Đồ án Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines

MỤC LỤC.

 

Lời nói đầu.

CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận chung về vốn lưu động của doanh nghiệp.

I. Khái quát chung về vốn của doanh nghiệp.

II. Vốn lưu động của doanh nghiệp.

1. Khái niệm vốn lưu động và phân loại vốn lưu động.

2. Cách xác định vốn lưu động.

3. Tầm quan trọng của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

III. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.

1. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu dự trữ.

2. Nhu cầu vốn lưu động cho khâu sản xuất.

3. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu lưu thông.

4. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu.

IV. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

1. Khái niệm về hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

a) Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.

b) Các chỉ tiêu phản ánh mức luân chuyển vốn lưu động.

V. Các biện pháp chung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn lưu động.

2. Một số biện pháp chung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

CHƯƠNG 2: Phân tích hình sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines ( VNA ).

I. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam.

1. Quá trình hình thành và phát triển.

2. Nhiệm vụ và quyền hạn của hãng.

3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý.

4. Tình hình hoạt động kinh doanh.

a) Phạm vi hoạt động.

b) Thuận lợi và khó khăn.

c) Một số chỉ tiêu đạt được của hãng trong một số năm gần đây.

II. Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam.

1. Tình hình sử dụng vốn lưu động.

a) Kết cấu vốn lưu động.

b) Phân bổ vốn lưu động.

c) Một số biến động của tài sản lưu động.

2. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của VNA.

3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của VNA.

a) Kết quả đạt được trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của VNA.

b) Một số hạn chế cần giải quyết.

CHƯƠNG3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam.

 Kết luận.

 

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu sản xuất. Làm thế nào để tiết kiệm vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn ở khâu dự trữ tồn kho, nghiên cứu các phương thức thanh toán hiện tại ở doanh nghiệp nhằm thu được tiền bán hàng một cách nhanh nhất, làm tăng tốc độ chu chuyển của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tầm quan trọng của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, được đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình sản xuất vì nó đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, đảm bảo cho sự vững chắc của tài sản cố định của doanh nghiệp. Thiếu vốn lưu động có nghĩa là không đủ tài sản lưu động, doanh nghiệp phải sử dụng đến tài sản cố định. Vốn lưu động là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm, giá trị của nó chuyển hóa toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Do vậy chi phí về vốn lưu động là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm sản xuất hay cung ứng ( dịch vụ ). Về cơ bản, doanh nghiệp đầu tư tiền vốn lưu động ban đầu để mua sắm vật tư sau đó tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ rồi thu lại chúng nhằm thu lại tiền vốn ban đầu bỏ ra và thu thêm được giá trị thăng dư phục vụ cho quá trình tái sản xuất. Vòng tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động diễn ra trong toàn bộ các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh nên việc quản lý vốn lưu động cũng giúp cho doanh nghiệp gần như quản lý được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các quyết định về quản lý vốn lưu động cũng chính là những quyết định tài chính ngắn hạn. nó liên tục tác động trực tiếp đến việc tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không. Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu vốn lưu động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp hiện nay để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời phục vụ cho các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động tham gia toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó được thu hồi toàn bộ giá trị sau mỗi chu kỳ sản xuất, vậy nếu quy mô sản xuất không thay đổi thì người ta chỉ phải ứng ra một lần cho toàn bộ nhu cầu. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xuất hiện khi hết chu kỳ sản xuất, doanh nghiệp bán sản phẩm của mình và thu được tiền. Trong tiền bán sản phẩm đã chứa đựng toàn bộ số tiền đã ứng ra ban đầu, số tiền đó lại được sử dụng ngay cho quá trình sản xuất tiếp theo. Cứ như thế vốn lưu động luân chuyển không ngừng, giá trị của nó luôn được bảo tồn. Tuy nhiên trên thực tế luôn luôn phát sinh ra các vấn đề như: một số các cơ sở mới bước vào hoạt động hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động phải thu hẹp sản xuất cũng như là việc chuyển sang sản xuất những sản phẩm khác do yêu cầu và đòi hỏi của thị trường Điều này làm nảy sinh ra vấn đề là cần phải xác định nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với một quy mô sản xuất đã định, người ta phải cần một lượng vốn lưu động đủ để đảm bảo cho nó. Đủ vốn lưu động có nghĩa là không thiếu và không thừa vốn lưu động. Nếu doanh nghiệp xác định một lượng vốn lưu động không đủ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, ngừng sản xuất sẽ gây ra sự lãng phí đáng kể về việc sử dụng lao động cũng như việc tận dụng máy móc, thiết bị. Nếu vốn lưu động xác định quá thừa so với nhu cầu thì có nghĩa là doanh nghiệp phải ứng ra một lượng vốn lớn mà qui mô sản xuất của doanh nghiệp không đòi hỏi như vậy, trong trường hợp này vốn lưu động bị ứ đọng nhiều trên tất cả các khâu, điều này gây ra lãng phí không cần thiết. Trong điều kiện vốn lưu động phải đi vay hoặc do phát hành trái phiếu thì một đồng vốn phải cõng thêm chi phí cho nó ( lãi suất ). Chắc chắn không có doanh nghiệp nào lại đi vay vốn để cất nó trong kho. Từ phân tích trên ta thấy sự cần thiết phải xác định cho được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường việc xác định nhu cầu vốn lưu động được xác định cho từng khâu và mỗi khâu lại xác định cho từng yếu tố vốn lưu động. Việc xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp được tiến hành ở ba khâu: _ Nhu cầu vốn lưu động cho dự trữ sản xuất. _ Nhu cầu vốn lưu động trong sản xuất. _ Nhu cầu vốn lưu động trong lưu thông. Sau khi đã xác định được nhu cầu về vốn lưu động cho cả ba khâu: dự trữ, sản xuất, lưu thông, tổng hợp lại ta sẽ có nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất. Trong khâu dự trữ sản xuất người ta phải xác định nhu cầu về nguyên liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng, nhiên liệu, và công cụ lao động nhỏ trên cở sở mức tiêu hao bình quân một ngày về giá trị các loại tài sản lưu động đó và thời gian dự trữ định mức của từng loại. Trong khâu này người ta phân làm ba loại dự trữ: Dự trữ thường xuyên: Là mức dự trữ nhằm đảm bảo sản xuất liên tục giữa hai kỳ cung cấp bình thường về mặt toán học. t0 T t1 t2 t3 t t4 q Mức dự trữ. tq Nếu gọi q: là lượng nguyên vật liệu tối đa một lần nhập trong kỳ. mlc: là lượng tiêu dùng bình quân một ngày đêm. tq: là số ngày giữa hai kỳ cung cấp kề nhau. Đm: là định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Pm: là định mức giá. Ta có: Mức luân chuyển vốn lưu động ( lượng tiêu dùng ) một ngày đêm: Lượng dự trữ thường xuyên tối đa một lần nhập trong kỳ là: Vấn đề đặt ra là làm sao tính được lượng nguyên vật liệu tối đa một lần nhập hay thời gian giữa hai kỳ cung cấp kề nhau hợp lý nhất, vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất vừa phải có chi phí dự trữ và bảo quản là thấp nhất. Để giải quyết vấn đề này ta phải có: _ T: thời gian của chu kỳ sản xuất tương ứng. _ R: nhu cầu nguyên vật liệu dự trữ trong kỳ. _ m: số lần nhập trong kỳ. Số lần nhập trong kỳ có thể tính được bằng công thức sau: Thời gian giữa hai kỳ cung cấp kề nhau hợp lý nhất là: Đồng thời nếu khoảng thời gian tq bắt đầu khi trong kho có q đơn vị nguyên vật liệu và khi kết thúc không còn dự trữ thì lượng nguyên vật liệu dự trữ trung bình trong thời gian tq là q/2. Gọi: C1 là chi phí cố định cho một lần nhập. C2 là chi phí để bảo quản và tổn thất mỗi lần nhập trong mộ đơn vị thời gian. C2 không thay đổi đối với một đơn vị dự trữ. Khi đó chi phí để bảo quản 1 nhóm nguyên vật liệu trong thời gian tq là: Dự trữ bảo hiểm: Là mức dự trữ nhằm phòng ngừa việc cung cấp bị gián đoạn bất thường. t Dự trữ bảo hiểm. t4 t3 t'2’ t2 t1 q’ q t0 Mức dự trữ. Mức dự trứ bảo hiểm được xác định theo công thức: Trong đó: _ Tbh: là thời gian dự trữ bảo hiểm. _ mbh: là mức dự trữ bảo hiểm Có hai phương pháp tính toán số ngày dự trữ bảo hiểm: _ Dựa vào số ngày cung cấp chậm chễ bình quân đã xảy ra ở những kỳ trước. _ Dựa vào số ngày cần thiết để báo tin cho người cung cấp đưa hàng tới, chuẩn bị đưa vào sản xuất. Dự trữ mùa vụ: được lập ra là do một số loại nguyên vật liệu có tính chất thời vụ về sản xuất, thu mua, chuyên trở và tiêu dùng. Có thể xác định mức dự trữ mùa vụ theo công thức tính sau: Trong đó: _ Tmv: là thời gian dự trữ mùa vụ định mức. _ mmv: là mức dự trữ mùa vụ. Tmv mmv t0 Có thể xác định thời gian dự trữ mùa vụ bằng công thức sau: _ tcc: là chu kỳ cung cấp bình quân của kỳ dự trữ. _ n: số các thời điểm cung cấp. _ kxk: hệ số xen kẽ trong cung ứng. Sở dĩ cần có hệ số xen kẽ kxk là do doanh nghiệp phải dự trữ rất nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau và mức dự trữ cho mỗi loại là cũng khác nhau. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn lớn nhất định để dự trữ mọi loại nguyên vật liệu cần thiết, nếu biết xen kẽ doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được vốn cho dự trữ. Nếu mức dự trữ xen kẽ cố định thì kxk= 0,5. Theo tính toán thường kxk= 0,7¸0,8. Nếu kxk= 0,7 thì giảm dự trữ, kxk= 0,8 là tăng dự trữ. _ tvc: thời gian vận chuyển, được tính bằng hiệu số giữa thời gian doanh nghiệp chuyển tiền và hàng về doanh nghiệp. _ tch: thời gian chỉnh lý, bằng hiệu số giữa hai thời điểm hàng thực tế về doanh nghiệp và nhập kho xong. _ tbh: thời gian bảo hiểm, là hiệu số của hai thời điểm hàng về doanh nghiệp và phải về doanh nghiệp theo hợp đồng. Nhu cầu vốn lưu động cho khâu sản xuất. Ở khâu sản xuất người ta phải xác định về nhu cầu vốn cho bán thành phẩm, vốn cho sản phẩm chưa hoàn thành và vốn cho chi phí trong chi phí chờ phân bổ. Căn cứ vào phí tổn cho sản xuất bình quân một ngày, độ dài chu kỳ sản xuất, hệ số sản phẩm đang chế tạo, số dư đầu kỳ về chi phí chờ phân bổ, chi phí chờ phân bổ phát sinh trong kỳ và chi phí chờ phân bổ trong kỳ. Vốn trong bán thành phẩm. _ Sntp: số lượng nửa thành phẩm tự chế mỗi ngày. _ Zntp: giá thành sản xuất mỗi đơn vị nửa thành phẩm. _ Tdt: thời gian dự trữ kế hoạch nửa thành phẩm. Vốn cho sản phẩm chưa hoàn thành. _ Cp: dự toán chi phí sản xuất kỳ kế hoạch. _ N1: số ngày theo lịch kỳ kế hoạch. _ Tck: độ dài chu kỳ sản xuất sản phẩm dở dang. _ Hsd: hệ số sản phẩm chưa hoàn thành. Việc xác định Hsd khó khăn phức tạp. Có các phương pháp xác định Hsd như sau: _ Đối với những doanh nghiệp mà phần lớn các chi phí sản xuất được đưa vào từ ngay những ngày đầu sản xuất, sau đó các chi phí còn lại được bỏ thêm vào một cách đều đặn ( điện năng, luyện kim, hoá ). + CP1: chi phí bỏ vào lần đầu tiên. + CP2: chi phí còn lại bỏ dần vào sản xuất. _ Trường hợp chi phí sản xuất từng ngày không đều nhau. + Plk: số luỹ kế chi phí sản xuất mỗi kỳ. + Cpn: chi phí sản xuất bình quân mỗi ngày. + Tck: chu kỳ sản xuất. Vốn trong chi phí chờ phân bổ: là những chi phí được chi ra một lần nhưng chưa tính vào giá thành sản phẩm mà phân bổ dần vào giá thành trong những kỳ sau. _ Pd: số dư đầu kỳ chi phí chờ phân bổ. _ Pkh: chi phí chờ phân bổ chi đầu kỳ. _ Ppb: chi phí chờ phân bổ sẽ phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ. Ngoài ra người ta còn xác định: vốn cho dụng cụ, phụ tùng thay thế, bao bì đóng gói Nhu cầu vốn lưu động trong khâu lưu thông. Trong khâu lưu thông người ta chỉ có thể xác định được nhu cầu của vốn thành phẩm dựa vào giá thành công xưởng của thành phẩm hàng hóa sản xuất bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch, số ngày hàng hóa nằm trong kho. Trong khâu này còn có các hình thức khác của vốn lưu động như: vốn trong thanh toán, vốn bằng tiền. Nhưng loại này chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khách quan, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì sự co giãn chúng lại càng rõ nét. Chính vì thế rất khó xác định chính xác nhu cầu của chúng. Trong đó: _ Mlcp: mức luân chuyển thành phẩm kỳ kế hoạch, hay tổng giá thành công xưởng kỳ kế hoạch. _ N1: số ngày của kỳ kế hoạch. _ Tdtp: thời gian dự trữ kế hoạch, được tính căn cứ vào số ngày cần thiết để dự trữ thành phẩm trong kho, số ngày chuyển từ kho ra cảng , số ngày quy định việc kết toán nhận tiền sau khi giao hàng. Vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu. Sau khi tính được các yếu tố của vốn lưu động định mức ở cả 3 khâu người ta tổng hợp lại để có được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu của năm kế hoạch. Từ đây so sánh với nguồn vốn lưu động định mức: vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, nợ định mức. Do đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, việc xác định nhu cầu thường xuyên, tối thiểu cần thiết của vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là một biện pháp quản lý quan trọng nhất đối với vốn lưu động. Tuy nhiên, do các yếu tố trên thị trường thường xuyên biến động, vốn lưu động cần phải được bảo toàn để có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất tiếp theo. Sự luân chuyển của vốn lưu động trên thực tế luôn chịu tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan làm cho vốn lưu động có khả năng thâm hụt. Các yếu tố này thường thể hiện là: hàng hóa bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất hoặc không phù hợp với nhu cầu của thị trường, sự rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh doanh bị lỗ kéo dài, nền kinh tế lạm phát làm cho giá cả tăng vọt, vốn lưu động trong thanh toán bị chiếm dụng, nợ nần dây dưa không được thanh toán. Vì lẽ đó, doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn vốn lưu động của mình nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi. Nghĩa là: đảm bảo số vốn cuối kỳ đẩm bảo đủ mua số lượng vật tư hàng hóa tương đương với đầu kỳ khi giá cả tăng lên. Có như vậy mới đảm bảo tái sản xuất giản đơn tài sản lưu động trong điều kiện quy mô sản xuất ổn định. Như vậy, kế hoạch vốn lưu động gồm hai phần: _ Kế hoạch về nhu cầu vốn lưu động định mức. _ Kế hoạch về nguồn vốn lưu động. Sau khi tính toán hai phần này ta so sánh chúng với nhau. Nếu thiếu vốn lưu động phải tìm nguồn vốn lưu động rẻ nhất, nếu thừa vốn lưu động phải mở rộng sản xuất. Tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Để đánh giá tình hình thanh toán của doanh nghiệp người ta căn cứ vào các khoản phải thu và các khoản phải trả của doanh nghiệp trên bảng cân đối tài sản. thông qua sự biến động của các khoản phải thu và các khoản phải trả để thấy được tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chiếm dụng vốn nhiều hơn hay doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều hơn, từ đó để thấy được khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp và tiềm lực kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Phân tích khả năng thanh toán là xem xét về khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc thanh toán các khoản nợ phải trả khi đến kỳ phải thanh toán hay khả năng hoán chuyển tiền mặt của doanh nghiệp. Vốn và các bộ phận cấu thành vốn cũng đưa ra tiêu chuẩn đánh giá khả năng hoán chuyển thành tiền của doanh nghiệp, nó cung cấp những manh mối liên quan đến sự xem xét liệu doanh nghiệp có thể trả được các khoản nợ đến hạn hay không? các chỉ số thanh toán là các chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá khả năng hoán chuyển thành tiền của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải luôn luôn giữ mức vốn luân chuyển để đảm bảo chi các khoản chi hợp lý, cần thiết, nhưng lại đảm bảo các khoản nợ đến hạn trả. Số vốn có cơ cấu và số lượng nói trên là số vốn luân chuyển của doanh nghiệp trong bảng cân đối kế toán. vốn này được tính như sau: Trong đó: _ Vốn thường xuyên: _ Nnh: Nợ ngắn hạn. _ Vlc: Vốn luân chuyển. _ GTSCD: Giá trị tài sản cố định. _ GTSLD: Giá trị tài sản lưu động. _ Nnh: Nợ ngắn hạn. _ Ndh: Nợ dài hạn. _ VCSH: Vốn chủ sở hữu. Vốn này đảm bảo cho các doanh nghiệp yên tâm sử dụng lâu dài. Nhưng có chú ý rằng đối với các doanh nghiệp nếu chỉ sử dụng giá trị của vốn luân chuyển để đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn thì chưa đủ. Vì vậy, cần phải sử dụng hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn của vốn luân chuyển. Các hệ số đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn là: Hệ số thanh toán ngắn hạn. Khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp cho biết mức độ các khoản nợ của chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của nó. Khả năng thanh toán ngắn hạn được đo bằng: ( lần ) Khả năng thanh toán ngắn hạn Kn được xem xét phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, cơ cấu tài sản lưu động, vòng quay vốn lưu động nói chung và từng yếu tố vốn lưu động nói riêng. Hệ số Kn ³ 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ và tình hình tài chính là khả quan. Hệ số thanh toán nhắn hạn có giá trị càng cao càng chứng tỏ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên nếu giá trị của hệ số thanh toán ngắn hạn quá cao thì điều này lại không tốt vì nó phản ánh việc doanh nghiệp đã đầu tư quá mức vào tài sản lưu động so với nhu cầu của doanh nghiệp. Và tài sản lưu động dư thừa không tạo nên doanh thu. Do vậy, nếu doanh nghiệp đầu tư quá đáng vốn của mình vào tài sản lưu động số vốn đó sẽ không được sử dụng có hiệu quả. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn được các chủ nợ chấp nhận là Kn = 2. Nhưng để đánh giá hệ số thanh toán ngắn hạn của một doanh nghiệp là tốt hay xấu thì ngoài việc dựa vào hệ số Kn còn phải xem xét 3 yếu tố sau: _ Bản chất ngành kinh doanh. _ Cơ cấu tài sản lưu động. _ Hệ số quay vòng của một số loại tài sản lưu động như: hệ số quay vòng các khoản phải thu của khách hàng, hệ số quay vòng hàng tồn kho, hệ số quay vòng vốn lưu động. Hệ số khả năng thanh toán nhanh. Khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( tồn kho ) mà là khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn ngay lập tức bằng các tài sản sẵn có. ( lần ) _ Knh: Hệ số khả năng thanh toán nhanh. _ T: Tiền. _ Inh: Các khoản đầu tư ngắn hạn. _ PT: Các khoản phải thu. Khả năng thanh toán tức thời. Chỉ tiêu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các đối tác kinh doanh mà hoạt động khan hiếm tiền mặt ( vòng quay vốn nhanh ). Các doanh nghiệp này cần thanh toán đúng hạn để hoạt động được bình thường. Doanh nghiệp rất quan tâm tới chỉ số này vì nó thể hiện toàn bộ số tiền mặt của doanh nghiệp có thể đảm bảo trả được bao nhiêu phần trăm số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp ngay lập tức. ( lần ) Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh để xét Kt. Nhưng trong thực tế cho thấy, hệ số Kt ³ 0,5 là tốt, tình hình thanh toán tương đối khả quan. Nếu Kt £ 0,1 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao thì kại phản ánh một tình trạng không tốt và vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Các tỷ số phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền mặt. Để phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền mặt doanh nghiệp, thường sử dụng các hệ số phản ánh năng lực hoạt động để đánh giá tốc độ chuyển đổi thành tiền mặt mặt của các khoản phải thu và hàng tồn kho, là hai bộ phận tạo thành phần chủ yếu của tài sản lưu động của doanh nghiệp. Hệ số quay vòng các khoản phải thu của khách hàng. Hệ số quay vòng các khoản phải thu của khách hàng thể hiện quan hệ giữa doanh thu bán chịu thuần với các khoản phải thu của khách hàng. Hệ số này phản ánh tốc độ luân chuyển các khoản phải thu của khách hàng, nghĩa là các khoản phải thu của khách hàng được thu bao nhiêu lần trong kỳ. ( lần ) Với: _ Số dư bình quân các khoản phải thu: _ H: Hệ số quay vòng các khoản phải thu của khách hàng. _ DTT: Doanh thu bán chịu thuần. _ SptDK: Số dư đầu kỳ các khoản phải thu của khách hàng. _ SptCK: Số dư cuối kỳ các khoản phải thu của khách hàng. Doanh thu thuần chỉ quyết toán trong một năm, số dư các khoản phải thu chuyển từ năm trước sang năm sau nên phải lấy số bình quân. Hệ số H càng cao càng chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu của khách hàng càng nhanh. Điều này nói chung là tốt vì như vậy doanh nghiệp sẽ không cần đầu tư nhiều vào các khoản phải thu. Tuy nhiên, nếu hệ số H quá cao có thể ảnh hưởng tới mức tiêu thụ vì H quá cao đồng nghĩa với kỳ hạn thanh toán ngắn, không hấp dẫn khách mua hàng. Số ngày thu tiền bình quân trong kỳ. Số ngày thu tiền bình quân trong kỳ phản ánh số ngày cần thiết bình quân để thu hồi các khoản phải thu trong kỳ. ( ngày ) Số ngày thu tiền bình quân trong kỳ sẽ có ý nghĩa hơn nếu được so sánh với kỳ hạn bán chịu của doanh nghiệp. Theo ngyuên tắc chung, kỳ thu tiền bình quân ở một doanh nghiệp không vượt quá số ngày của kỳ hạn thanh toán. Hệ số quay vòng hàng tồn kho. Hệ số quay vòng hàng tồn kho phản ánh mối quan hệ giữa khối lượng hàng hóa dự trữ trong kho. Hệ số này thể hiện số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân được bán trong kỳ. Độ dài thời gian hàng hóa trong kho ảnh hưởng đến vốn luân chuyển. ( lần ) Với: _ Giá trị hàng tồn kho bình quân: _ Hk: Hệ số quay vòng hàng tồn kho. _ GV: Giá vốn hàng bán. _ ShtDK: Số dư hàng tồn kho đầu kỳ. _ ShtCK: Số dư hàng tồn kho cuối kỳ. Nói chung, hệ số quay vòng hàng hóa tồn kho cao thì doanh nghiệp được đánh giá là hoạt động có hiệu quả, đã giảm được vốn đầu tư cho hàng hóa dự trữ, rút ngắn được chu kỳ chuyển đổi hàng dự trữ thành tiền mặt và giảm bớt nguy cơ hàng hóa tồn kho trở thành hàng ứ đọng. Tuy nhiên, nếu hệ số quay vòng hành tồn kho quá cao có thể dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp không đủ hàng hóa thoả mãn nhu cầu bán hàng, dẫn tới tình trạng cạn kho, mất khách hàng. Và điều này có thể gây ảnh hưởng không tốt cho việc kinh doanh về lâu dài của doanh nghiệp. Hệ số quay vòng hàng tồn kho thấp cho thấy sự tồn kho quá mức hàng hóa, làm tăng chi phí một cách lãng phí. Sự quay vòng hàng hóa tồn kho chậm có thể đặt doanh nghiệp vào tình thế khó khăn về tài chính trong tương lai. Số ngày bình quân một vòng quay kho. Số ngày bình quân một vòng quay kho phản ánh độ dài của thời gian dự trữ hàng hóa và sự cung ứng hàng dự trữ cho số ngày ấy. ( ngày ) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Bất kỳ một hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và kinh doanh nói riêng đều mong muốn đạt được kết quả hữu ích nào đó. Nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi vậy họ phải quan tâm đến việc với khả năng hiện có làm sao để có thể tạo ra được nhiều sản phẩm nhất. Từ đó nảy sinh vấn đề là phải lựa chọn, xem xét cách nào để đật được hiệu quả cao nhất. Khi tiến hành đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở các kết quả mà phải đánh giá cả chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm đó. Do vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực xã hội để đạt kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực là thấp nhất. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào lợi nhuận cũng là mục tiêu cao nhất. Để thực hiện mục tiêu này các doanh nghiệp phải chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cách thức đo lường chính xác nhất, thể hiện rõ nhất hiệu quả đó là thước đo tiền tệ để lượng hóa các đầu vào và đầu ra, đánh giá mối quan hệ giữa chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bằng thước đo tiền tệ gọi là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là quan hệ giữa đầu vào và đầu ra hay là quan hệ giữa toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh với chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh đó. Vốn lưu động là nhân tố gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp luôn tìm mọi biện pháp để sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao nhất. Do đặc thù riêng của vốn lưu động là vận động không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, các hình thái vốn lưu động là vô cùng phức tạp và khó quản lý. Sử dụng tốt vốn lưu động ảnh hưởng nhiều đến kết quả thu nhập của doanh nghiệp và sự cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời do đặc điểm của nền kinh tế thị trường tác động đến sự vận động của vốn lưu động cho nên vấn đề nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn được mọi doanh nghiệp quan tâm. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục đích của mình thì phải thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong khi đó yếu tố tác động có tính chất quyết định là hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Mặt khác, do phụ thuộc vào yếu tố khách quan và chủ quan nên hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Trong cơ chế cũ, doanh nghiệp Nhà nước coi nguồn cấp phát từ ngân sách Nhà nước đồng nghĩa với “ cho không “ nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp gây ra tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sử dụng dẫn đến lãng phí và thất thoát rất lớn. Theo số liệu thống kê cho thấy vốn sản xuất kinh doanh trong khu vực quốc doanh không nhiều, hiệu quả sử dụng thấp. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh là quy luật của thị trường. Nó cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp nghiệp và của toàn xã hội vì nó buộc phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để có thể thắng được trên thị trường và nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Bởi vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của mình. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp sẽ đảm bảo được việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục được rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không những nâng cao mức sống cho người lao động, tạo công ăn việc làm nhờ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả đóng góp cho xã hội, đồng thời nó cũng làm tăng các khoản nộp ngân sách. Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8436.doc
Tài liệu liên quan