
2.6.3. IP over ATM 32
2.6.4. MPLS 32
2.7. Kết luận chương 33
CHƯƠNG 3: CÔNG NGHỆ CHUYỂN MẠCH MỀM TRONG MẠNG
NGN 34
3.1. Giới thiệu chương 34
3.2. Khái quát chung 34
3.2.1. Hoạt động của mạng PSTN 35
3.2.2. Nhược điểm của chuyển mạch kênh 36
3.2.3. Ưu điểm của chuyển mạch mềm 36
3.2.4. Sự ra đời của chuyển mạch mềm 38
3.3. Khái niệm về chuyển mạch mềm 39
3.4. Vị trí của chuyển mạch mềm 40
3.5. Thành phần chính của chuyển mạch mềm 41
3.6. Khái quát hoạt động của chuyển mạch mềm 43
3.7. Kết luận chương 44
CHƯƠNG 4: DỊCH VỤ VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ TRONG MẠNG NGN 45
4.1. Giới thiệu chương 45
4.2. Nhu cầu NGN đối với các nhà cung cấp dịch vụ 45
4.3. Yêu cầu của khách hàng 47
4.4. Các dịch vụ ứng dụng trong NGN 47
4.4.1. Xu hướng các dịch vụ trong tương lai 47
4.4.2. Các đặc trưng của dịch vụ NGN 48
4.4.3.Các dịch vụ chính trong mạng NGN 50
4.5. Bảo mật 54
4.6. Chất lượng dịch vụ 57
4.7. Kết luận chương 59
CHƯƠNG 5: TRIỂN KHAI NGN VÀO MẠNG VIỄN THÔNG VIỆT
NAM 60
5.1. Giới thiệu chương 60
5.2. Sơ lược mạng viễn thông Việt Nam 60
5.2.1. Cấu trúc mạng 60
5.2.1.1. Mạng chuyển mạch 60
5.2.1.2. Mạng truy nhập 61
5.2.1.3. Mạng truyền dẫn 61
5.2.1.4. Các mạng chức năng 63
5.2.2. Các nhà cung cấp dịch vụ 64
5.3. Sự cần thiết phải thay đổi công nghệ mạng 64
5.4. Mục tiêu và yêu cầu 66
5.5. Định hướng phát triển mạng viễn thông của VNPT tới năm 2010 69
5.5.1. Nguyên tắc tổ chức NGN của VNPT 69
5.5.1.1. Phân vùng lưu lượng 69
5.5.1.2. Tổ chức lớp ứng dụng và dịch vụ 69
5.5.1.3. Tổ chức lớp điều khiển 70
5.5.1.4. Tổ chức lớp truyền tải 71
5.5.1.5. Tổ chức lớp truy nhập 73
5.5.2. Kết nối NGN với các mạng hiện tại 74
5.5.3. Lộ trình chuyển đổi lên NGN 77
5.5.3.1. Giai đoạn 2001-2005 78
5.5.3.2. Giai đoạn 2006-2010 80
5.6. Tình hình triển khai NGN tại Việt Nam của VNPT 83
5.6.1. Giải pháp NGN triển khai tại VNPT 83
5.6.2. Thực tế triển khai NGN tại VNPT 85
5.6.3. Các dịch vụ chủ yếu trên nền mạng NGN 90
5.7. Kết luận chương 93
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
92 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4814 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu mạng NGN và dịch vụ trên NGN của VNPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệm về chuyển mạch mềm
Hiện nay, có nhiều khái niệm về chuyển mạch mềm, tùy thuộc vào từng hãng viễn thông khác nhau, chẳng hạn như hãng Mobile IN, Nortel, CopperCom…
Nhưng thực chất của khái niệm chuyển mạch mềm chính là phần mềm thực hiện chức năng xử lý cuộc gọi trong hệ thống chuyển mạch có khả năng chuyển tải nhiều loại thông tin với các giao thức khác nhau. Trong đó, chức năng xử lý cuộc gọi bao gồm định tuyến cuộc gọi và quản lý, xác định và thực thi các đặc tính cuộc gọi.
Hình 3.3: Cấu trúc của chuyển mạch mềm
Theo thuật ngữ chuyển mạch mềm thì chức năng chuyển mạch vật lý được thực hiện bởi cổng phương tiện Media Gateway (MG), còn xử lý cuộc gọi là chức năng của bộ điều khiển cổng phương tiện Media Gateway Controller (MGC).
Việc tách riêng chức năng xử lý cuộc gọi khỏi chức năng chuyển mạch vật lý là một giải pháp tốt, bởi vì:
- Có một giải pháp phần mềm chung đối với việc xử lý cuộc gọi. Phần mềm này được cài đặt trên nhiều loại mạng khác nhau, bao gồm cả mạng chuyển mạch kênh và gói (áp dụng được với các dạng gói và môi trường truyền dẫn khác nhau).
- Là động lực cho các hệ điều hành, các môi trường máy tính chuẩn, tiết kiệm đáng kể trong việc phát triển và ứng dụng các phần mềm xử lý cuộc gọi.
- Cho phép các phần mềm thông minh của các nhà cung cấp dịch vụ điều khiển từ xa thiết bị chuyển mạch đặt tại trụ sở của khách hàng, một yếu tố quan trọng trong việc khai thác tiềm năng của mạng trong tương lai.
3.4. Vị trí của chuyển mạch mềm
Do có chức năng là xử lý cuộc gọi nên vị trí tương ứng của Softswitch trong mô hình phân lớp chức năng của NGN là lớp điều khiển cuộc gọi và báo hiệu. Và các thực thể chức năng của Softswitch là MGC-F ( Media Gateway Control Function), CA-F (Call Agent Function), IW-F (Interworking Function), R-F (Routing Function), và A-F (Accounting Function).
Hình 3.4: Vị trí của chuyển mạch mềm
3.5. Thành phần chính của chuyển mạch mềm
Thành phần chính của chuyển mạch mềm là bộ điều khiển cổng thiết bị Media Gateway Controller (MGC). Bên cạnh đó còn có các thành phần khác hỗ trợ hoạt động như: SG (Signaling Gateway), MG (Media Gateway), MS (Media Server), AS (Application Server)/FS (Feature Server).
Trong đó, MG là thành phần nằm trên lớp truyền thông, SG là thành phần nằm ở trên cùng với lớp MGC. MS và AS/FS nằm trên lớp dịch vụ.
Cách kết nối các thành phần chính của chuyển mạch mềm được thể hiện trên hình 3.5. Trên hình 3.5, các thiết bị thuộc mạng IP là các router, các chuyển mạch thuộc mạng backbone để truyền tải các gói tin đi. Trong khi đó mạng không IP là mạng có thiết bị đầu cuối không phải thuộc mạng IP và các mạng vô tuyến không dây. Các thiết bi đầu cuối không thuộc mạng IP: thiết bị đầu cuối ISDN, IAD cho mạng DSL…
Hình 3.5: Kết nối MGC với các thành phần khác của NGN
Một MGC có thể quản lý nhiều MG. Hình trên chỉ minh họa 1 MGC quản lý 1 MG. Và một MG có thể nối đến nhiều loại mạng khác nhau.
Media Gateway Controller: MGC là thành phần chính của chuyển mạch mềm, và cũng thường được gọi là Softswitch, hay Call Agent.
Các chức năng chính của MGC:
- Điều khiển cuộc gọi, duy trì trạng thái của mỗi cuộc gọi trên một MG.
- Điều khiển và hỗ trợ hoạt động của MG, SG.
- Trao đổi các bản tin cơ bản giữa 2 MG-F.
- Xử lý bản tin SS7 (khi sử dụng SIGTRAN).
- Xử lý bản tin liên quan QoS.
- Phát hoặc nhận bản tin báo hiệu.
- Định tuyến (bao gồm bảng định tuyến, phân tích số và dịch vụ số).
- Tương tác với AS-F để cung cấp dịch vụ hay đặc tính cho người sử dụng.
- Có thể quản lý các tài nguyên mạng.
Các giao thức MGC có thể sử dụng:
- Để thiết lập cuộc gọi: H.232, SIP.
- Điều khiển MG: MGCP, Megaco/H.248.
- Điều khiển SG: SIGTRAN (SS7).
- Để truyền thông tin: RTP, RTCP.
3.6. Khái quát hoạt động của chuyển mạch mềm
Ở đây, ta xét trường hợp thuê bao gọi đi là một thuê bao thuộc mạng cung cấp dịch vụ truyền thống PSTN. Các trường hợp khác thì hoạt động của chuyển mạch mềm cũng tương tự.
Hoạt động của phần mềm này bao gồm các bước sau:
1- Khi có một thuê bao nhấc máy (thuộc PSTN) và chuẩn bị thực hiện cuộc gọi thì tổng đài nội hạt quản lý thuê bao đó sẽ nhận biết trạng thái off-hook của thuê bao. Và SG nối với tổng đài này thông qua mạng SS7 cũng nhận biết được trạng thái mới của thuê bao.
2- SG sẽ báo cho MGC trực tiếp quản lý mình thông qua CA-F đồng thời cung cấp tín hiệu dial-tone cho thuê bao. Ta gọi MGC này là caller-MGC.
3- Caller-MGC gởi yêu cầu tạo kết nối đến MG nối với tổng đài nội hạt ban đầu nhờ MGC-F.
4- Các số do thuê bao nhấn sẽ được SG thu thập và chuyển tới caller-MGC.
5- Caller-MGC sử dụng những số này để quyết định công việc tiếp theo sẽ thực hiện. Các số này sẽ được chuyển tới chức năng R-F và R-F sử dụng thông tin lưu trữ của các server để có thể định tuyến cuộc gọi. Trường hợp đầu cuối đích cùng loại với đầu cuối gọi đi (nghĩa là đầu cuối đích cũng là một thuê bao của PSTN): nếu thuê bao bị gọi cũng thuộc sự quản lý của caller-MGC thì thực hiện bước 7. Nếu thuê bao này thuộc sự quản lý của một MGC khác thì thực hiện bước 6. Còn nếu thuê bao này là một đầu cuối khác loại thì MGC sẽ đồng thời kích hoạt chức năng IW-F để khởi động bộ điều khiển tương ứng và chuyển cuộc gọi đi. Lúc này thông tin báo hiệu sẽ do một loại Gateway khác xử lý. Và quá trình truyền thông tin báo hiệu sẽ diễn ra tương tự như kết nối giữa 2 thuê bao thoại thông thường.
6- Caller-MGC sẽ gởi yêu cầu thiết lập cuộc gọi đến một MGC khác. Nếu chưa đến đúng MGC của thuê bao bị gọi (ta gọi là callee-MGC) thì MGC này sẽ tiếp tục chuyển yêu cầu thiết lập cuộc gọi đến MGC khác cho đến khi đến đúng callee-MGC. Trong quá trình này, các MGC trung gian luôn phản hồi lại MGC đã gởi yêu cầu đến nó. Các công việc này được thực hiện bởi CA-F.
7- Callee-MGC gởi yêu cầu tạo kết nối với MG nối với tổng đài nội hạt của thuê bao bị gọi (callee-MG).
8- Đồng thời caller-MGC gởi thông tin đến calle-SG, thông qua mạng SS7 sẽ làm rung chuông thuê bao bị gọi.
9- Khi callee-SG nhận được bản tin báo trạng thái của thuê bao bị gọi (giả sử là rỗi) thì nó sẽ gởi ngược thông tin này trở về callee-MGC.
10- Và callee-MGC sẽ phản hồi về MGC để báo mình đang liên lạc với người được gọi.
11- Callee-MGC gởi thông tin để cung cấp tín hiệu ring back tone cho caller-MGC, qua caller-SG đến người gọi.
12- Khi thuê bao bị gọi nhấc máy thì quá trình thông báo tương tự các bước trên xảy ra: qua nút báo hiệu số 7, thông tin nhấc máy qua callee-SG đến callee-MGC, rồi đến caller-MGC, qua caller-SG rồi đến thuê bao thực hiện cuộc gọi.
13- Kết nối giữa thuê bao gọi đi và thuê bao bị gọi được hình thành thông qua caller-MG và callee-MG.
14- Khi chấm dứt cuộc gọi thì quá trình sẽ diễn ra tương tự như lúc thiết lập.
3.7. Kết luận chương
Với sự ra đời của chuyển mạch mềm đã làm cho việc thực hiện chuyển mạch được linh hoạt, không còn phụ thuộc vào phần cứng của tổng đài.
CHƯƠNG 4
DỊCH VỤ VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ TRONG MẠNG NGN
4.1. Giới thiệu chương
Mạng thế hệ mới NGN là bước kế tiếp của thế giới viễn thông, có thể được hiểu là mạng dựa trên công nghệ chuyển mạch gói, khả năng điều khiển thông minh dịch vụ hoặc cuộc gọi. Khả năng điều khiển thông minh này thường hỗ trợ cho tất cả các loại dịch vụ trên mạng truyền thông, từ dịch vụ thoại cơ bản cho đến các dịch vụ dữ liệu, hình ảnh, đa phương tiện, băng rộng tiên tiến và các ứng dụng quản lý.
Như đã biết NGN là sự tập trung của ba loại mạng chính: mạng thoai PSTN, mạng di động và mạng chuyển mạch gói (mạng Internet). Cấu trúc này phân phối toàn bộ các phương thức truy nhập, hầu hết các công nghệ và ứng dụng mới. Từ đó tạo ra nhiều dịch vụ mới. Có ba loại dịch vụ chủ yếu trong NGN: dịch vụ thời gian thực và thời gian không thực, dịch vụ nội dung, dịch vụ quản lý. Các dịch vụ này giúp cho các nhà khai thác có sự điều khiển, bảo mật và độ tin cậy tốt hơn đồng thời giảm chi phí vận hành. Nhờ đó, các nhà cung cấp dịch vụ có thể nhanh chóng có nguồn thu mới.
Chương này sẽ trình bày về các dịch vụ ứng dụng trong NGN và các vấn đề liên quan đến dịch vụ là bảo mật và chất lượng dịch vụ.
4.2. Nhu cầu NGN đối với các nhà cung cấp dịch vụ
Nhà cung cấp có thể tồn tại với phương thức cũ, tuy nhiên chắc chắn họ sẽ không thành công. Các nhà cung cấp đang bắt buộc cạnh tranh về giá để đảm bảo thu nhập. Trong lúc đó, các đối thủ cạnh tranh đưa ra các dịch vụ hấp dẫn để thu hút được nhiều khách hàng nhất. Do đó nếu nhà cung cấp dịch vụ muốn thành công trong thời đại mới, họ buộc phải thêm giá trị vào các dịch vụ truyền thống của mình. NGN hỗ trợ các dịch vụ mới tiên tiến nên cho phép họ giữ được các khách hàng quan trọng và mở rộng thị trường trong nhiều khu vực mới.
Mạng lưới hiện nay không thể cung cấp tất cả các yêu cầu của khách hàng. Nhà cung cấp mạng công cộng không thể chống lại khuynh hướng này. Kinh doanh các dịch vụ thông tin mới trở thành một ngành công nghiệp có thể mang lại lợi nhuận cao cho các nhà cung cấp dịch vụ. Cuối cùng có một thực tế là một số người muốn sử dụng các dịch vụ mới trên nền CPE, trong khi số khác lại thích dịch vụ trên nền mạng.
Các dịch vụ trên nền mạng có nhiều ưu điểm. Với một số nhỏ các dịch vụ đơn giản không yêu cầu làm việc giữa khách hàng với nhau, các dịch vụ trên nền CPE có thể hiệu quả. Tuy nhiên, khi số lượng khách hàng làm việc với nhau tăng, các dịch vụ trên nền mạng tỏ ra có nhiều lợi thế hơn do linh hoạt hơn và có khả năng mở rộng hơn so với các dịch vụ trên nền CPE. Với các ứng dụng trên nền CPE, thiết bị CPE cần phải tinh vi, phức tạp hơn để đảm bảo các yêu cầu về các ứng dụng tiên tiến hơn. Giải pháp trên nền mạng cho phép chia sẻ tài nguyên và dễ dàng mở rộng để đáp ứng các yêu cầu đó. Ngoài ra, dịch vụ trên nền CPE khó khăn trong việc cung cấp các dịch vụ đối với thuê bao di động. Cuối cùng, các vấn đề khách hàng quan tâm như tính cước, quản lý cấu hình, dự phòng và các dạng quản lý khác được xử lý dễ dàng hơn đối với các dịch vụ trên nền mạng.
NGN sẽ cho phép các nhà khai thác cung cấp với chi phí hiệu quả của các dịch vụ mới phức tạp hơn bằng cách xây dựng một lõi liên hệ với các dịch vụ truyền tải truyền thống. Hơn nữa, việc hợp nhất các ứng dụng NGN làm giảm chi phí bằng cách loại bỏ các nhược điểm của các dịch vụ riêng lẻ hiện nay. NGN còn giảm thời gian thương mại hóa và xoay vòng vốn nhanh hơn khi cung cấp các dịch vụ mới. NGN còn mở rộng các dịch vụ tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng thâm nhập thị trường của họ.
4.3. Yêu cầu của khách hàng
Đối với công ty lớn:
- Dịch vụ VPN cho kết nối nội bộ, và dịch vụ truyền dẫn (chẳng hạn như leased line) kết nối với bên ngoài. Có nhu cầu quản lý dịch vụ và mạng.
- Dung lượng băng thông lớn, phân phối băng thông linh hoạt.
- Yêu cầu QoS là bắt buộc, có sự dự phòng.
Dối với công ty trung bình:
- Dịch vụ VPN cho kết nối nội bộ và các dịch vụ văn phòng kết nối với bên ngoài như: thoại, Internet, fax,…
- Dung lượng băng thông trung bình.
- Yêu cầu về QoS thìquan trọng.
Đối với công ty nhỏ, văn phòng đặt tại nhà:
- Dịch vụ kết nối từ xa, dịch vụ văn phòng như thoại, fax, dữ liệu, Internet,..
- Dung lượng băng thông trung bình.
- Yêu cầu QoS thì ít quan trọng.
Đối với thuê bao tại nhà:
-Dịch vụ kết nối từ xa và các dịch vụ tại nhà như thoại, Internet, di động, giải trí, điều khiển các thiết bị trong nhà,…
- Dung lượng băng thông nhỏ.
- Yêu cầu về QoS thì ít quan trọng.
4.4 Các dịch vụ ứng dụng trong NGN
4.4.1. Xu hướng các dịch vụ trong tương lai
- Đối với dịch vụ thoại: dịch vụ thoại truyền thống sẽ tiếp tục tồn tại trong thời gian dài. Sau đó, một phần dịch vụ truyền thống này chuyển sang thông tin di động và thoại qua IP.
- Đối với dịch vụ truyền thông đa phương tiện, hiện nay H.323 đã là môi trường cho giải pháp thoại qua giao thức IP và các dịch vụ đa phương tiện tương đối đơn giản. Tuy nhiên, sau đó SIP sẽ thay thế cho H.232 do SIP có nhiều ưu điểm hơn và thích hợp với các dịch vụ truyền thông đa phương tiện phức tạp.
- Trong tương lai, tính cước dịch vụ theo nội dung và chất lượng, không theo thời gian sẽ chiếm ưu thế.
- Nhiều dịch vụ và truy nhập ứng dụng thông qua các nhà cung cấp dịch vụ và truy nhập ứng dụng sẽ phát triển mạnh. Các dịch vụ leased line, ATM, Frame Relay hiện nay sẽ tiếp tục tồn tại thêm một thời gian nữa. Dịch vụ IP-VPN sẽ trở thành một lựa chọn hấp dẫn.
- Phương thức truy nhập mạng, ra lệnh, nhận thông tin,… bằng lời nói sẽ là một chọn lựa trong tương lai. Hiện nay, kỹ thuật chuyển đổi từ lời nói sang file văn bản và ngược lại đang phát triển mạnh.
4.4.2. Các đặc trưng của dịch vụ NGN
Mặc dù thật khó để dự đoán hết các ứng dụng trong tương lai, nhưng chúng ta có thể chỉ ra các đặc trưng và các khả năng quan trọng của dịch vụ trong môi trường NGN bằng cách xem xét các xu hướng công nghiệp liên quan đến dịch vụ hiện nay. Một điều chắc chắn là chúng ta đang dịch chuyển từ mạng chuyển mạch kênh, trên nền TDM sang mạng dựa trên chuyển mạch gói, dựa trên truyền tải tế bào hay khung. Tuy nhiên các thay đổi này là trong mạng truyền tải và ở đây chúng ta chỉ xem xét ở mức dịch vụ.
Các nhà cung cấp dịch vụ mạng truyền thống đã cung cấp các dịch vụ với khuynh hướng thoại băng hẹp, bằng một kết nối đơn điểm-điểm trong mỗi cuộc gọi trên một thị trường rộng lớn giữa các thuê bao đầu cuối, với các khả năng sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng khác nhau. Dù sao, các dịch vụ này đã làm thay đổi nhanh chóng đến nền kinh tế thế giới và thông tin cũng được xem như một nguồn tài nguyên cơ sở.
Trong khi các dịch vụ hiện tại vẫn được các nhà cung cấp giữ lại, thì khách hàng lại sẽ hướng đến các dịch vụ đa phương tiện băng rộng và các dịch vụ mang nhiều thông tin. Khách hàng có thể tương tác với nhau thông qua mạng nhờ các thiết bị CPE tinh vi và có thể chọn trên phạm vi rộng chất lượng dịch vụ (QoS) và dải tần. Trong tương lai, mạng thông minh sẽ không chỉ tạo ra các tuyến kết nối bằng cách dựa trên cơ sở dữ liệu đơn giản mà còn có thể mang nhiều thông tin rộng hơn như: quản lý session đa phương tiện, các kết nối đa công nghệ, điều khiển/quản lý thông minh, bảo mật cao, các dịch vụ chỉ dẫn trực tuyến, các phần tử giám sát,…
Sự phát triển của các dịch vụ truyền thông hiện nay sẽ hướng tới việc các nhà cung cấp dịch vụ phải có sự mềm dẻo, linh hoạt để phục vụ được cả thị trường lớn và nhỏ. Các quyết định về việc cung cấp dịch vụ của họ có thể gặp nhiều vấn đề phải giải quyết như giá cả, việc đóng gói, tiếp thị cũng như sự tiện ích của dịch vụ thực tế khi cung cấp. Khi có nhiều phương tiện truyền tin, nhà cung cấp dịch vụ, nhà cung cấp thiết bị và các doanh nghiệp thương mại liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, liên mạng và các hệ thống thương mại sẽ trở nên càng quan trọng.
Mục tiêu chính của dịch vụ NGN là cho phép khách hàng có thể lấy thông tin họ muốn ở bất kỳ dạng nào, trong bất kỳ điều kiện nào, tại mọi nơi và dung lượng tùy ý. Dựa trên các khuynh hướng được đề cập ở trên, sau đây là một số đặc tính dịch vụ quan trọng trong môi trường NGN:
+ Liên lạc thông tin rộng khắp, thời gian thực, đa phương tiện, đảm bảo độ tin cậy, thân thiện trong việc liên kết các thuê bao, truy nhập tốc độ cao và truyền tải thông tin với bất kỳ phương tiện nào, vào mọi lúc, tại mọi nơi,…
+ Nhiều thực thể và các phần tử mạng thông minh được phân bố trên toàn mạng. Nó bao gồm các ứng dụng cho phép truy nhập và điều khiển các dịch vụ mạng. Nó cũng có thể thực hiện các chức năng cụ thể thay thế cho nhà cung cấp dịch vụ hoặc mạng. Ta có thể xem nó như một tác tử quản lý có thể thực hiện giám sát tài nguyên mạng, tập hợp các số liệu,…
+ Dễ dàng sử dụng. Khách hàng không bị ảnh hưởng từ các quá trình tập trung, xử lý và truyền dẫn thông tin phức tạp của hệ thống. Nó cho phép khách hàng truy xuất và sử dụng các dịch vụ mạng một cách đơn giản hơn, bao gồm các giao diện người dùng cho phép tương tác tự nhiên giữa khách hàng và mạng. Khách hàng được cung cấp các thông tin hướng dẫn, các tùy chọn, các tương tác quản lý xuyên suốt các dịch vụ. Ngoài ra nó còn cung cấp các menu khác nhau cho những người chưa có kinh nghiệm ngược lại với những người đã có kinh nghiệm, và cung cấp một môi trường thống nhất cho các dạng thông tin.
+ NGN cho phép khách hàng quản lý hồ sơ các nhân, tự dự phòng các dịch vụ mạng, giám sát thông tin tính cước, cá nhân hóa giao diện người dùng, tạo ra và dự phòng các ứng dụng mới.
+ Với việc quản lý thông tin thông minh, NGN giúp người dùng quản lý sự quá tải của thông tin bằng cách cung cấp cho họ khả năng tìm, sắp xếp và lọc các bản tin hoặc dữ liệu, quản lý chúng cho mọi phương tiện.
4.4.3. Các dịch vụ chính trong mạng NGN
NGN có khả năng cung cấp phạm vi rộng các loại hình dịch vụ, bao gồm:
- Các dịch vụ tài nguyên chuyên dụng như: cung cấp và quản lý các bộ chuyển mã, các cầu nối hội nghị đa phương tiện đa điểm, các thư viện nhận dạng tiếng nói,…
- Các dịch vụ lưu trữ và xử lý như: cung cấp và quản lý các đơn vị lưu trữ thông tin về thông báo, file servers, terminal servers, nền tảng hệ điều hành (OS platforms),…
- Các dịch vụ trung gian như: môi giới, bảo mật, bản quyền,…
- Các dịch vụ ứng dụng cụ thể như: các ứng dụng thương mại, các ứng dụng thương mại điện tử,…
- Các dịch vụ cung cấp nội dung mà nó có thể cung cấp hoặc môi giới nội dung thông tin như: đào tạo, các dịch vụ xúc tiến thông tin,..
- Các dịch vụ interworking dùng để tương tác với các dịch vụ khác, các ứng dụng khác, các mạng khác, các giao thức hoặc các định dạng khác như chuyển đổi EDI (Electronic Data Interchange).
- Các dịch vụ quản lý, bảo dưỡng, vận hành và quản lý các dịch vụ và mạng truyền thông.
Sau đây là một số dịch vụ mà người ta cho rằng nó sẽ chiếm vị trí quan trọng trong môi trường NGN, bao gồm một phạm vi rộng các dịch vụ từ thoại thông thường đến các dịch vụ tích hợp phức tạp như Thực tế ảo phân tán nhằm nhấn mạnh rằng kiến trúc dịch vụ thế hệ sau sẽ cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ khác nhau.
Hình 4.1: Một số dịch vụ NGN điển hình
+ Dịch vụ thoại (Voice telephony): NGN vẫn cung cấp các dịch vụ thoại khác nhau đang tồn tại như chờ cuộc gọi, chuyển cuộc gọi, gọi ba bên, các thuộc tính AIN khác nhau, Centrex, Class,… Tuy nhiên cần lưu ý là NGN không cố gắng lặp lại các dịch vụ thoại truyền thống hiện đang cung cấp; dịch vụ thì vẫn đảm bảo nhưng công nghệ thì thay đổi.
+ Dịch vụ dữ liệu (Data Serrvice): Cho phép thiết lập kết nối thời gian thực giữa các đầu cuối, cùng với các đặc tả giá trị gia tăng như băng thông theo yêu cầu, tính tin cậy và phục hồi nhanh kết nối, các kết nối chuyển mạch ảo SVC, và quản lý dải tần, điều khiển cuộc gọi,… Tóm lại các dịch vụ dữ liệu có khả năng thiết lập kết nối theo băng thông và chất lượng dịch vụ QoS theo yêu cầu.
+ Dịch vụ đa phương tiện (Multimedia Service): Cho phép nhiều người tham gia tương tác với nhau qua thoại, video, dữ liệu. Các dịch vụ này cho phép khách hàng vừa nói chuyện, vừa hiển thị thông tin. Ngoài ra, các máy tính còn có thể cộng tác với nhau.
+ Dịch vụ mạng riêng ảo (VPN): Thoại qua mạng riêng ảo cải thiện khả năng mạng, cho phép các tổ chức phân tán về mặt địa lý, mở rộng hơn và có thể phối hợp các mạng riêng đang tồn tại với các phần tử của mạng PSTN.
Dữ liệu VPN cung cấp thêm khả năng bảo mật và các thuộc tính khác mạng của mạng cho phép khách hàng chia sẻ mạng Internet như một mạng riêng ảo, hay nói cách khác, sử dụng địa chỉ IP chia sẻ như một VPN.
+ Tính toán mạng công cộng (PNC Public Network Computing): Cung cấp các dịch vụ tính toán dựa trên cơ sở mạng công cộng cho thương mại và các khách hàng. Ví dụ nhà cung cấp mạng công cộng có thể cung cấp khả năng lưu trữ và xử lý riêng ( chẳng hạn như làm chủ một trang web, lưu trữ/ bảo vệ/ dự phòng các file số liệu hay chạy một ứng dụng tính toán). Như một sự lựa chọn, các nhà cung cấp dịch vụ mạng công cộng có thể cung cấp các dịch vụ thương mại cụ thể (như hoạch định tài nguyên công ty, dự báo thời gian, hóa đơn chứng thực,…) với tất cả hoặc một phần các lưu trữ và xử lý xảy ra trên mạng. Nhà cung cấp dịch vụ có thể tính cước theo giờ, ngày, tuần,… hay theo phí bản quyền đối với dịch vụ.
+ Bản tin hợp nhất (Unified Messaging): Hỗ trợ cung cấp các dịch vụ voice mail, email, fax mail, pages qua các giao diện chung. Thông qua các giao diện này, người sử dụng sẽ truy nhập (cũng như được thông báo) tất cả các loại tin nhắn trên, không phụ thuộc vào hình thức truy nhập (hữu tuyến hay vô tuyến, máy tính, thiết bị dữ liệu vô tuyến). Đặc biệt kỹ thuật chuyển đổi lời nói sang file văn bản và ngược lại được thực hiện ở server ứng dụng cần phải được sử dụng ở dịch vụ này.
+ Môi giới thông tin (Information Brokering): Bao gồm quảng cáo, tìm kiếm và cung cấp thông tin đến khách hàng tương ứng với nhà cung cấp. Ví dụ như khách hàng có thể nhận thông tin trên cơ sở các tiêu chuẩn cụ thể hay trên các cơ sở tham chiếu cá nhân,…
+ Thương mại điện tử (E-Commerce): Cho phép khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ được xử lý bằng điện tử trên mạng; có thể bao gồm cả việc xử lý tiến trình, kiểm tra thông tin thanh toán tiền, cung cấp khả năng bảo mật,…Ngân hàng tại nhà và đi chợ tại nhà nằm trong danh mục các dịch vụ này; bao gồm cả các ứng dụng thương mại, ví dụ như quản lý dây chuyền cung cấp và các ứng dụng quản lý tri thức.
Dịch vụ thương mại điện tử còn được mở rộng sang lĩnh vực di động. Đó chính là dịch vụ thương mại điện tử di động (m-commerce,Mobile Commerce). Có nhiều khái niệm khác nhau về m-commerce, nhưng ta có thể hiểu đây là dịch vụ cho phép người sử dụng tham gia vào thị trường thương mại điện tử qua các thiết bị di động cầm tay.
+ Dịch vụ chuyển cuộc gọi (Call Center Service): Một thuê bao có thể chuyển một cuộc gọi thông thường đến trung tâm phân phối cuộc gọi bằng cách kích chuột trên một trang web. Cuộc gọi có thể xác định đường đến một agent thích hợp, mà nó có thể nằm bất cứ đâu thậm chí cả ở nhà (như trung tâm cuộc gọi ảo - Vitual Call Center). Các cuộc gọi thoại cũng như các tin nhắn e-mail có thể được xếp hàng giống nhau đến các agent. Các agent có các truy nhập điện tử đến các khách hàng, danh mục, nguồn cung cấp và thông tin yêu cầu, có thể được truyền qua lại giữa khách hàng và agent.
+ Trò chơi tương tác trên mạng (Interactive gaming): Cung cấp cho khách hàng một phương thức gặp nhau trực tuyến và tạo ra các trò chơi tương tác (chẳng hạn như video games).
+ Thực tế ảo phân tán (Distributed Virtual Reality): Tham chiếu đến sự thay đổi được tạo ra có tính chất kỹ thuật của các sự kiện, con người, địa điểm, kinh nghiệm,… của thế giới thực, ở đó những người tham dự và các nhà cung cấp kinh nghiệm ảo là phân tán về địa lý. Dịch vụ này yêu cầu sự phối hợp rất phức tạp của các tài nguyên khác nhau.
+ Quản lý tại gia (Home Manager): Với sự ra đời của các thiết bị mạng thông minh, các dịch vụ này có thể giám sát và điều khiển các hệ thống bảo vệ tại nhà, các hệ thống đang hoạt động, các hệ thống giải trí, và các công cụ khác tại nhà..
Ngoài các dịch vụ đã nêu trên còn có rất nhiều dịch vụ khác có thể triển khai trong môi trường NGN như: các dịch vụ ứng dụng trong y học, chính phủ điện tử, nghiên cứu đào tạo từ xa, nhắn tin đa phương tiện,… Như vậy các dịch vụ thế hệ sau là rất đa dạng và phong phú, việc xây dựng, phát triển và triển khai chúng là mở và linh hoạt. Chính vì vậy nó thuận tiện cho các nhà cung cấp dịch vụ và ứng dụng triển khai dịch vụ đến cho khách hàng trong môi trường NGN.
4.5. Bảo mật
Khả năng bảo mật của một mạng viễn thông là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng cũng như tính khả dụng của mạng viễn thông đó. Nhiều hướng dẫn khác nhau của liên minh Châu Âu EU đã được đưa ra để bảo vệ dữ liệu và tính riêng tư của người sử dụng, trong đó bao gồm cả bảo vệ thông tin trong mạng công cộng. Viện tiêu chuẩn Châu Âu (ETSI) đã thành lập một ban cố vấn về vấn đề bảo mật, và ban này phục vụ cho các nhà vận hành mạng công cộng. Trong tương lai, các yêu cầu về bảo mật không chỉ đặt ra với các nhà vận hành mạng viễn thông mà còn cho từng quốc gia riêng biệt. Đặc biệt, các vấn đề bảo mật trong mạng NGN là một vấn đề quan trọng cần được chú ý.
Có nhiều thành phần yêu cầu về bảo mật ở mức độ cao trong mạng NGN:
- Khách hàng/ thuê bao cần phải có tính riêng tư trong mạng và các dịch vụ được cung cấp, bao gồm cả việc tính cước. Thêm vào đó, họ yêu cầu dịch vụ phải có tính sẵn sàng cao, cạnh tranh lành mạnh và bảo đảm sự riêng tư của họ.
- Các nhà vận hành mạng, các nhà cung cấp dịch vụ, các nhà cung cấp truy nhập đều cần phải bảo mật để bảo vệ hoạt động, vận hành và kinh doanh của họ, đồng thời có thể giúp họ phục vụ tốt khách hàng cũng như cộng đồng.
- Các quốc gia khác nhau yêu cầu và đòi hỏi tính bảo mật bằng cách đưa ra các hướng dẫn và tạo ra các bộ luật để đảm bảo tính sẵn sàng của dịch vụ, cạnh tranh lành mạnh và tính riêng tư.
- Sự gia tăng rủi ro do sự thay đổi trong toàn bộ các quy định và các môi trường kỹ thuật càng nhấn mạnh sự cần thiết ngày càng gia tăng về tính bảo mật trong mạng thế hệ mới NGN.
Các tiến bộ về công nghệ cũng liên quan đến vấn đề bảo mật. Trong thời gian gần đây, người ta hi vọng rằng các giao diện và giao thức được sử dụng trong các thiết bị viễn thông không thể dễ dàng giải mã và l