Đồ án Tìm hiểu về lý luận và hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ 3

1.1. Bản chất, vai trò của kiểm toán nội bộ 3

1.1.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ 3

1.1.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ 6

1.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 7

1.2.1. Ý nghĩa, nguyên tắc và nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán 7

1.2.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 9

1.3. Kinh nghiệm tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ ở các nước trên thế giới 17

Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LÝ LIÊN QUAN TỚI TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 20

2.1. Hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 20

2.2. Đánh giá về hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam 22

Chương 3: BÀI HỌC CÁ NHÂN 26

3.1. Bài học kinh nghiệm rút ra qua việc tìm hiểu lý luận và hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam 26

3.2. Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp lý cho tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tạiViệt Nam 28

3.3. Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp lý cho kiểm toán nội bộ Việt Nam 28

KẾT LUẬN 30

 

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Trang

 

Sơ đồ 1.1: Tổ chức bộ máy KTNB theo lĩnh vực kiểm toán 12

Sơ đồ 1.2: Tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình song song 13

Sơ đồ 1.3: Tổ chức bộ máy KTNB theo khu vực địa lý 14

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1920 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu về lý luận và hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được quyết định trước hết bởi số lượng và chất lượng đội ngũ KTV. Đó cũng là nguyên lý chung cho việc tổ chức mọi hệ thống bộ máy. Hơn nữa, hoạt động kiểm toán lại có chức năng đặc biệt nên càng đòi hỏi cao với KTV cả về năng lực chuyên môn và phẩm hạnh đạo đức. Vì vậy, bất cứ ở đâu, trong phạm vi quốc gia hay quốc tế, và bất cứ lúc nào, các tổ chức kiểm toán đều coi trọng việc xây dựng đội ngũ KTV. Mặt khác, kiểm toán lại bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ chức cụ thể cũng có những điểm khác nhau về nội dung và phương pháp kiểm toán cụ thể và từ đó cả về tổ chức kiểm toán. Vì vậy, xây dựng đội ngũ KTV cũng đòi hỏi những yêu cầu riêng biệt thích ứng với từng loại hình, từng bộ máy kiểm toán. Hai là, hệ thống bộ máy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa đựng các mối liên hệ trong – ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung của lý thuyết tổ chức và phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ. Mục tiêu của tổ chức là tạo ra mối liên hệ theo một trật tự xác định. Trong kiểm toán, trật tự này được xác định khác nhau do quan hệ giữa các mục tiêu kiểm toán khác nhau với các khách thể kiểm toán khác nhau. Mỗi khách thể, mỗi chủ thể này lại có nhiều mối liên hệ khác nhau ngoài kiểm toán. Trong việc xử lý hàng loạt mối liên hệ phức tạp này cần phải có phương pháp luận biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, giữa cái chung và cái riêng, giữa cái mới và cái cũ. Ba là, tổ chức bộ máy kiểm toán phải quán triệt nguyên tắc chung của mọi hệ thống tổ chức bộ máy: tập trung, dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán. Nguyên tắc tập trung – dân chủ do Lenin đề xướng trong việc xây dựng Đảng Cộng sản và được phát triển ứng dụng trong mối quan hệ giữa khách thể - chủ thể - môi trường kiểm toán. Ở từng phân hệ kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển, mối liên hệ khách thể - chủ thể có những điểm khác nhau song đều được tổ chức và hoạt động trong mỗi Nhà nước cụ thể với một nguyên tắc tổ chức cụ thể: Nhà nước của dân, do dân và vì dân. 1.2.1.3. Nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán Từ ý nghĩa, nguyên tắc của tổ chức bộ máy kiểm toán, có thể thấy nhiệm vụ cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán là xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình và mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống bộ máy kiểm toán – kiểm toán viên. 1.2.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ KTNB là một loại hình kiểm toán. Do đó, việc tổ chức bộ máy KTNB cũng tuân theo các nguyên tắc tổ chức bộ máy kiểm toán nói chung. Bộ máy KTNB là hệ thống tổ chức của các KTV do đơn vị tự lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cương quản lý. Người thực hiện KTNB là những KTV trong đơn vị hoặc các chuyên gia (giám định viên kế toán) từ bên ngoài. Từ đó có thể có 2 mô hình cơ bản là Hội đồng hay bộ phận KTNB và giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nước). 1.2.2.1. Hội đồng hay bộ phận kiểm toán nội bộ Trong mô hình tổng quát này, bộ máy KTNB có thể được tổ chức theo ba mô hình cụ thể như sau: Mô hình thứ nhất: Ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT. Ủy ban kiểm toán gồm từ 3 – 5 thành viên, giúp việc cho ủy ban kiểm toán là bộ phận KTNB. KTNB là bộ phận trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của ủy ban kiểm toán. Mô hình này thường được áp dụng đối với những tập đoàn kinh tế đã được niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đây là mô hình phổ thông và tối ưu nhất. Mô hình này đảm bảo tính độc lập, khách quan và có quyền lực cao trong công tác kiểm toán. Thông qua ủy ban kiểm toán, HĐQT sẽ thực hiện có hiệu quả trách nhiệm quản lý, giám sát công tác tài chính – kế toán trong tập đoàn. Nhược điểm của mô hình này là do HĐQT của tập đoàn hoạt động theo định kỳ và thường xuyên chỉ đưa ra các quyết sách lớn, không trực tiếp điều hành hoạt động SXKD của tập đoàn. Vì lẽ đó, kết quả kiểm toán trình lên HĐQT thường xử lý chậm, làm giảm tính hiệu quả cho hoạt động kiểm toán. Mô hình thứ hai: Bộ phận KTNB trực thuộc ban kiểm soát. Ưu điểm của mô hình này là bộ phận KTNB trực thuộc ban kiểm soát thuộc HĐQT đảm bảo được tính độc lập cao cho hoạt động kiểm toán. Ban kiểm soát có công cụ đủ mạnh để thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của pháp luật và điều lệ của tập đoàn. Tuy nhiên, tính quyền lực, tính hiệu quả, kịp thời của KTNB không cao như mô hình thứ nhất do bộ phận KTNB trực thuộc ban kiểm soát giúp việc cho HĐQT. Mô hình thứ ba: Bộ phận KTNB trực thuộc tổng giám đốc. Ưu điểm của mô hình này là đảm bảo sự độc lập và tính quyền lực của hoạt động KTNB với những đối tượng được kiểm toán. KTNB có điều kiện thường xuyên tiếp cận, phát hiện các sai phạm trong hoạt động SXKD của đơn vị để tư vấn cho đối tượng được kiểm toán và báo cáo cho tổng giám đốc có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời. Hạn chế của mô hình này là do tổng giám đốc là người trực tiếp điều hành các hoạt động SXKD của đơn vị trong khi KTNB là bộ phận giúp việc cho tổng giám đốc kiểm tra, đánh giá hoạt động SXKD nên có những ảnh hưởng nhất định đến tính độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của bộ phận KTNB. Về cơ cấu tổ chức bộ máy KTNB: Nếu phân chia theo cách thức tổ chức bộ máy thực hiện kiểm toán, bộ máy KTNB được tổ chức theo những cách thức sau đây: Thứ nhất: Tổ chức bộ máy KTNB theo lĩnh vực kiểm toán. Mô hình tổ chức bộ máy KTNB theo cách này dựa trên thực tế là các KTVNB “độc lập” sẽ làm việc hiệu quả nhất khi được giao trách nhiệm kiểm soát hoạt động một loại nghiệp vụ riêng biệt của công ty. Thực hiện theo cách này, bộ máy KTNB thực hiện chuyên môn hóa theo loại nghiệp vụ cụ thể khi kiểm toán. Nếu một công ty có quy mô lớn, gồm nhiều đơn vị thành viên hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau thì việc tổ chức các nhóm KTVNB kiểm toán theo nghiệp vụ giống nhau sẽ mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, bộ máy KTNB có thể đạt được hiệu năng trong quản lý. Mô hình tổ chức bộ máy KTNB được khái quát theo sơ đồ sau: Kiểm toán trưởng Trợ lý kiểm toán trưởng KTV phụ trách nghiệp vụ B KTV phụ trách nghiệp vụ C KTV phụ trách nghiệp vụ A Sơ đồ 1.1: Tổ chức bộ máy KTNB theo lĩnh vực kiểm toán Tổ chức bộ máy theo mô hình này, nhược điểm lớn là không thể tránh khỏi sự trùng lặp trong thực hành kiểm toán ở các đơn vị khác nhau, dẫn tới chi phí đi lại tăng thêm, lãng phí thời gian… đặc biệt là nếu công ty gồm nhiều đơn vị thành viên hoạt động phân tán về địa lý hay hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Nhược điểm thứ hai là tiến hành kiểm toán theo loại nghiệp vụ sẽ không đem lại hiệu quả cao như trong trường hợp kết hợp kiểm toán các loại nghiệp vụ khác nhau. Bên cạnh đó, việc thực hiện chuyên môn hóa công việc kiểm toán theo lĩnh vực cho KTV có thể ảnh hưởng tới khả năng chuyên môn, sự tiến bộ trong nghề nghiệp, sự hiểu biết của KTV… Tuy nhiên, theo cách kết hợp có thể ảnh hưởng tới khả năng chuyên môn của KTVNB trong loại hình nghiệp vụ hay lĩnh vực hoạt động cụ thể vì KTVNB thường thực hiện các thủ tục kiểm tra ở cấp thấp, sau đó mới hướng tới xem xét các vấn đề quản lý rộng hơn. Như vậy, phân tích trên đây chỉ rõ việc sử dụng mô hình cách tiếp cận theo lĩnh vực kiểm toán phải đảm bảo sự thận trọng thích đáng. Trong những trường hợp không chắc chắn, tổ chức bộ máy KTNB nên có sự lựa chọn kết hợp. Thứ hai, tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình song song. Trong một DN quy mô lớn và có nhiều lĩnh vực hoạt động, tổ chức bộ máy KTNB phổ biến nhất là giao trách nhiệm cho KTVNB theo những “ngành” hoạt động (hẹp) như tổ chức của công ty. Theo cách này, bộ máy KTNB có thể có những KTVNB cá biệt hay nhóm KTVNB giao cho ngành nghề hoạt động đặc thù và sắp xếp nhân sự cho các bộ phận trong công ty. Nếu mỗi bộ phận cấu thành đơn vị này được chuyên môn hóa theo “ngành”, các KTVNB ở ngành này có thể đạt được những ưu thế đặc biệt về lĩnh vực chuyên môn kể cả các hoạt động nghiệp vụ riêng biệt. Mô hình tổ chức bộ máy KTNB song song giúp cho các KTVNB có thể phát triển mối quan hệ công tác với nhà quản lý (phụ trách ở tất cả các cấp) tốt hơn, đặc biệt là ở “ngành” hoạt động mà KTV này phụ trách. Tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình song song được khái quát theo sơ đồ sau: Kiểm toán trưởng Trợ lý kiểm toán trưởng KTV phụ trách ngành A KTV phụ trách ngành C KTV phụ trách ngành B Sơ đồ 1.2: Tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình song song Tuy nhiên, cách thiết lập này cũng có những hạn chế tương tự như trường hợp thứ nhất vì bản chất của cách này vẫn là tạo ra sự chuyên môn hóa trong công việc kiểm toán. Ngoài ra, theo cách tổ chức này, KTV có thể đạt được những mối quan hệ đặc biệt với nhân viên trong ngành, trong tổ chức hay trong đơn vị được phụ trách kiểm toán hoặc người có thẩm quyền. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập và khách quan của KTV trong đơn vị được kiểm toán. Bên cạnh đó, vấn đề bố trí nhân sự và số lượng nhân viên kiểm toán cũng đặt ra với mô hình tổ chức này vì quy mô và tính đa dạng trong hoạt động kinh doanh. Thứ ba, tổ chức bộ máy KTNB theo khu vực địa lý. Trong cách thức tổ chức bộ máy KTNB theo khu vực địa lý, một KTVNB riêng biệt hoặc một nhóm KTVNB sẽ thực hiện kiểm toán tất cả các hoạt động, nghiệp vụ của công ty ở một khu vực địa lý nhất định. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, cách tổ chức này có thể chuyển sang mô hình thứ nhất. Trong trường hợp khác, cách tổ chức này có thể tự điều chỉnh và trở thành mô hình thứ hai. Chính vì vậy, cách tổ chức này có ưu điểm, nhược điểm như hai cách tổ chức đầu tiên. Tuy nhiên, đây là cách tổ chức được đánh giá tốt nhất và là loại hình tổ chức được sử dụng nhiều nhất trong KTNB trong thực tế kiểm toán ở các nước có hoạt động KTNB phát triển. Mô hình tổ chức bộ phận KTNB theo khu vực địa lý được khái quát trong sơ đồ sau: Kiểm toán trưởng Trợ lý kiểm toán trưởng KTV KTV KTV KTV KTV KTV Phụ trách khu vực A Phụ trách khu vực B Phụ trách khu vực C Sơ đồ 1.3: Tổ chức bộ máy KTNB theo khu vực địa lý Thứ tư, tổ chức bộ máy KTNB sử dụng nhân viên ở trụ sở Đây là mô hình tổ chức bộ phận KTNB trong đó bộ phận KTNB được tổ chức theo một trong ba mô hình trên và kết hợp với một vài tổ chức ở trụ sở (trung tâm). Trong trường hợp này, “trung tâm” sẽ có ít nhất một trưởng phòng KTNB (hoặc kiểm toán trưởng hay người phụ trách bộ phận KTNB) và thư ký. Việc tăng số nhân viên tham mưu tùy theo công việc ủy nhiệm cho các bộ phận cấu thành ngành đó và tùy theo những loại dịch vụ mà bộ phận KTNB trung tâm cung cấp. Theo cách này, hầu hết các báo cáo kiểm toán được xem xét và xử lý ở cấp lãnh đạo trung tâm. Trong những tình huống cần thiết, một hình thức chuyên môn đặc biệt sẽ được áp dụng là sử dụng nhân viên chức năng đặc biệt. Những nhân viên này có trình độ chuyên môn trong một số lĩnh vực đặc biệt có liên quan tới hoạt động kiểm toán và sẵn sàng trợ giúp cho hoạt động này khi cần thiết. Thông thường, những nhân viên này ở bộ phận KTNB trung tâm. Khi sử dụng nhân viên chức năng đặc biệt cần có sự phê chuẩn của cấp lãnh đạo kiểm toán trung tâm. Trong một cách phân loại tổ chức bộ máy kiểm toán khác, bộ máy KTNB có thể tổ chức theo mô hình tập trung hay phân tán. Phần lớn các trường hợp tổ chức bộ phận KTNB, các KTV có biên chế KTNB đều ở chỉ huy trung tâm (tại công ty mẹ mà không phải đặt tại các đơn vị thành viên). Mô hình này là mô hình tập trung. Theo mô hình này, KTVNB thường xuyên phải di chuyển từ trung tâm tới các địa điểm khác nhau để thực hiện kiểm toán. Vì vậy, chi phí phục vụ cho hoạt động kiểm toán thường cao và gây lãng phí thời gian. Ngoài ra, KTV có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện khác nhau trong thực hiện kiểm toán. Sự sắp xếp đặc biệt trong mô hình tập trung là đặt bộ phận kiểm toán tại một địa điểm thuận lợi mà không phải là trụ sở công ty. Với mô hình tổ chức bộ phận KTNB phân tán, KTVNB có thể được giao về cho các đơn vị thành viên. Về mặt lý thuyết, mô hình này có thể thực hiện được, nhưng trên thực tế khó có thể tổ chức được mô hình như vậy vì giới hạn về chi phí cho tổ chức, số lượng nhân viên kiểm toán, kiểm soát hoạt động kiểm toán… Tuy nhiên, một cách tổ chức phân tán được áp dụng là bộ phận KTNB có thể tổ chức các văn phòng KTNB theo từng khu vực. Theo đó, nhân viên kiểm toán có thể được chỉ định làm việc tại các văn phòng KTNB ở các khu vực. Vì những đặc điểm vận dụng tốt hơn mô hình này so với mô hình tổ chức KTVNB phân tán ở các đơn vị thành viên nên mô hình tổ chức kiểm toán theo khu vực có thể bị cường điệu hóa. Do đó, khi lựa chọn mô hình này, nhà quản lý cần suy xét thận trọng. Những ưu điểm của cách tổ chức này là có thể giảm thời gian và chi phí cho các chuyến đi kiểm toán, thuận tiện cho hoạt động cá nhân của KTV, phục vụ tốt hơn các nghiệp vụ của công ty trong khu vực địa lý do văn phòng ở địa bàn phụ trách, thúc đẩy KTVNB phục vụ tốt hơn đối với đơn vị quản lý. Tuy nhiên, những nhược điểm của tổ chức bộ phận KTNB theo mô hình này gặp phải là chi phí phát sinh thêm để duy trì văn phòng kiểm toán tại địa bàn, mất tính khách quan vì mối quan hệ của KTV với nhân viên ở địa bàn kiểm toán, tình trạng thiếu kiểm soát đầy đủ, khó khăn trong duy trì chuẩn mực đồng đều cho cả công ty có quy mô lớn. Về quan hệ giữa bộ phận KTNB với các bộ phận khác trong doanh nghiệp: Trước hết, công việc của KTNB phải tách ra khỏi các nghiệp vụ hàng ngày của DN. Bên cạnh đó, KTNB phải được tổ chức một cách khoa học, hợp lý để KTVNB không lấn át vai trò, trách nhiệm của các bộ phận hay cá nhân khác. KTVNB phải chịu trách nhiệm thực hiện các công việc mà họ thông thạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc trưng này thể hiện tính chất thông tin hay tham vấn trong kết luận của KTVNB. Tuy nhiên, trên thực tế thì sự trùng lặp trong thực hiện vai trò, trách nhiệm của KTVNB với các bộ phận khác là không thể tránh khỏi. Mỗi bộ phận khác nhau trong mỗi tổ chức đều phải thực hiện một nhiệm vụ được giao với trách nhiệm và nỗ lực cao nhất. Do đó, bộ phận KTNB sẽ thực sự độc lập với các hoạt động, bộ phận được kiểm toán khi bộ phận này thực sự tách biệt với các bộ phận nghiệp vụ và những nhân viên chức năng như tài chính, marketing, sản xuất… Mặt khác, bộ phận KTNB phải trực thuộc một cấp quản lý đủ cao để không bị giới hạn phạm vi hoạt động. 1.2.2.2. Giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nước) Giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nước) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp nhà nước và các DN có quy mô nhỏ. Trong trường hợp này, người thực hiện công việc kiểm toán có thể là KTV chuyên nghiệp (hành nghề), thậm chí ở một số nước trong các xí nghiệp công và DN nhà nước được biên chế trong bộ máy KTNN. Mô hình này rất thích hợp với các xí nghiệp công, các DN có quy mô nhỏ không cần biên chế KTVNB. Nó phát huy được thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi. Tuy nhiên, trong trường hợp này chi phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên. Mặt khác, công việc KTNB cũng do số ít chuyên gia có trình độ cao đảm nhiệm nên cần chú trọng đảm bảo tính khách quan, trung thực của KTV bằng các phương pháp bổ sung như kiểm tra chéo, định kỳ thay đổi nơi làm việc của KTV, tăng cường trách nhiệm của kiểm tra bên ngoài… 1.3. Kinh nghiệm tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ ở các nước trên thế giới Trên thế giới, KTNB đã có lịch sử tồn tại và phát triển hơn 60 năm và được thừa nhận ở trên 165 quốc gia như một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp. Cùng với sự phát triển năng động và ngày một phức tạp của các nền kinh tế, vai trò và chức năng của KTNB trong việc đưa ra đảm bảo về việc đơn vị có thể kiểm soát một cách hữu hiệu rủi ro đã dần được công nhận trong tất cả các khu vực kinh tế công, kinh tế tư nhân và cả các tổ chức phi lợi nhuận. So với KTNN và KTĐL thì KTNB ra đời muộn hơn. Từ những năm 1940, khi các DN được tổ chức với quy mô lớn mới xuất hiện khái niệm KTNB. Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các DN, tầm quan trọng của KTNB cũng lớn mạnh một cách tương ứng, làm cho nó trở thành yếu tố chính trong việc thiết lập hệ thống kiểm soát và kiểm tra nội bộ. Hoạt động KTNB ở Hoa Kỳ được phát triển sớm nhất và được xem là hoạt động KTNB có kinh nghiệm trên thế giới. Viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ là một trong những tổ chức tiên phong và có uy tín nhất trên thế giới trong việc định hướng và đặt ra khuôn khổ hoạt động cho KTNB. Bộ máy KTNB ở Hòa Kỳ có những đặc điểm chính sau đây: Thứ nhất, KTNB được tổ chức ở các công ty lớn, các công ty xuyên quốc gia, các thể chế tài chính; Thứ hai, chính phủ không đưa ra bất cứ một yêu cầu pháp lý nào đối với KTVNB. Việc tuyển dụng KTVNB phụ thuộc vào quyết định của HĐQT. Tuy nhiên, các tổ chức nghề nghiệp lại ban hành các tiêu chuẩn kể cả cấp chứng chỉ hành nghề cho KTVNB. Thứ ba, KTNB được quy định trong các văn bản pháp lý có liên quan. Trước năm 2002, chính phủ không bắt buộc các công ty phải tổ chức KTNB, nhưng việc thực hiện KTNB phải dựa trên cơ sở chuẩn mực thực hành KTNB chuyên nghiệp do IIA ban hành. Tuy nhiên, sau một số vụ bê bối tổ chức của các công ty, Luật Sarbanes – Orley ra đời, theo đó quy định các công ty niêm yết phải báo cáo về tính hiệu lực của hệ thống KSNB trên cơ sở kết quả KTNB. Đây là văn bản pháp lý quy định mang tính bắt buộc các DN niêm yết phải thực hiện KTNB. Chức năng KTNB đã chính thức xuất hiện năm 1960 tại Cộng hòa Pháp trong các công ty chi nhánh của các tập đoàn kinh doanh ngoại quốc. Tiếp đó, các công ty khác (đặc biệt là trong ngân hàng và Vụ tổng thanh tra) cũng định ra những chức năng kiểm toán tương tự như chức năng KTNB. KTNB phát triển cùng với sự mở rộng quy mô của các công ty. Bộ máy KTNB tại Cộng hòa Pháp có những điểm chính như sau: Thứ nhất: KTNB trực thuộc ban giám đốc của DN mà cụ thể là chịu sự điều hành và quản lý trực tiếp của tổng giám đốc, giám đốc; Thứ hai: Nhà nước thường không có bất cứ sự can thiệp nào vào quá trình hình thành cũng như hoạt động của bộ phận KTNB; Thứ ba: Việc xây dựng bộ phận KTNB thường dựa trên cơ sở quy mô lao động trung bình tại đơn vị, với mức trung bình là 1000 lao động sẽ có một KTVNB. Ở một số nước châu Á, KTNB ra đời muộn hơn nhiều so với Mỹ và châu Âu. Nó mới chỉ xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ XX nhưng đã phát triển rất nhanh chóng. Một số nước châu Á phát triển mô hình KTNB theo mô hình của Mỹ như Thái Lan, Singapo, Hàn Quốc… Trong khi đó, lại có quốc gia phát triển mô hình KTNB trong hệ thống KSNB như Nhật Bản. Đặc điểm chung của KTNB ở các quốc gia này là nhà nước cũng chưa có quy định cụ thể nào bắt buộc các công ty phải tổ chức KTNB. Thực tế tại một số nơi cho thấy, bộ máy KTNB được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này, bộ phận KTNB chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ cơ quan KTNN. KTVNB được KTNN đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy có những ưu điểm sau: Một là: Thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động KTNB trong các cơ quan và tổ chức kinh tế nhà nước. Hai là: Việc KTNN đứng ra đào tạo đội ngũ KTVNB tạo ra được một tiêu chuẩn chung cho đội ngũ KTV. Ba là: Công tác KTNB sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất. Bốn là: KTNB sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho cơ quan KTNN khi thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong trường hợp bộ máy KTNN mới hình thành với số lượng KTV còn ít so với nhu cầu thực tế. Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LÝ LIÊN QUAN TỚI TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 2.1. Hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam KTNB là một công cụ kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu phục vụ cho quản lý, điều hành hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của đơn vị. Hoạt động của KTNB góp phần phát hiện, cảnh báo và ngăn chặn thất thoát, lãng phí các nguồn lực, đưa ra các kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung, cải tiến các hoạt động của đơn vị; đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu lực và hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của đơn vị. Trên thế giới, KTNB được xem là một chức năng quản lý và đã có lịch sử phát triển lâu dài, đã trở thành một nghề nghiệp được công nhận trong xã hội. KTNB tồn tại ở hầu hết các tổ chức, đơn vị có sử dụng, quản lý mọi nguồn lực kinh tế với quy mô lớn và hoạt động tương đối phức tạp. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập KTNB trong các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương định hướng cho việc tổ chức KTNB. Cùng với quy định về việc thành lập KTĐL và KTNN, KTNB Việt Nam đã bước đầu hình thành và phát triển. Quá trình hình thành và phát triển của KTNB ở Việt Nam được khởi đầu bằng việc ra đời các văn bản pháp lý, hành lang khuôn khổ pháp luật do cơ quan quản lý nhà nước về KTNB ban hành. Đứng trước những nhu cầu biến đổi có tính chất cách mạng trong cơ chế quản lý kinh tế khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, năm 1989, Bộ Tài chính đã kết hợp với một số ban ngành hữu quan ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước và Điều lệ kế toán trưởng kèm theo Nghị định Số 26 – HĐBT ngày 18/03/1989 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau đó, Nghị định Số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ ban hành quy chế về KTĐL trong nền kinh tế quốc dân. Tiếp đến, ngày 03/10/1996, Nghị định 59/CP về “Quy chế Quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước” ra đời. Thi hành Nghị định 59/CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn trong đó có Thông tư 73 – TC/TCDN ngày 12/11/1996 về “Hướng dẫn lập, công bố công khai và kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra kế toán các doanh nghiệp Nhà nước”. Theo thông tư này, báo cáo tài chính hàng năm của DN Nhà nước phải được kiểm tra, xác nhận của KTĐL hoặc KTNB. Như vậy, quy định này đã bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của KTNB. Theo tinh thần của các văn bản trên, các văn bản pháp lý liên quan tới KTNB ra đời, trong đó có các văn bản quy định, hướng dẫn về việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DN Nhà nước. Ở Việt Nam, KTNB được xem là chính thức hình thành vào năm 1997, thời điểm Bộ Tài chính ban hành “Quy chế kiểm toán nội bộ” theo Quyết định Số 832 – TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Điều 3 của Quyết định này chỉ rõ DN phải thường xuyên tổ chức KTNB nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của DN; về chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước, cũng như các nghị quyết, quyết định của HĐQT, ban giám đốc DN đối với hoạt động của DN. Văn bản này quy định mang tính chất bắt buộc phải tổ chức KTNB đối với các DN. Quyết định 832 còn nêu lên nhiệm vụ, chức năng của KTNB là “kiểm tra, xác nhận và đánh giá” (điều 6), những quy định về nội dung, trình tự, phương pháp của KTNB, quy định về KTVNB và tổ chức bộ máy KTNB (chương I, chương II của Quyết định này). Cũng theo Quyết định 832 thì các Tổng công ty Nhà nước tổ chức thực hiện KTNB của Tổng công ty và từng công ty thành viên. Quyết định 832 đánh dấu sự xuất hiện của KTNB trong DN, đồng thời là cơ sở pháp lý cho tổ chức bộ phận KTNB trong DN. Sau Quyết định 832, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 52/1998/TT/BTC ngày 16/04/1998 hướng dẫn tổ chức bộ máy KTNB tại các DN Nhà nước. Theo Thông tư này, các DN phải tổ chức bộ phận (phòng) KTNB. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Thông tư này có nhiều vấn đề bất cập cả trong tổ chức bộ máy kiểm toán và trong thực hiện kiểm toán. Thực tế, các DN đã không thực hiện triệt để Thông tư 52. Khắc phục những điểm chưa phù hợp của Thông tư 52, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 171/1998 – TT/BTC ngày 22/12/1998 hướng dẫn thực hiện KTNB các DN Nhà nước thay thế Thông tư 52. Thông tư này cùng với Quyết định 832 là cơ sở quan trọng cho việc thành lập KTNB trong các Tổng công ty Nhà nước cũng như cung cấp cơ sở cho việc tổ chức bộ máy kiểm toán cùng những vấn đề có liên quan khi thực hiện KTNB. 2.2. Đánh giá về hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam Việc ra đời các văn bản pháp lý là cơ sở đầu tiên cho việc thiết lập bộ máy KTNB trong các DN Nhà nước. Thứ nhất: Về bộ máy KTNB Tại Chương 4 – Quyết định 832, Khoản 1 Điều 16 – Bộ máy KTNB quy định “các doanh nghiệp phải có tổ chức bộ máy KTNB để thực hiện công tác KTNB trong doanh nghiệp. Bộ máy KTNB trong doanh nghiệp được tổ chức thành phòng, ban hoặc nhóm, tổ công tác trực thuộc (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp”. Cụ thể hóa vấn đề này, trong Mục 1 – A Quy định chung trong Thông tư 52 có nêu: “Tất cả các doanh nghiệp Nhà nước bao gồm: Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích, các Tổng công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp hạch toán độc lập khác nhau đều phải tổ chức bộ máy KTNB đủ năng lực để thực hiện công tác KTNB theo quy định tại Quyết định 832 – TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính”. Như chúng ta đã biết, KTNB ra đời là một nhu cầu tất yếu, tự thân và vai trò của nó trong bộ máy quản lý của DN là rất quan trọng. Mặt khác, KTNB ra đời là do nhu cầu tự thân của DN. Việc thiết lập bộ phận KTNB phụ thuộc vào một số tiêu chuẩn nhất định trong đó có quy mô của DN; sự phân cấp quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhân viên; đặc thù về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu về lý luận và hệ thống pháp lý liên quan tới tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan