MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU: 3
PHẦN I : LÝ THUYẾT VỀ MARKETING 5
Chương 1: Khái quát chung về Marketing 5
1.1. Khái niệm về Marketing 5
1.2. Mục tiêu, vai trò, chức năng của Marketing 5
Chương 2: Nội dung và hoạt động của công tác Marketing 9
2.1. Thị trường 9
2.2. Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu 9
2.2.1. Phân đoạn thị trường 10
2.2.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu 11
2.3 Marketing hỗn hợp ( Marketing – mix) 12
2.3.1. Chính sách sản phẩm 12
2.3.2. Chính sách giá 16
2.3.3. Chính sách phân phối 21
2.3.4. Chính sách xúc tiến và hộ trợ kinh doanh 24
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING TẠI CÔNG TY DLTWI 29
Chương 1: Một số đặc điểm cơ bản của công ty DLTWI 29
I. Khái quát chung về công ty DLTWI 29
I.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty DLTWI 29
I.2. Chức năng và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh tại công ty DLTWI 32
I.3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 33
II. Kết quả hoạt động kinh doanh trong một số năm qua tại công ty DLTWI 35
II.1. Các nguồn huy động đầu vào 35
II.2. Doanh thu xuất khẩu và các chỉ số sinh lời 36
Chương 2: Thị trường Tân dược 40
I. Những khái quát chung về thị trường dược phẩm 40
I.1. Thị trường dược phẩm thế giới 40
I.2. Thị trường dược phẩm Việt nam 41
II. Thị trường Tân dược 45
II.1. Quy mô thị trường Tân dược 45
II.2. Cạnh tranh trên thị trường Tân Dược 46
II.3. Các yếu tố chi phối thị trường Tân dược nội địa 50
Chương 3: Thực trạng Marketing tại công ty DLTWI 53
I. Nghiên cứu thị trường thuốc tân dược của công ty và lựa chọn thị trường mục tiêu 53
I.1. Thị trường mục tiêu 53
I.2. Những khách hàng của công ty 53
II. Những chính sách Marketing- mix đang vận hành tại Mediplantex 57
II.1. Chính sách sản phẩm 57
II.2. Chính sách giá 65
II.3. Chính sách phân phối 69
II.4. Chính sách xúc tiến hỗn hợp 79
III. Nhận xét chung về hoạt động Marketing của công ty DLTWI 82
III.1. Ưu điểm 82
III.2. Khuyết điểm 83
PHẦN III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP MARKETING NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TÂN DƯỢC CÔNG TY DLTWI 84
III.1 Phát triển hệ thống phân phối của Cty thông qua các nhà thuốc, hiệu thuốc sẵn có tại các địa bàn trên cả nước 84
III.2 Tập trung giới thiệu thuốc vào các bệnh viện, trạm y tế, phòng khám tư nhân trên địa bàn trong cả nước 88
KẾT LUẬN: 92
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích hoạt động Maketing và một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường Tân dược tại công ty dược liệu trung ương 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuốc nên dễ lẫn thuốc giả với thuốc thật. Hơn nữa mẫu mã bao bì lại tương tự nên người tiêu dùng càng khó phân biệt. Mặt khác thuốc là mặt hàng đặc biệt ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Trong khi thị trường thuốc hiện nay rất phức tạp vì thuốc giả đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ cộng đồng, gây ra những tổn thất về tiền bạc cho người tiêu dùng, cũng như những thiệt hại to lớn, và uy tín của những nhà bào chế chân chính, gây rối loạn thị trườngthuốc dẫn đến những khó khăn phức tạp cho công tác quản lý dược của nhà nước, làm giảm lòng tin người tiêu dùng đối với thuốc sản xuất trong nước và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến uy tín và vị trí của Việt Nam trong thị trường thế giới. Nhất là trong giai đoạn hội nhập phức tạp nhất hiện nay.Thuốc giả có thể chia làm bốn loại :
Loại hoàn toàn không có hoạt chất
Loại có hoạt chất khác với nhãn ghi thêm chỉ có thuốc độc
Loại có hoạt chất đúng với nhãn nhưng hàm lượng thấp hơn
Loại đúng hoạt chất và đủ hay không đủ hàm lượng nhưng giả mạo bì nhãn hiệu, màu sắc, và nguồn gốc (thuốc nhái).
Các trường hợp thuốc giả:
- Thuốc giả thuốc ngoại: Thuốc giả thuốc ngoại hoàn toàn giống thuốc thật từ tên
thuốc, mẫu mã bao bì, quy cách đóng gói, dạng bào chế. Ví dụ
Thuốc giả
Thuốc thật
Midexcasol
Madecasol
Celéskamin
Celéskamine
Pỡbanthène
Bèpanthène
Nystecline
Mycostatine( Nystatine)
Top- xil
Toplesil
Calcium&D
Calcium+ D
(Nguồn: Tạp chí dược học- số 5/2000 trang7,8)
- Thuốc nội giả thuốc nội : Thuốc nội giả bằng cách nhái tên, mẫ mã bao bì. Một loại thuốc khác đang được ưa chuộng có khi chỉ nhái tên còn mẫu mã bao bì hoàn toàn khác thuốc thật. Ví dụ :
Thuốc mạo
Thuốc thật
Codein
Acodine
Coandin
Codein-A
(Nguồn tạp chí dược học- số 5/2000 tr7,8)
- Thuốc ngoại mạo thuốc ngoại trên thị trường Việt Nam ít khi gặp hơn nhưng vẫn có khi xảy ra. Ví dụ như Biolactyl của DB Phama (Pháp) và Biolactyl của Young II Pham Co. LTD ( Hàn Quốc).
Thuốc mạo giống y như thuốc thật về hình thức, tuy nhiên vẫn có thể phân biệt được thật hay giả ở hình thức bên ngoài. Chẳng hạn như nét chữ in trên bao bì không được sắc nét như hàng thật, hay chữ bị mất nét, màu sắc không giống như trên bao bì thật, có những chỗ bị lem…
* Nhận xét chung về thị trường dược phảm Việt Nam:
Thị trường dược phẩm Việt Nam hiện có quy mô nhỏ (550 triệu USD/ năm)
- Mức tiêu thụ thuốc bình quân đang ở mức thấp, có xu hướng tăng cao cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
- Đối với ngành tân dược non trẻ của chúng ta, việc tập trung vào nghiên cứu đầu tư phát triển các thuốc mới, các dạng bào chế mới là mạo hiểm, chưa phù hợp với giai đoạn 2002- 2005. Nói cách khác tập trung vào việc sản xuất thuốc generic cần được xác định là ưu tiên hàng đầu, là bước đi đúng hướng hiện nay và cần được triển khai càng sớm càng tốt.
- Thuốc giả đang làm rối loạn thị trường.
- Điều đặc biệt là từ đầu năm trở lại đây, giá các mặt hàng thuốc tân dược tăng mạnh , trong đó có một số vài thuốc tăng gấp đôi so với vài tháng trước. Các loại thuốc và nguyên liệu thuốc tăng mạnh nhất là Vitamin C, nguyên liệu thuốc cảm là Paracetamol, nguyên liệu Vitamin C, với mức tăng từ 0,42 USD- 12USD/ kg ( đối với nguyên liệu thuốc) và tăng gấp đôi đối với mặt hàng thuốc thành phẩm ( Vitamin C) ( Nguồn: Thời báo kinh tế Viẹt Nam số 42 -14/3/03)
* Mối quan hệ thị trường trong và ngoài nước: Do ngành dược Việt Nam còn chưa mạnh nên tình trạng nhập siêu là chưa thể tránh khỏi, sự phụ thuộc vào nguyên liệu, bao bì máy móc thiết bị nhập từ nước ngoài và cũng chưa đáp ứng được một lượng lớn thành phẩm trong nước đang có nhu cầu sử dụng. Tỷ lệ nhập siêu trong ngành còn lớn, vì vậy nhà nước đang khuyến khích xuất khẩu để cân đối một phần ngoại tệ cho việc nhập khẩu. Ngành dược phẩm Việt Nam nhờ vào những phát minh của nước ngoài để sản xuất những thuốc generic nhằm phục vụ nhu cầu trong nước.
II Thị trường Tân dược.
II.1. Quy mô thị trường thuốc tân dược:
Việt Nam còn là một nước nghèo do đó thuốc Tân dược là mặt hàng phổ biến chiếm hơn 75% lượng tiêu thụ và chiếm gần 20 % giá trị xuất khẩu( Nguồn : Tạp chí dược học số 4/2001, tr2) trong quy mô thị trường là 550 triệu USD/năm tức là khoảng 412,5 Triệu USD/ Năm. Nếu tính toàn thế giới thì quy mô thị trường là 243,42 tỷ USD/ năm.
Thị trường tiêu thụ Tân dược tuỳ vào số lượng người mắc bệnh khác nhau mà có những nhu cầu dùng các loại thuốc khác nhau. Theo báo cáo của tổng quan cục quản lý Dược Việt Nam thì cơ cấu sản phẩm chủ yếu là kháng sinh chiếm 46% tương ứng là 189,75 Triệu USD/ năm; Vitamin 19%( 78,37 Tr USD/ năm); Cảm sốt thông thường 6% ( 24,67 tr. USD/ năm) và 29% là một số thuốc còn lại như tiêu hoá, tâm thần, tuần hoàn não…
Thị trường Tân dược là thị trường đặc biệt trong đó việc tiêu dùng phụ thuộc rất lớn vào lượng thông tin tiếp nhận. Luôn xảy ra hiện tượng đối tác này chiếm ưu thế thông tin hơn đối với đối tác kia, dẫn đến sai lệnh về giá trị của đối tượng trao đổi. Điều này tạo nên sự bất bình đẳng trên thị truờng tự do, làm cho người này bị thiệt trong khi người khác được lợi. ở thị trường Hà Nội, điều này thể hiện rất rõ, người bệnh đã bị thua thiệt do lượng thông tin không đầy đủ, thậm chí chưa chính xác.
Về tình hình cung ứng các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng thuốc Tân dược cho nhân dân. Nhiều công ty được các bác sỹ tư nhân mở các đại lý bán thuốc hay các dịch vụ phòng khám chữa bệnh tại địa bàn Hà Nội tạo ra mạng lưới bán lẻ thuốc sâu rộng, đảm bảo đủ nhu cầu thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân thủ đô. Nhung xu hướng đến các bác sỹ tư và mua thuốc tại các cửa hàng thuốc tư nhân đang tăng lên mặc dù họ phải trả thêm các chi phí khác, song họ vẫn tin rằng ở đây dịch vụ tốt hơn. Song song với việc phát triển các phương pháp phòng và chữa bệnh bằng y học cổ truyền thì xu hướng sử dụng các loại thuốc Tân dược đang tăng lên. Song đòi hỏi của người dân về các loại thuốc này ngày càng cao về chất lượng, mẫu mã, bao bì, chủng loại, cách dùng và giá cả. Trong giai đoạn hiện nay người dân ưa thích sử dụng các loại thuốc uống ( viên nén, viên dập, viên nhộng), thuốc uống ngoài da, dán vào chỗ đau. Chúng rất tiện dụng, người bệnh dễ dàng sử dụng theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Khác với các loại thuốc nói trên thì thuốc tiêm và dịch truyền đang có xu hướng giảm và không được ưa thích, bởi việc sử dụng chúng không những đòi hỏi sự giúp đỡ trực tiếp của y tá, gây nhiều phiền hà mà còn sợ bị lây nhiễm các bệnh như: viêm gan siêu vi rút, sida, sốt rét…Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt phải cấp cứu thì người ta phải sử dụng mặc dù vẫn băn khoăn e ngại. Bên cạnh ưu điểm là trị bệnh nhanh chóng. Thuốc tân dược còn kèm theo các phản ứng phụ cho người sử dụng. Chính vì vậy trong điều kiện hiện nay xu hướng kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại cũng đang được phát triển. Đó là mục tiêu cơ bản nhằm tăng cường khả năng phòng bệnh và chữa bệnh cho dân và xây dựng nền y học Việt Nam.
II.2. Cạnh tranh trên thị trường Tân dược.
Cùng với ngành dược Việt Nam các công ty dược nước ngoài đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc cung ứng thuốc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân Việt Nam, tạo ra thị trường thuốc phong phú lành mạnh đặc biệt là các loại thuốc chuyên khoa đặc trị. Số lượng và loại hình doanh nghiệp dược Việt Nam và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam năm 2001 như sau:
Stt
Loại doanh nghiệp
Số lượng doanh nghiệp
1
Doanh nghiệp dược trung ương
20
2
C. ty, xí nghiệp dược địa phương
126
3
C.ty, xí nghiệp dược thuộc bộ ngành khác
06
4
Công ty liên doanh và dự án đã được cấp phép
25
5
Doanh nghiệp tư nhân, TNHH, Cổ phần
492
6
Hãng, công ty dược nước ngoài
201
( Nguồn: Cục quản lý dựơc- Bộ y tế )
Tại Việt Nam, thuốc ngoại nhập chiếm khoảng 70% giá trị thuốc sử dụng hàng năm do các hoạt động của các công ty nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn đối với thị trường thuốc Việt Nam. Ngay cả các công ty dược với nhau, một mặt họ là đối thủ cảntanh mặt khác họ là bạn hàng với nhau, đối tác với nhau bổ trợ cho nhau để đáp ứng nhu cầu phục vụ khách hàng.
Trong tổng công ty, Công ty DLTWI chỉ chiếm 11.81% tổng doanh thu. Chiếm 35,1% tổng giá trị xuất khẩu dược của tổng Công ty dược Việt Nam và 27% tổng giá trị xuất khẩu dược của toàn ngành. Có thể thấy đối thủ cạnh tranh chính của Công ty là một số Công ty, xí nghiệp dược trong cùng tổng Công ty Nhà nước: Công ty dược phẩm Trung Ương, xí nghiệp dược phẩm TW I, TWII, XNDP 24, dược Hậu Giang (Nguồn :Mediplantex)
Doanh thu
Giá trị xuất khẩu
Triệu đồng
(%)
Triệu đồng
(%)
Công ty DLTWI
396.293,1
11.81
17.723,8
35,1
Tổng công ty Dược Việt Nam
3.355.572,4
100
50.495,2
100
Công ty DLTWI
Doanh thu Giá trị xuất khẩu
Tổng công ty Dược VN
Công ty DLTWI
Tổng công ty Dược VN
Biểu đồ 1: Một số chỉ tiêu của công ty DLTWI so với tổng công ty Dược
Nếu phân chia các doanh ngiệp dược ở Việt Nam theo khu vực địa lý thì :
Khu vực
Miền Bắc
Miền trung
Miền Nam
Số lượng
374
180
316
( Nguồn tổng công ty Dược Việt Nam)
Miền Bắc với 25 tỉnh có 374 doanh nghiệp dược mật độ trung bình là 15 doanh nghiệp dựơc trên một tỉnh miền Bắc từ đó cho thấy mức độ cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau; trung tâm thủ đô Hà Nội lại càng khốc liệt hơn vì ở đây tập trung chủ yếu các doanh nghiệp dược là điều tất yếu do trình độ dân trí cao đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ; thu nhập cao do đó nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ cũng tăng theo. Nhưng do doanh nghiệp TWI là một doanh nghiệp nhà nước do đó nó có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác khi tham gia đấu thầu tại các bệnh viện. Miền Trung mức độ cạnh tranh có giảm hơn so với miền Bắc, bình quân 12 doanh nghiệp dược trên một tỉnh mìên Trung. Tuy nhiên ở vùng nào cũng không chỉ có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong địa bàn mà còn có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ở miền khác.Ta thấy tình hình cạnh tranh ở miền Nam là gay gắt hơn cả , với 21 tỉnh thành mà có tới 316 doanh nghiệp dược. Bên cạnh đó một bộ phận không thể tách rời môi trường kinh doanh đó là khách hàng. Một sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm của công ty luôn được coi là tài sản có giá trị nhất. Khi khách hàng mua hàng hoá, sản phẩm của công ty nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của công ty đó bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm phải cao hơn hoặc dùng công ty này chống lại công ty khác. Khách hàng đặc biệt với sức mạnh khi họ mua hàng hoá với số lượng , giá trị lớn, mua thường xuyên. Vấn đề của khách hàng là khả năng thanh toán. Đối với công ty DLTWI thì khách hàng trung gian lớn nhất là thị trường các tỉnh, các bệnh viện và thị trường xuất khẩu, các xí nghiệp địa phương, xí nghiệp TW nhận gia công rất ít hàng và chịu trách nhiệm phân phối các mặt hàng đó của công ty. Có thể giải thích điều này là do các xí nghiệp không được phép kinh doanh thuốc. Thị trường thuốc phát triển mạnh trong những năm vừa qua ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường thuốc đặc biệt là tham gia vào công tác xuất nhập khẩu do các xí nghiệp TW, địa phương có thể tự cung cấp hàng cho mình với chi phí thấp hơn hoặc có thể chọn những nhà cung cấp mới với nhiều lợi thế hơn.
Không những thế công ty còn chịu sức ép từ phía người cung cấp. Những người cung cấp chính của công ty gồm các tỉnh, xí nghiệp sản xuất TW và địa phương, các công ty TW từ hoạt động sản xuất của công ty và nguồn nhập khẩu. Nhìn chung công ty có mối quan hệ tốt đối với nhà cung câp, số lượng hàng hoá mua vào ngày càng gia tăng theo các năm. Do mối quan hệ hợp tác lâu dài, bền vững nên trong những thời điểm cần thiết phải huy động một khối lượng lớn hàng hoá công ty cũng có thể có được. Chính vì vậy công ty luôn giữ được một khoảng cách khá an toàn không để có những ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty. Mối quan hệ này cũng tạo điều kịên tốt cho nguồn đầu vào của công ty được ổn định. Đối với nguồn nguyên liệu dùng để sản xuất thuốc sốt rét, cây bạc hà,…công ty đã có những biện pháp chính sách thoả đáng đối với người nông dân và đã chỉ đạo trồng 250 ha cây Thanh Hao Hoa Vàng và cây Bạc hà SK33 để thu mua, chế biến sản xuất và xuất khẩu.
Trong ngành dược, vấn đề chất lượng của thuốc là mối quan tâm hàng đầu. Trong những năm qua các nhà đầu tư đã không ngừng đầu tư cho ngành sản xuất của mình, phấn đấu đạt tiêu chuẩn GMP. Do đó, tình hình chất lượng thuốc trên thị trường được cải thiện hàng năm với tốc độ hoàn thiện đáng mừng. Theo báo cáo trong suốt năm 2002 cả nước chỉ phát hiện 22 trong tổng số 46.311 mẫu thuốc, chiếm 0,047% là thuốc giả. Chỉ có 2,29 % mẫu thuốc không đạt chất lượng đăng ký ( Nguồn tạp chí dược học- số 1/2003, tr5) Mặt khác, một doanh nghiệp trong nước than phiền rằng sản xuất thuốc tây hiện nay có lãi rất ít trong sự cạnh tranh mệt mỏi. Do trình độ sản xuất nói chung trong đó trình độ công nghệ chưa cao nên chất lượng sản phẩm chưa đồng đều và chưa ổn định. Cũng như ở một số nước như Philipin, Inđonexia, Thái Lan, thị trường dược Việt Nam được dự báo trong vài năm tới các nhóm thuốc như thuốc tiêu hoá, tim mạch, chống nhiễm khuẩn vẫn chiếm tỷ trọng lớn và tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Mô hình bệnh tật ở Việt Nam có thể nói là khá tương đồng với các nước trên. Theo đó các thuốc sắp hết được bảo hộ độc quyền. Theo thời gian, các thuốc được phát minh mới sẽ lần lượt phải công khai công thức bào chế và đây là cơ hội vàng cho các công ty generic. Một khi thuốc hết hạn bảo vệ bản quyền sở hữu riêng thì việc sản xuất sẽ diễn ra ồ ạt tại nhiều nước trên thế giới. Sức ép nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng lên, đặc biệt trong khi ASEAN đang bàn bạc vấn đè chung với ấn Độ và Trung quốc Do vậy nếu không có sự chuẩn bị trước thì công nghiệp dược của chúng ta sẽ có nguy cơ càng bị chèn ép. Như vậy chúng ta phải chủ động đón đầu về tiềm năng của các nhóm hoạt động trong sản xuất, trước hết là sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước. Thêm vào đó, tâm lý của người dân cũng như của cả bác sỹ kê đơn tin dùng hàng nhập ngoại hơn. Từ đó nảy sinh tình trạng hàng ngoại dù giá cao mà vẫn bán tốt, thu lợi cao để từ đó càng có điều kiện thúc đẩy các hoạt động xúc tiến bán hàng. Còn hàng nội do không thể cạnh tranh nổi nên các Công ty nội đua nhau chuyển sang hạ giá bán, cùng nhau chịu lãi ít hoặc lỗ. Xu hướng chênh lệch về giá giữa thuốc nội và thuốc ngoại ngày càng cao. Với một nhóm người có thu nhập cao khi mắc bệnh cũng như khi có nhu cầu về thuốc họ thường ít quan tâm đến thuốc tân dược, cái mà họ cần là thuốc đông dược, do đó đông dược có lợi thế cạnh tranh hơn tân dược trong nhóm khách hàng này.
II.3.Các yếu tố chi phối thị trường tân dược nội địa
1. Các yếu tố kinh tế
Các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các hoạt động của ngành kinh tế nói chung và đối với ngành dược nói riêng, Các yếu tố kinh tế có các tác động chủ yếu sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nhìn chung trong các năm qua nước ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định . Điều này được thể hiện ở bảng sau
Bảng 10 : Tốc độ tăng tăng quy mô thị trường Tân Dược
Năm
GDP%
Tốc độ tăng quy mô thị trường tân dược (%)
2000
6,7
5,41
2001
7,5
16,94
2002
7,04
13,08
2003
7,24
14,6
Tuy nhiên, so với mục tiêu bình quân 5 năm 2001- 2005 là 7,5 % thì năm 2004 phải đạt 7- 7,5 % . Riêng trên địa bàn Hà Nội năm 2002 tăng 10,25% ( kế hoạch là 10-11%) là mức tăng cao nhất trong năm năm trở lại đây. Khi kinh tế phát triển thu nhập người dân tăng lên thì nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ sức khoẻ của người dân cũng ngày càng tăng. Cầu thị trường về sản phẩm gia tăng là yếu tố tích cực kích thích sự phát triển của ngành dược nói chung và Công ty DLTWI nói riêng.
-Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái cũng là một trong số những ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tác động đến cả cung cầu về tiền và từ đó tác động đến giá cả hàng hoá. Tỷ giá cao sẽ khuyến khích xuất khẩu và ngược lại, tỷ giá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
Với bất kỳ một tỷ giá nào bién động bất lợi trong thời gian các công ty xuất hàng hay nhập hàng tân dược cũng đều ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của người kinh doanh và mức giá trên thị trường. Cụ thể là nếu tỷ giá cao sẽ khuyến khích xuất khẩu nhưng chẳng may thời gian đó các công ty dược Việt Nam thực hiện hoạt động nhập khẩu là chủ yếu sẽ là một điều lợi. Hoặc như trường hợp các công ty này buộc phải thực hiện hợp đồng trong khi tỷ giá thấp thì bất lợi này sẽ làm giảm doanh thu lớn. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh tân dượccũng như các mặt hàng khác chịu sức ép từ cả hai phía của việc tăng hay giảm tỷ giá hối đoái.
- Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, lợi nhuận của công ty, của cán bộ công nhân viên và đến toàn xã hội. Tỷ lệ lạm phát tăng sẽ làm cho giá trị của một đồng thu nhập giảm xuống và như vậy ảnh hưởng đến chi tiêu cho gia đình. Khi giá trị thu nhập thấp sẽ chú ý đến các yếu tố tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ như đề về ăn, ở, mặc,..mà ít chú trọng đến công tác bảo vệ sức khoẻ và như vậy đối với ngành dược sẽ gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ lạm phát tăng nghĩa là giá tăng làm tăng cung nhưng cầu thị trường giảm xuống. Tỷ lệ lạm phát tăng thì giá của các yếu tố đầu vào cũng tăng do đó các nhà sản xuất sẽ sản xuất ít đi hoặc phải tăng nguồn vốn. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát những năm gần đây không gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế và đây là một cơ hội cho ngành dược tiếp tục phát triển.
2. Chất lượng môi trưòng và cuộc sống
Thị trường nứơc ta chủ yếu là thị trường nông thôn bởi dân cư phân bố ở vùng này cao hơn vùng khu vực đô thị. Sức mua của khu vực nông thôn cũng thấp do vậy sự chấp nhận thuốc ngoại giá cao khó hơn sự chấp nhận thuốc nội giá phải chăng. Mạng lưới phân phối ở tuyến Tỉnh, Huyện tuy còn yếu nhưng vẫn nằm trong vùng chỉ đạo của nhà nước. Mối quan hệ giữa các công ty tỉnh với các đơn vị thành viên trong tổng công ty đã được thiết lập từ lâu và cũng rất gắn bó. Vì vậy nếu sử dụng các phương thức khác thích hợp, các doanh nghiệp của ta vẫn mở rộng được thị phần, kể cả thị trường y tế, bệnh viện tỉnh. Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, chất lượng môi trường giảm sút, điều kiện kinh tế còn nghèo nên chưa xử lý được chất thải làm cho ô nhiễm môi trường trầm trọng gây cho người nhiều bệnh mới hoặc gây ngộ độc thức ăn, nhiễm khuẩn, sốt rét….
Khoa học kỹ thuật phát triển cùng với sự tăng lên của lực lượng lao động trí óc làm cho lực lượng này có nguy cơ mức bệnh về: Tim mạch, dạ dày, ung thư, phổi, tuần hoàn não,…những vẫn đề trên làm cho thị trường thuốc tân dược luôn biến động. Do đó cần nắm bắt thông tin để có những kế hoạch tiến hành phát minh ra các loại thuốc mới, sau đó phân phối rộng khắp kịp thời cho người bệnh. Đi đôi với việc tuyên truyền và giáo dục người dân có ý thức bảo vệ môi trường sống của mình. Nói tóm lại những sự cố gây bệnh chúng có thể ở bên trong, bẩm sinh( từ cấu trúc di truyền), có thể tác động trực tiếp ( sốt rét, chất gây ung thư), hoặc qua trung gian ( muỗi, thuốc lá) hoặc do những tác nhân tiêu cực của điều kiện vật chất và tinh thần. Khi đã mắc bệnh thì đều cần đến thuốc do đó những nguyên nhân gây bệnh là yếu tố chủ yếu chi phối thị trường Tân dược.
Chương 3: Thực trạng Marketing- mix tại Công ty Dược liệu TW1
I. Nghiên cứu thị trường thuốc tân dược của công ty và khi lựa chọn thị trường mục tiêu:
I.1 Thị trường mục tiêu:
Địa bàn rộng khắp từ thành phố tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ Bắc vào Nam
Phục vụ cả hai đối tượng khách hàng là người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. Với những người cuối cùng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi có thu nhập thấp, khả năng về tài chính để chi phí cho lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ còn nhiều hạn chế, khi mặt hàng thuốc sử dụng sản xuất với giá rẻ được ưa chuộng và tiêu dùng nhiều hơn. Do vậy công ty luôn tìm cách đẩy mạnh lĩnh vực sản xuất, nâng cao năng xuất và hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh được với các công ty, xí nghiệp sản xuất trong nước khác trong mảng thị trường nông thôn. Còn với người tiêu dùng ở thành phố, thị xã, các trung tâm kinh tế xã hội lớn, nơi có thu nhập cao thì nhu cầu về chăm sóc bảo vệ sức khoẻ ngày càng gia tăng và nhu cầu sử dụng thuốc ngày càng nhiều hơn. Đối với mảng thị trường này, hoạt động nhập khẩu của công ty sẽ thực hiện việc cung ứng thuốc và khả năng cạnh tranh với các công ty khác.
- Chính sách tín dụng: cấp tín dụng cho doanh nghiệp dược nhà nước ở địa phương có thu nhập thấp.
- Chính sách hỗ trợ vận chuyển: Ưu tiên cho các địa phương vận chuyển khó khăn.
- Cơ cấu hàng hoá: hàng tư bản giá cao và hàng của các nước châu á và nội địa giá thấp.
- Hàng cần trình dược (hàng chuyên khoa, hàng mới, biệt dược) và hàng bán cạnh tranh
I.2. Những khách hàng của công ty;
Đây vừa là một khó khăn, vừa là một mâu thuẫn cần phải giải quyết hay dung hoà khi mà ít vốn lại đa dạng hoá kinh doanh, cần phải đầu tư nhiều lĩnh vực. trong kế hoạch phát triển của mình, Công ty cần cân nhắc kỹ lưỡng và tính toán chuẩn xác khi ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực nào, mũi kinh doanh nào trước, để vừa sinh lời nhanh, hoàn vốn sớm(khấu hao nhanh), vừa có tính định hướng lâu dài, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, mọi thứ dều dang dở vì hết vốn.
Nhóm 1: Khách hàng trung gian: Bệnh viện, trung tâm y tế, Cục quân y và cục Y tế, các chương trình đáu thầu Y tế
Đặc điểm: Tiền mua thuốc do ngân sách nhà nước cấp là chủ yếu và sử dụng trực tiếp cho người bệnh. Gần đây chủ yếu là thực hiện theo cơ chế đấu thầu nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ, đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý. Những số lượng trên mua số lượng lớn theo định kỳ, giá cả do các cơ quan chủ quản của các đơn vị trên quy định.
Nhóm 2: Khách hàng trung gian: DN dược nhà nước (TW, tuyến tỉnh và một số ít tuyến huyện)
Đặc điểm: Nguồn vốn chủ sở hữu nhà nước, nhưng vốn vay lớn nên được quyền tự chủ trong kinh doanh . Đối tượng này mua hàng để bán lại hoặc sản xuất chứ không tiêu dùng do đó khối lượng lớn và thường xuyên, nhu cầu của các doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng của mô hình bệnh tật và nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng.
Nhóm 3: Khách hàng trung gian: Công ty TNHH, Công ty cổ phần, các nhà bán buôn và các hiệu thuốc bán lẻ.
Đặc điểm: Vốn của tư nhân và mua hàng hoá của Mediplantex để kinh doanh lại hoặc sản xuất đối với các công ty TNHH và công ty cổ phần. Họ mua số lượng lớn, giá cả cạnh tranh, thanh toán ngay.
Nhóm 4: Người tiêu dùng cuối cùng: chỉ khi nào mắc bệnh nhóm người này mới có nhu cầu, khối lượng mua mỗi lần ít và đa dạng phụ thuộc và thu nhập, mức chi dùng cho sức khoẻ và trình độ hiểu biết của từng người mà họ quan tâm đến nguồn gốc của thuốc, công dụng hay tác dụng phụ của thuốc. Nhóm người tiêu dùng này có ảnh hưởng rất lớn đối với những nhóm khách hàng trên và họ chia thành người tự điều trị hoặc bệnh nhân. Nhưng bệnh nhân lại bị chi phối của bác sĩ (do bệnh nhân không thể tự mình điều trị mà không có chẩn đoán và kê đơn của bác sĩ). Mặc dù vậy, việc chi dùng cho y tế của nhân dân từ xưa đến nay đã mang những nét nổi bật sau: Tính ngẫu nhiên, tính tự nhiên, tính bản địa, tính tuỳ tiện, tính sùng ngoại cụ thể như sau :
* Tính ngẫu nhiên: Việc dùng thuốc trong nhân dân ta có từ lâu đời và ban đầu nó hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên, bởi vì nguồn gốc phát minh ra thuốc gắn liền với kinh nghiệm tìm ra thức ăn của con người, Ngay từ thời nguyên thuỷ tổ tiên của chúng ta lúc tìm kiếm thức ăn, có khi họ đã ăn những loại cây có độc, phát sinh nôn mửa, đi lỏng hoặc hôn mê và có khi chết người. Chính từ đó nhận thức được vị nào ăn được, vị nào chữa bệnh được, vị nào có hại. Kinh nghiệm của con người dần dần được tích luỹ. Từ đó đã giúp cho con người biết sử dụng tính chất của cây cỏ dùng làm thuốc để phòng bệnh hay chữa bệnh như biết dùng gừng để chữa bệnh; ăn trầu để ấm cơ thể; biết nhuộm răng để phòng chống sâu răng, viêm răng. Từ những hiểu biết trên nó sẽ giúp cho việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
* Tính tự nhiên: Tính tự nhiên biểu hiện ở chỗ trong quá trình sử dụng những cây thuốc để phòng bệnh và chữa bệnh cha ông ta đã nhận biết được loại cây nào, trong mỗi loại cây đó thì bộ phận nào ( như thân, rễ, lá, vỏ cành hay hoa…) có tác dụng chữa bệnh và tính năng đó để dùng cho việc phòng và chữa bệnh được tốt hơn.
* Tính bản địa: Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc. Mỗi dân tộc, mỗi địa phương, mỗi vùng đặc điểm địa lý khác nhau. Vì vậy, việc phân bố các loại thực vật nói chung và các loại cây thuốc nói riêng ở từng địa phương có sự khác nhau. Chất lượng thuốc( thành phần hoạt chất có từ trong cây ) ở mỗi vùng cũng khác nhau. Do việc dùng bài thuốc sẵn có trong địa bàn đã hình thành thói quen trong mỗi người dân trong ở từng địa bàn khi họ hoặc người thân gặp những tình huống tương tự. Chính thói quen dùng cây nhà lá vườn để chữa bệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân thuộc mỗi vùng dân cư khác nhau và mang dấu ấn của từng địa phương đó. Có thể nói rằng, ở mỗi vùng, trong mỗi con người đều chứa đựng một niềm tin sâu sắc vào những vị thuốc bài thuốc mà họ và những người quen của họ vẫn tin dù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 478.doc