Chuy ển giao trongm ạng W-CDMA có thể được phân lo ại theo nhi ề u
loại khác nhau. Có th ể phân thành: chuy ểngiao cùngt ần số, chuyểngiao khác
tầnsố và chuy ển giao gi ữa cácmạng khác nhau W-CDMAv ới GSM. Trong
phần này, ta lại chia chuy ểngiao trong W-CDMA thành b ốn lo ại: chuy ểngiao
trong cùngh ệ thống, chuy ển giao ngoàih ệ thống, chuy ển giaocứng, chuy ển
giaomềm vàmềm hơn.
Chuy ển giao trong cùngh ệ thống có th ể được chia thành chuy ển giao
cùngt ầnsố và chuyển giao kháct ầnsố. Chuyển giao cùngt ầnsố xuất hiệ n
giữa cáct ế bào cùng sóng mang W-CDMA. Chuy ển giao kháct ầnsố xuất
hiệngiữa các tếbào hoạt động trên các tầnsốsóng mangkhác nhau.
117 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2383 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu thuật toán điều khiển công suất trong W-CDMA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
36
với một tín hiệu giả ngẫu nhiên có tốc độ chip cao hơn rất nhiều so với tốc độ
bit
Tốc độ chip tín hiệu giả ngẫu nhiên và tốc độ bit được tính theo công
thức sau:
RC = 1/TC,
Rb = 1/Tb.
Hình 2.11 Trải phổ chuỗi trực tiếp
Trong đó:
RC: tốc độ chip tín hiệu giả ngẫu nhiên,
Rb: tốc độ bit,
Tb: thời gian một bit của luồng số cần phát,
Tn: thu kỳ của mã giả ngẫu nhiên dùng cho trải phổ,
TC: thời gian một chip của mã trải phổ.
2.8 Chuyển giao
2.8.1 Tổng quan về chuyển giao trong mạng di động
Chuyển giao là một khái niệm cơ bản về sự di chuyển của MS trong
cấu trúc thông tin tế bào. Có nhiều loại chuyển giao khác nhau để phù hợp với
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
37
các yêu cầu khác như: điều khiển tải, cung cấp vùng phủ sóng và thoả mãn
chất lượng dịch vụ .
Mục tiêu của chuyển giao là cung cấp sự liên tục của dịch vụ di động
khi người sử dụng di chuyển qua vùng biên của các tế bào trong kiến trúc
mạng tế bào. Để người sử dụng có thể tiếp tục thông tin và băng qua biên của
tế bào thì cần cung cấp tài nguyên vô tuyến mới cho người sử dụng ở tế bào
mới, hay còn gọi là tế bào đích. Bởi vì cường độ tín hiệu thu được xấu hơn tế
bào đích mà người sử dụng chuyển qua. Quá trình xử lý đường xuống còn tồn
tại kết nối trong tế bào hiện tại và thiết lập kết nối mới trong tế bào lân cận
gọi là chuyển giao. Tính năng của mạng tế bào thể hiện qua chuyển giao là
chủ yếu nhằm cung cấp dịch vụ hấp dẫn như các ứng dụng thời gian thực hay
luồng đa phương tiện như các dự án trong mạng di động thế hệ ba đưa ra. Số
lượng chuyển giao không thành công thể hiện thủ tục chuyển giao không hoàn
thành.
2.8.2 Các loại chuyển giao trong hệ thống 3G W-CDMA
Chuyển giao trong mạng W-CDMA có thể được phân loại theo nhiều
loại khác nhau. Có thể phân thành: chuyển giao cùng tần số, chuyển giao khác
tần số và chuyển giao giữa các mạng khác nhau W-CDMA với GSM. Trong
phần này, ta lại chia chuyển giao trong W-CDMA thành bốn loại: chuyển giao
trong cùng hệ thống, chuyển giao ngoài hệ thống, chuyển giao cứng, chuyển
giao mềm và mềm hơn.
Chuyển giao trong cùng hệ thống có thể được chia thành chuyển giao
cùng tần số và chuyển giao khác tần số. Chuyển giao cùng tần số xuất hiện
giữa các tế bào cùng sóng mang W-CDMA. Chuyển giao khác tần số xuất
hiện giữa các tế bào hoạt động trên các tần số sóng mang khác nhau.
Chuyển giao ngoài hệ thống xuất hiện giữa các tế bào thuộc hai kỹ
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
38
thuật truy nhập vô tuyến RAT (Radio Access Technology) khác nhau hoặc
giữa hai nút UTRAN FDD và UTRAN TDD.
Hình 2.12 Các loại chuyển giao trong hệ thống 3G
Chuyển giao cứng là loại chuyển giao mà kết nối cũ bị phá vỡ trước
khi có kết nối vô tuyến mới được thiết lập giữa thiết bị người sử dụng và
mạng truy nhập vô tuyến. Loại chuyển giao này sử dụng trong mạng GSM để
gán các kênh tần số khác nhau cho các tế bào. Người sử dụng đi vào tế bào
mới sẽ huỷ bỏ kết nối cũ và thiết lập kết nối mới với tần số mới. Chuyển giao
cứng trong mạng UMTS sử dụng để thay đổi kênh tần số của UE và UTRAN.
Trong suốt quá trình bố trí tần số của UTRAN, nó sẽ xác định rằng mỗi hoạt
động UTRAN là dễ dàng để yêu cầu thêm vào phổ tần để đạt được dung
lượng khi các cấp độ sử dụng hiện tại đã hết. Trong trường hợp này vài băng
tần xấp xỉ 5 MHz được sử dụng bởi một thuê bao và cần chuyển giao giữa
chúng. Chuyển giao cứng còn áp dụng để thay đổi tế bào trên cùng tần số khi
mạng không hỗ trợ tính đa dạng lớn. Trong trường hợp khác là khi kênh
truyền đã được xác định trong khi người sử dụng đi vào tế bào mới thì chuyển
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
39
giao cứng sẽ thực hiện nếu chuyển giao mềm và mềm hơn không thực hiện
được. Thông thường chuyển giao cứng chỉ dùng cho vùng phủ và tải, còn
chuyển giao mềm và mềm hơn là yếu tố chính hỗ trợ di động. Chuyển giao
giữa hai mode UTRAN FDD và UTRAN TDD cũng thuộc loại chuyển giao
cứng.
Chuyển giao mềm là chuyển giao giữa hai BS khác nhau, còn chuyển
giao mềm hơn là chuyển giao giữa ít nhất 2 sector của cùng một BS. Trong
suốt quá trình chuyển giao mềm, MS giao tiếp một cách tức thì với hai
(chuyển giao hai đường) hoặc nhiều tế bào của các BS khác nhau thuộc cùng
RNC (Intra-RNC) hoặc các RNC khác nhau (Inter-RNC). Trên đường xuống
máy di động nhận hai tín hiệu với tỉ số kết hợp lớn nhất; ở đường xuống, máy
di động mã hoá kênh được tách bởi cùng hai BS (chuyển giao hai đường), và
được gởi đến RNC cho việc lựa chọn kết hợp. Hai hoạt động điều khiển công
suất vòng trong đặc biệt trong chuyển giao mềm cho một BS.
Chuyển giao mềm Chuyển giao mềm hơn
Hình 2.13 Chuyển giao mềm và mềm hơn
Trong trường hợp chuyển giao mềm hơn, MS được điều khiển ít nhất
bởi hai sector của cùng BS, do đó chỉ có một hoạt động điều khiển công suất
vòng.
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
40
Chuyển giao mềm và mềm hơn chỉ sử dụng một sóng mang, do đó đây
là chuyển giao trong cùng hệ thống. Hình 2.14 thể hiện hai loại chuyển giao
khác nhau.
Hình 2.14 Các loại chuyển giao khác nhau trong W-CDMA
Chuyển giao hai đường là chuyển giao mà ở đó MS thông tin với hai
đoạn của hai tế bào khác nhau.
Chuyển giao ba đường là chuyển giao mà ở đó MS thông tin với ba
đoạn của ba tế bào khác nhau.
BS điều khiển trực tiếp quá trình xử lý cuộc gọi trong quá trình chuyển
giao mềm được gọi là BS sơ cấp.BS sơ cấp có thể khởi đầu bản tin điều khiển
đường xuống, các BS khác không xử lý cuộc gọi gọi là BS thứ cấp. Chuyển
giao mềm kết thúc khi hoặc BS sơ cấp hoặc BS thứ cấp bị loại bỏ.
Kết luận chương 2
Trong chương này ta đã giới thiệu một cách tổng quan nhất về hệ thống
thông tin di dộng W-CDMA và đã đi vào phân tích cấu trúc mạng W-CDMA
bao gồm các phần tử mạng truy nhập vô tuyến, mạng lõi, chức năng của các
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
41
phần tử, các giao diện mạng, mô hình giao thức phân lớp của hệ thống UMTS
là cơ sở cấu trúc hệ thống cho W-CDMA.
Từ việc tìm hiểu, phân tích cấu trúc mạng ta cũng quan tâm đến vấn đề
sắp xếp các kênh trong UTRAN và các phương thức trải phổ trong mạng. Lớp
vật lý có ảnh hưởng lớn đến sự phức tạp của thiết bị về việc đảm bảo khả
năng xử lý băng tần cơ sở cần thiết ở trạm gốc nút B và trạm đầu cuối UE.
Trên quan điểm dịch vụ các hệ thống thế hệ ba là các hệ thống băng rộng, vì
thế không thể thiết kế lớp vật lý chỉ cho một dịch vụ thoại duy nhất mà cần
đảm bảo cho nhiều loại dịch vụ và các dịch vụ tương lai. Cuối cùng chính là
những kiến thức cơ sở để tìm hiểu và nghiên cứu các thuật toán, các kỹ thuật
chuyển giao trong W-CDMA ở các chương tiếp theo.
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
42
CHƯƠNG 3
ĐIỀU KHIỂN CÔNG SUẤT TRONG W-CDMA
Trong hệ thống đa truy nhập phân chia theo mã băng rộng W-CDMA,
mỗi thuê bao khi tham gia vào hệ thống sẽ được cấp một mã để hoạt động trên
một kênh tần số. Điều này sẽ làm dung lượng của hệ thống tăng lên đáng kể,
nhưng bên cạnh đó, khi có nhiều thuê bao hoạt động trên một kênh tần số sẽ
gây ra nhiễu đồng kênh. Ngoài ra, nhiễu còn có thể phát sinh do môi trường
hay từ chính các thiết bị trong hệ thống W-CDMA. Nhằm duy trì chỉ số cấp
độ phục vụ QoS của hệ thống ở mức tiêu chuẩn, thì hạn chế nhiễu bằng việc
điều khiển công suất trên đường lên và đường xuống là việc làm cần thiết.
Trong chương này chúng ta tìm hiểu một số thông số ảnh hưởng đến
việc điều khiển công suất cũng như ý nghĩa của nó. Sau đó ta sẽ đi sâu vào
phân tích một số kỹ thuật điều khiển công suất trong hệ thống thông tin di
động thế hệ ba W-CDMA.
3.1 Kênh truyền vô tuyến
Trong thông tin di động, do môi trường truyền dẫn đặc thù là vô tuyến
nên các yếu tố kênh truyền có những tác động rất lớn đến các hoạt động của
hệ thống. Các nhân tố ảnh hưởng có thể liệt kê như suy hao, nhiễu xạ, phản
xạ, tán xạ.
Hình 3.1 mô tả cơ chế fading đa đường khi tín hiệu từ UE đến nút B.
Trong hầu hết các trường hợp, tầm nhìn thẳng giũa UE và nút B bị che khuất
do sự che chắn dày đặc trong môi trường truyền. Cơ chế lan truyền đa đường
thường dẫn tới chất lượng tín không đạt yêu cầu. Ví dụ như hình 3.1, có 3
nguyên nhân gây ra hiện tượng đa đường: đầu tiên là hiện tượng phản xạ khi
sóng vô tuyến gặp bề mặt nhẵn, kích thước lớn (như tường của các tòa nhà,
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
43
mặt đường), một tia tới có thể bị phản xạ ra nhiều tia khác nhau theo những
hướng khác nhau. Thứ hai là hiện tượng nhiễu xạ xảy ra khi có một vật thể
lớn che chắn đường truyền thẳng. Hiện tượng thứ ba là hiện tượng tán xạ khi
tín hiệu gặp phải những bề mặt lớn, ghồ ghề và bị phân tán ra nhiều hướng.
Hình 3.1 Các hiện tượng trong tuyền sóng
Do những nguyên nhân vật lý trên, sóng đến đầu thu sẽ có biên độ cũng
như pha rất khác nhau và làm tăng giảm tín hiệu một cách không thể xác định
do tính di động của thuê bao. Nếu tốc độ của thuê bao càng nhanh, sự thay đổi
của môi trường truyền sóng càng phức tạp. Lúc này ngoài hiện tượng đa
đường, người sử dụng còn chịu ảnh hưởng của các hiện tượng vật lý quan
trọng khác như suy hao, dịch tần số.
Để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố trên, ta sẽ phân kênh truyền ra
làm hai loại:
Kênh truyền chịu ảnh hưởng trên phạm vi rộng,
Kênh truyền chịu ảnh hưởng trên phạm vi hẹp.
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
44
3.1.1 Kênh truyền vô tuyến trên phạm vi rộng
Là khi có duy nhất một tín hiệu truyền thẳng giữa đầu thu và đầu phát.
Và sự suy hao này có thể áp dụng công thức tính suy hao tự do trong không
gian để tính toán.
41 0 lo g 2 0 lo gtd b
r
P dL
P
p
l
= = (3.1)
Trong đó: Pt là công suất phát,
Pr là công suất thu,
d là khoảng cách truyền sóng,
λ bước sóng.
Trong trường hợp này suy hao trung bình của kênh truyền phụ thuộc
vào tần số của sóng mang và khoảng cách địa lý giữa hai đầu thu phát. Một
khía cạnh quan trọng khác là suy hao giữa đường xuống và đường lên trong
trường hợp này có một mối tương quan qua lại, có nghĩa là ta có thể dự đoán
suy hao đường lên và tính toán suy hao đường xuống. Đây là một tính chất
quan trọng được sử dụng trong phương pháp điều khiển công suất vòng mở
được trình bày sau này.
3.1.2 Kênh truyền vô tuyến trên phạm vi hẹp
Kênh truyền này không những làm thay đổi biên độ của tín hiệu mà còn
gây ra hiện tượng phân tán thời gian dẫn tới giao thao giữa các tín hiệu tới đầu
thu. Như đã phân tích lúc đầu, tín hiệu nhận được là sự tổng hợp của tất cả
các tín hiệu đến từ nhiều đường khác nhau với biên độ và pha khác nhau.
3.2 Ý nghĩa của việc điều khiển công suất
Trong hệ thống thông tin di động W-CDMA, các UE đều phát chung
một tần số ở cùng thời gian nên chúng gây nhiễu đồng kênh với nhau. Chất
lượng truyền dẫn của đường truyền vô tuyến đối với từng người sử dụng trong
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
45
môi trường đa người sử dụng phụ thuộc vào giá trị SIR. Để đảm bảo tỷ số tín
hiệu trên nhiễu SIR (Signal to Interference) không đổi và đảm bảo ngưỡng
yêu cầu ta cần điều khiển công suất. Ở hệ thống W-CDMA việc điều khiển
công suất là bắt buộc và phải nhanh chóng nếu không dung lượng hệ thống sẽ
bị giảm.
Việc điều khiển công suất sẽ giúp cho công suất thu được ở trạm gốc là
như nhau đối với tất cả các thuê bao, dung lượng của hệ thống có thể đạt tới
mức cực đại do SNR của tín hiệu thu được vẫn đảm bảo lớn hơn ngưỡng tối
thiểu khi có nhiều thuê bao cùng hoạt động.
Ngoài ra điều khiển công suất còn tham gia vào quá trình chuyển giao
giúp cho thông tin liên lạc được giữ trong suốt quá trình khi thuê bao di
chuyển từ trạm gốc này qua trạm gốc khác. Điều khiển công suất nhằm mục
đích để chống lại hiệu ứng Fading Rayleigh trên tín hiệu truyền đi bởi việc
bù cho Fading nhanh của kênh truyền. Nó còn góp phần làm tăng tuổi thọ pin
của máy di động vì giúp cho máy di động luôn hoạt động ở công suất thấp
nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng tín hiệu.
Để minh hoạ việc điều khiển công suất cần thiết như thế nào trong hệ
thống W-CDMA, chúng ta xem xét một tế bào đơn lẻ có hai thuê bao giả
định. Thuê bao 1 gần trạm gốc hơn thuê bao 2, nếu không có điều khiển công
suất, cả hai thuê bao sẽ phát một mức công suất cố định P, tuy nhiên do sự
khác nhau về khoảng cách nên công suất thu từ thuê bao 1 là P1 sẽ lớn hơn
thuê bao 2 là P2. Giả sử rằng vì độ lệch về khoảng cách như vậy mà P1 lớn
gấp 10 lần P2 thì thuê bao 2 sẽ chịu một sự bất lợi lớn.
Nếu tỷ số SNR yêu cầu là (1/10) thì chúng ta có thể nhận ra sự chênh
lệch giữa các SNR của hai thuê bao. Hình 3.2 minh hoạ điều này, nếu chúng
ta bỏ qua tạp âm nhiệt thì SNR của thuê bao 1 sẽ là 10 và SNR của thuê bao 2
sẽ là (1/10). Thuê bao 1 có một SNR cao hơn nhiều và như vậy nó sẽ có được
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
46
một chất lượng rất tốt, nhưng SNR của thuê bao 2 chỉ vừa đủ so với yêu cầu.
Sự không cân bằng này được xem là bài toán “gần-xa” kinh điển trong một hệ
thống đa truy cập trải phổ.
Hình 3.2 Công suất thu từ 2 thuê bao tại trạm gốc
Hệ thống nói trên được coi như đã đạt tới dung lượng của nó. Lý do là
nếu chúng ta thử đưa thêm một thuê bao thứ 3 phát cùng mức công suất p vào
bất cứ chỗ nào trong tế bào thì SNR của thuê bao thứ 3 đó sẽ không thể đạt
được giá trị yêu cầu. Hơn nữa, nếu chúng ta cố đưa thêm thuê bao thứ 3 vào
hệ thống thì thuê bao thứ 3 đó sẽ không những không đạt được SNR yêu cầu
mà còn làm cho SNR của thuê bao 2 bị giảm xuống dưới mức SNR yêu cầu.
Việc điều khiển công suất được đưa vào để giải quyết vấn đề “gần –
xa” và để tăng tối đa dung lượng hệ thống. Điều khiển công suất là điều khiển
công suất phát từ mỗi thuê bao sao cho công suất thu của mỗi thuê bao ở
trạm gốc là bằng nhau. Trong một tế bào, nếu công suất phát của mỗi thuê
bao được điều khiển để công suất thu của mỗi thuê bao ở trạm gốc là bằng
nhau và bằng P thì nhiều thuê bao hơn có thể sử dụng trong hệ thống. như ví
P
f
Thuê bao 2 có
S/N = 1/10
Thuê bao
1 có S/N
= 1
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
47
dụ trên, nếu SNR yêu cầu vẫn là (1/10) thì tổng cộng có thể có 11 thuê bao
được sử dụng trong tế bào. Dung lượng được tăng tối đa khi sử dụng điều
khiển công suất.
3.3 Phân loại điều khiển công suất
Có nhiều phương pháp điều khiển công suất trong hệ thống thông tin tế
bào. Khi xét đến một hệ thống điều khiển công suất, cần xem xét những mặt
sau:
Tiêu chuẩn chất lượng: tiêu chuẩn chất lượng được đánh giá thông qua
tỉ số tín hiệu trên nhiễu SIR và hệ số lỗi bit (BER – Bit Error Ratio). Cường
độ tín hiệu trên nhiễu SIR và hệ số lỗi bit BER bao gồm các thông tin tương
đương về chất lượng .
Những phép đo: thông thường những phép đo được đưa ra trong báo
cáo bao gồm các chỉ số chất lượng QI (Quality Indicator) phản ánh chất lượng
và chỉ số cường độ tín hiệu nhận được RRSI (Received Signal Strength
Indicator) phản ánh cường độ tín hiệu thu được của máy thu. Những giá trị
này được lượng tử hoá thô để sử dụng ít mẫu.
Thời gian trễ: tín hiệu đo lường và điều khiển cần thời gian dẫn đến
làm xuất hiện thời gian trễ trong mạng.
Từ những tiêu chí đó ta có thể phân điều khiển công suất như sau:
3.3.1 Điều khiển công suất phân tán và tập trung
Điều khiển công suất tập trung là điều khiển tất cả các mức công suất
trong mạng hay một phần của mạng theo yêu cầu tín hiệu điều khiển phạm vi
rộng trong mạng và không thể ứng dụng trong thực tế. Chúng có thể sử dụng
để đưa ra giới hạn về hiệu suất của thuật toán phân tán.
Bộ điều khiển phân tán chỉ điều khiển công suất của một trạm phát đơn
và thuật toán chỉ phụ thuộc vào các tham số nội bộ như SIR hay độ lợi kênh
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
48
của người sử dụng. Những thuật toán này thực hiện tốt trong trường hợp lý
tưởng, nhưng trong các hệ thống thực tế có một số hiệu ứng không thích hợp
như: tín hiệu đo và điều khiển làm mất thời gian dẫn đến thời gian trễ trong hệ
thống, công suất phát hợp lý của máy phát bị hạn chế bởi giới hạn vật lý.
3.3.2 Điều khiển công suất cho đường lên và đường xuống
Điều khiển công suất đường lên (từ UE đến RNC) trong hệ thống W-
CDMA là một yêu cầu quan trọng để chống lại hiệu ứng gần - xa. Ở đường
xuống, trong hệ thống thông tin di động thế hệ ba, do dữ liệu đường xuống có
tốc độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình dịch vụ nên yêu cầu điều khiển
công suất cũng rất cần thiết để đảm bảo chất lượng, tối đa dung lượng thuê
bao có thể phục vụ. Hơn nữa trong hệ thống đa tế bào, nhiễu giao thoa từ các
tế bào lân cận cũng là một yếu tố làm giảm chất lượng. Như vậy, phải sử dụng
điều khiển công suất trong trường hợp này để làm giảm sự giao thoa giữa các
tế bào.
3.3.3 Điều khiển công suất theo phương pháp đo
Theo phương pháp đo, kỹ thuật điều khiển công suất được phân thành 3
loại dựa trên ba cơ sở là: trên cơ sở cường độ, trên cơ sở SIR, trên cơ sở BER.
Trên cơ sở cường độ, cường độ một tín hiệu đến BS từ MS được đánh
giá để xác định là nó cao hơn hay thấp hơn cường độ mong muốn. Sau đó BS
sẽ gởi lệnh để điều khiển công suất cao hơn hay thấp hơn thích hợp.
Trên cơ sở SIR, phương pháp đo là SIR khi mà tín hiệu bao gồm nhiễu
kênh và nhiễu giữa các người sử dụng. Một vấn đề quan trọng gắn với điều
khiển công suất dựa vào SIR là có khả năng gây hồi tiếp dương làm nguy
hiểm đến sự vững vàng của hệ thống. Hồi tiếp dương xuất hiện trong trừơng
hợp khi một MS dưới sự chỉ dẫn của BS đã tăng công suất của nó và điều đó
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
49
lặp lại với các MS khác. Trong trường hợp có N-MS trong hệ thống, điều này
làm tê liệt cả N-MS.
Trong điều khiển công suất dựa vào BER, BER được định nghĩa là một
số lượng trung bình của các bit lỗi so với chuỗi bit chuẩn. Nếu công suất tín
hiệu và nhiễu là hằng số thì BER là hàm của SIR, và trong trường hợp này thì
QoS là tương đương. Tuy nhiên, trong thực tế SIR là hàm thời gian và như
vậy SIR trung bình sẽ không tương ứng với BER trung bình. Trong trường
hợp này, BER là cơ sở đo đạt chất lượng tốt hơn.
3.3.4 Điều khiển công suất vòng kín, điều khiển công suất vòng
mở
Trong W-CDMA tồn tại hai phương pháp điều khiển công suất sau:
Điều khiển công suất vòng mở,
Điều khiển công suất nhanh vòng kín gồm điều khiển công suất vòng
trong và điều khiển công suất vòng ngoài.
Điều khiển công suất vòng mở thực hiện đánh giá gần đúng công suất
đường xuống của tín hiệu kênh hoa tiêu dựa trên tổn hao truyền sóng của tín
hiệu này. Nhược điểm của phương pháp này là do điều kiện truyền sóng của
đường xuống khác với đường lên nhất là do fading nhanh nên sự đánh giá sẽ
thiếu chính xác. Ở hệ thống CDMA trước đây, người ta sử dụng phương pháp
này kết hợp với điều khiển công suất vòng kín, còn ở hệ thống W-CDMA
phương pháp điều khiển công suất này chỉ được sử dụng để thiết lập công suất
gần đúng khi truy cập mạng lần đầu.
Phương pháp điều khiển công suất nhanh vòng kín như hình 3.3. Ở
phương pháp này BS (hoặc MS) thường xuyên ước tính tỷ số tín hiệu trên can
nhiễu thu được SIR và so sánh nó với tỷ số SIR đích. Nếu SIR ước tính cao
hơn SIR đích thì BS (hoặc MS) thiết lập bit điều khiển công suất để lệnh cho
BS (hoặc MS) hạ thấp công suất, trái lại nó ra lệnh BS (hoặc MS) tăng công
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
50
suất. Chu kỳ đo lệnh phản ứng này được thực hiện 1500 lần trong một giây ở
cdma2000. Tốc độ này sẽ cao hơn mọi sự thay đổi tổn hao đường truyền và
thậm chí có thể nhanh hơn fading nhanh khi MS chuyển động tốc độ thấp.
Hình 3.3 Nguyên lý điều khiển công suất vòng kín
Kỹ thuật điều khiển công suất vòng kín như trên được gọi là điều khiển
công suất vòng trong, nó cũng được sử dụng cho đường xuống, mặc dù ở đây
không có hiện tượng gần xa vì tất cả các tín hiệu đến các MS trong cùng một
tế bào đều bắt đầu từ một BS. Tuy nhiên lý do điều khiển công suất ở đây như
sau: khi MS tiến đến gần biên giới của tế bào, nó bắt đầu chịu ảnh hưởng
ngày càng tăng của nhiễu từ các tế bào khác, điều khiển công suất trong
trường hợp này để tạo một lượng dự trữ công suất cho các MS trong trường
hợp nói trên. Ngoài ra điều khiển công suất đường xuống cho phép bảo vệ các
Giải trải
phổ
Thu
RAKE
Đo SIR
So sánh và
quyết định
Tạo bit điều
khiển công suất
Đo chất lượng
công suất dài
So sánh và
quyết định
SIR đích
Chất
lượng
đích
Vòng ngoài
Vòng trong
Ghép bit điều
khiển công
suất vào
luồng phát
Tín hiệu
băng
gốc thu
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
51
tín hiệu yếu do fading Rayleigh gây ra, nhất là khi các mã sửa lỗi làm việc
không hiệu quả.
Điều khiển công suất vòng ngoài thực hiện đánh giá dài hạn chất lượng
đường truyền trên cơ sở hệ số tỷ lệ lỗi khung FER (Frame Error Ratio) hoặc
BER để quyết định SIR đích cho điều khiển công suất vòng trong.
Tuy nhiên ta thấy rằng việc loại bỏ phading phải trả giá bằng tăng công
suất phát. Vì thế khi MS bị phading sâu, công suất phát sử dụng lớn và nhiễu
gây ra cho các tế bào khác cũng tăng.
Điều khiển công suất vòng ngoài thực hiện điều chỉnh giá trị SIR đích ở
BS (hoặc MS) cho phù hợp với từng yêu cầu của từng đường truyền vô tuyến
để đạt được chất lượng các đường truyền vô tuyến như nhau. Chất lượng của
các đường truyền vô tuyến thường được đánh giá bằng tỷ số bit lỗi BER hay
tỷ số khung lỗi FER. Lý do cần đặt lại SIR đích như sau: SIR yêu cầu (tỷ lệ
với Eb/No) chẳng hạn là FER=1% phụ thuộc vào tốc độ của MS và đặc điểm
truyền nhiều đường. Nếu ta đặt SIR đích cho trường hợp xấu nhất (tốc độ di
chuyển của thuê bao là cao nhất) thì sẽ lãng phí dung lượng cho các kết nối ở
tốc độ thấp. Như vậy, tốt nhất là để SIR đích thả nổi xung quanh giá trị tối
thiểu đáp ứng được yêu cầu chất lượng.
3.4 Các thông số ảnh hưởng đến kỹ thuật điều khiển công suất
Trong mô hình thực tế kỹ thuật điều khiển công suất chịu ảnh hưởng
của rất nhiều thông số môi trường hay các chỉ số của hệ thống. Trong phần
này ta tìm hiểu sơ lược về những thông số này như kích thước của bước điều
khiển công suất, lỗi xảy ra khi ước lượng SIR, trễ hồi tiếp, tần số thực hiện
của kỹ thuật, tín hiệu điều khiển công suất bị lỗi trên đường truyền, trôi công
suất và sự ảnh hưởng của fading sâu.
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
52
3.4.1 Kích thước của bước điều khiển công suất
UE quyết định kích thước của bước điều khiển công suất dựa vào tín
hiệu điều chỉnh công suất nhận được từ nút B. Cơ bản có hai phương pháp
được sử dụng để ấn định kích thước bước điều chỉnh là bước cố định và bước
thích nghi. Trong phương pháp cố định, mỗi lệnh mã hóa bằng 1 bit. Với
phương pháp bước thích nghi, mỗi lệnh được mã hóa thành q bit để có thể thể
hiện thành các giá trị khác nhau tùy thuộc vào sự khác biệt giữa giá trị SIR
thu được và SIR đích.
Ưu điểm của phương pháp sử dụng bước thích nghi là có thể bám theo
tốt sự thay đổi của kênh truyền do nó có thể điều chỉnh một cách linh động sự
thay đổi trong công suất phát. Nhưng trong thực tế, phương pháp này có
khuyết điểm là do nó dùng lệnh điều khiển công suất nhiều bit, mà tốc độ của
kỹ thuật điều khiển công suất phải lớn hơn tốc độ fading nhanh. Do đó sẽ tốn
một lượng đáng kể trong băng thông của đường truyền.
Còn kỹ thuật bước cố định, dù chỉ có thể tăng hay giảm một mức công
suất cố định trong 1 chu kỳ điều khiển, nhưng trong thực tế phương pháp này
được ưa chuộng hơn do tối ưu được băng thông đường xuống. Mặt khác do
điều khiển công suất bước thích nghi có thể tăng giảm công suất một lượng
lớn hơn bước cố định, nếu kỹ thuật này bám không tốt với thực tế kênh truyền
thì nó sẽ làm công suất của một UE trở nên vượt bậc so với các UE khác, dẫn
tới giảm dung lượng hệ thống.
3.4.2 Lỗi khi ước lượng SIR
Do yêu cầu tốc độ cập nhật phải nhanh nên quá trình ước tính SIR cũng
phải diễn ra trong thời gian tối ưu dẫn đến SIR đo được có thể không chính
xác. Tuy nhiên lỗi khi ước tính SIR cũng không ảnh hưởng nhiều đến kết quả
điều khiển công suất khi phải sử dụng bước cố định. Còn khi điều khiển công
Đồ án tốt nghiệp
SVTH: Bùi Quang Dũng GVHD Th.S: Võ Tr ường Sơn
53
suất bằng bước thích nghi thì yêu cầu SIR phải nghiêm ngặt do thuật toán này
bám sát với từng sự thay đổi nhỏ trong kết quả so sánh SIR.
3.4.3 Trễ trên vòng hồi tiếp
Trong môi trường fading nhanh, trễ hồi tiếp là một yếu tố ảnh hưởng
khá lớn đến chất lượng điều khiển công suất. Trễ t