Nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xử lý thực phẩm bằng kỹ thuật
DPCD là do nước là môi trường hòa tan CO2, nếu lượng nước tăng thì lượng CO2
hòa tan càng lớn, khi đó hiệu quả vô hoạt vi sinh vật càng tăng. Nếu môi trường có
hàm lượng nước quá thấp, không tạo đủ điềukiện để CO2hòa tan tốt thì sự tiếp xúc
giữa CO2và tế bào không tốt, và do đó hiệu quả tiêu diệt vi sinh vật cũng giảm.
Bên cạnh đó, hàm lượng nước trong tế bào và môi trường cao sẽ làm cho màng tế
bào linh động hơn, tính thấm tăng lên, CO2sẽ dễ dàng thẩm thấu vào trong tế bào
hơn. Mặt khác, nước giúp cho CO2hòa tan tạo thành acid carbonic góp phần làm
giảm pH môi trường và pH nội bào của vi sinhvật, làm gia tăng hiệu quả vô hoạt
chúng (Damar và Balaban, 2006; Hong và Pyun, 1999).
92 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tổng quan tài liệu về kỹ thuật Dense Phase CO2 – Nguyên lý ứng dụng trong công nghệ thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian xử lý. Do vậy, thời gian xử lý là một hàm số phụ thuộc
vào các biến số chính là áp suất, nhiệt độ và tính chất hệ vi sinh vật.
Nghiên cứu của Shimoda và cộng sự (2001) cũng kết luận là hiệu quả tiêu diệt
vi sinh vật tăng cùng với việc tăng thời gian xử lý.
Hình 3.13: Aûnh hưởng của thời gian xử lý đến hiệu quả vô hoạt S. cerevisiae bằng
DPCD (●: 10 MPa, 36oC; ○: 8 MPa, 38oC)
3.1.3.4. Aûnh hưởng của độ ẩm
Hoạt độ của nước của môi trường xử lý và bên trong tế bào vi sinh vật ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng vô hoạt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD. Đối với môi
trường và các tế bào vi sinh vật có hàm lượng nước thấp thì hiệu quả của kỹ thuật
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
42
DPCD không cao. Hàm lượng nước trong môi trường xử lý và trong tế bào tăng thì
hiệu quả ức chế và tiêu diệt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD sẽ tăng (Damar và
Balaban, 2006; Spilimbergo và Bertucco, 2003; Hong và Pyun, 1999; Louka và cộng
sự, 1999).
Nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xử lý thực phẩm bằng kỹ thuật
DPCD là do nước là môi trường hòa tan CO2, nếu lượng nước tăng thì lượng CO2
hòa tan càng lớn, khi đó hiệu quả vô hoạt vi sinh vật càng tăng. Nếu môi trường có
hàm lượng nước quá thấp, không tạo đủ điều kiện để CO2 hòa tan tốt thì sự tiếp xúc
giữa CO2 và tế bào không tốt, và do đó hiệu quả tiêu diệt vi sinh vật cũng giảm.
Bên cạnh đó, hàm lượng nước trong tế bào và môi trường cao sẽ làm cho màng tế
bào linh động hơn, tính thấm tăng lên, CO2 sẽ dễ dàng thẩm thấu vào trong tế bào
hơn. Mặt khác, nước giúp cho CO2 hòa tan tạo thành acid carbonic góp phần làm
giảm pH môi trường và pH nội bào của vi sinh vật, làm gia tăng hiệu quả vô hoạt
chúng (Damar và Balaban, 2006; Hong và Pyun, 1999).
Khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng nước đến hiểu quả vô hoạt vi sinh vật của kỹ
thuật DPCD trên vi khuẩn E.coli và nấm men S. cerevisiae, Debs-Louka E và cộng
sự (1999) đã dùng 2 giấy lọc cấy E. Coli và 2 giấy lọc cấy S. cerevisiae, hàm lượng
nước được điều chỉnh bằng cách bổ sung nước cất vô khuẩn vào một trong 2 giấy
lọc, giấy lọc còn lại đem sấy ở nhiệt độ 30oC trong 7 giờ. Sau khi xử lý các giấy lọc
bằng kỹ thuật DPCD với điều kiện 5 MPa trong vòng 300 phút, kết quả thu được
như sau:
Bảng 3.5: Kết quả sau khi xử lý giấy lọc cấy E. Coli và S. cerevisiae bằng kỹ thuật
DPCD
Kết quả từ bảng 3.5 cho thấy, mặc dù pH cuối ở cả hai loại giấy lọc là như nhau
nhưng giấy lọc khô cho thấy hàm lượng vi sinh vật giảm sau khi xử lý không nhiều,
còn đối với giấy lọc có hàm ẩm cao hơn thì lượng vi sinh vật giảm nhiều hơn hẳn
sau khi xử lý. Điều này chứng tỏ khả năng vô hoạt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
43
phụ thuộc nhiều vào hàm lượng nước trong môi trường xử lý. Louka và cộng sự kết
luận hiệu quả vô hoạt vi sinh vật tăng cùng với sự tăng hàm ẩm và hiệu quả này
càng kém nếu môi trường và tế bào chứa hàm lượng nước quá thấp.
3.1.3.5. Aûnh hưởng của pH của môi trường xử lý
pH ban đầu của môi trường xử lý có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng tiêu
diệt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD. pH thấp của môi trường tạo điều kiện thuận lợi
cho sự vận chuyển của acid carbonic qua màng tế bào, tương tự như những acid
carboxylic khác, do đó mà hiệu quả vô hoạt sẽ tăng lên (Damar và Bal aban, 2006).
pH của môi trường xử lý càng giảm thì tốc độ vô hoạt vi sinh vật càng tăng.
Nguyên nhân là do bản thân pH thấp đã là một trong những yếu tố ức chế khả năng
sống và phát triển của vi sinh vật, khi kết hợp với kỹ thuật DPCD, pH thấp của môi
trường có t ác dụng hỗ trợ làm tăng hiệu quả của kỹ thuật này: pH thấp làm giảm
khả năng chịu đựng của vi sinh vật, làm tăng khả năng di chuyển của acid carbonic
qua màng tế bào, khi đó tốc độ tiêu diệt vi sinh vật sẽ tăng lên (Damar và Balaban,
2006; Spilimbergo và cộng sự, 2005; Hong và Pyun, 1999).
Nghiên cứu của Hong và Pyun (1999) trên khuẩn Lactobacillus plantarum đã đưa
ra kết quả về khả năng vô hoạt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD trên những môi
trường có pH khác nhau và kết luận rằng với pH môi trường càng thấp thì khả năng
vô hoạt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD càng cao.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
44
Thời gian xử lý (phút)
Tỷ lệ
sống
sót
N/N0
đệm acetate
Nước cất
đệm phosphate
và
Hình 3.14: Aûnh hưởng của pH môi trường xử lý đến hiệu quả vô hoạt L.
plantarum bằng kỹ thuât DPCD
Theo kết quả thể hiện trên đồ thị 3.14 thì tốc độ vô hoạt vi sinh vật của môi
trường đệm acetate pH 4,5 trong điều kiện xử lý DPCD ở áp suất 70kg/cm2, 30oC là
cao nhất. Đây cũng là mức pH thấp nhất trong số các môi trường được sử dụng trong
nghiên cứu trên. Đối với môi trường dịch chiết xuất từ thịt MRS, mặc dù pH cũng là
4,5 nhưng do môi trường chứa nhiều chất béo nên làm hạn chế hiệu quả của kỹ
thuật DPCD. Trong khi đó, môi trường bổ sung Na bicarbonate lại cho thấy hiệu quả
thấp nhất do không tạo được pH thấp mà lại tạo ra đệm base (pH 8,0), do đó mà
hiệu quả vô hoạt vi sinh vật của DPCD trong môi trường này trở nên rất thấp. Dựa
vào kết quả như trên, Hong và Pyun kết luận môi trường có pH thấp sẽ làm tăng
hiệu quả xử lý của kỹ thuật DPCD.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
45
3.1.3.6. Aûnh hưởng của nồng độ CO2 sử dụng (tỉ lệ CO2: nguyên liệu xử lý)
Nồng độ CO2 cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng vô hoạt vi sinh
vật của kỹ thuật DPCD. Nồng độ này được tính bằng đơn vị khối lượng (hoặc thể
tích) CO2 trên một đơn vị khối lượng (hoặc thể tích) nguyên liệu xử lý. Quá trình xử
lý với cùng một nhiệt độ và áp suất nhưng với nồng độ CO2 thấp thì hiệu quả vô
hoạt cũng không cao. Nồng độ CO2 càng tăng thì hiệu quả vô hoạt vi sinh vật của
kỹ thuật DPCD sẽ tăng theo. Điều này có thể giải thích là do hàm lượng CO2 sử
dụng cao thì lượng CO2 hòa tan vào môi trường xử lý tăng, nồng độ CO2 thấm qua
màng tế bào cũng tăng do đó làm tăng khả năng vô hoạt vi sinh vật (Werner và
Hotchkiss, 2006; Gunes và cộng sự, 2005; Spilimbergo và Bertucco, 2003).
Tuy nhiên, hiệu quả vô hoạt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD chỉ tăng trong một
khoảng tăng nồng độ CO2 giới hạn, nguyên nhân là do sự bão hòa CO2 trong môi
trường xử lý.
3.1.3.7. Aûnh hưởng của phương pháp tiến hành
Phương pháp tiến hành kỹ thuật DPCD có t hể ảnh hưởng đến tốc độ vô hoạt vi
sinh vật. Phương pháp nào cho phép CO2 tiếp xúc với môi trường xử lý tốt hơn thì
có hiệu quả hơn trong việc tiêu diệt vi sinh vật. Nguyên nhân là do khi sự tiếp xúc
giữa CO2 và môi trường xử lý tăng thì tốc độ hoà tan của CO2 vào môi trường tăng,
vì vậy mà nồng độ CO2 đạt đến bão hoà nhanh hơn, tốc độ tiêu diệt vi sinh vật lúc
đó sẽ tăng.
Thông thường thì phương pháp tiến hành gián đoạn theo từng mẻ cần thời gian
dài hơn để có thể đạt được hiệu quả vô hoạt vi sinh vật tương đương với các phương
pháp bán liên tục và liên tục, tức là tốc độ vô hoạt vi sinh vật trong phương pháp
gián đoạn thấp hơn các phương pháp còn lại.
Phương pháp tiến hành ảnh hưởng đến tốc độ hoà tan của CO2 cũng như đến
nồng độ CO2 đạt được trong dung dịch xử lý, từ đó mà tạo ra những ảnh hưởng quan
trọng đến các thông số kỹ thuật khác của kỹ thuật DPCD như áp suất, nhiệt độ, thời
gian xử lý và tỷ lệ CO2: nguyên liệu (Damar và Balaban, 2006; Gunes và cộng sự,
2005; Shimoda và cộng sự, 2001, 1998)
Nghiên cứu của Shimoda và cộng sự về tác dụng tiệu diệt vi sinh vật của kỹ
thuật DPCD (1998) nhận thấy tốc độ tiêu diệt vi khuẩn Lactobacillus brevis bằng
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
46
phương pháp dòng chảy liên tục cao hơn so với phương pháp gián đoạn khi so sánh
trên tại cùng một mật độ CO2 ở 35oC.
Mật độ CO2 (g/m
3)
Lượng tế
bào sống
sót (CFU)
Hình 3.15: Hiệu quả tiêu diệt vi sinh vật bằng phương pháp dòng chảy liên tục và
phương pháp gián đoạn theo mật độ CO2
: Phương pháp dòng chảy liên tục
: Phương pháp gián đoạn
Theo kết quả trên hình 3.15 thì Lactobacillus brevis gần như bị tiêu diệt hoàn
toàn bằng phương pháp dòng chảy liên tục khi mật độ CO2 khoảng 0,18 g/m3, trong
khi đó, phương pháp gián đoạn chỉ tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn này khi mật độ CO2
đạt 0,9 g/m3. Do đó mà các t ác giả này đã kết luận rằng phương pháp liên tục cho
hiệu quả tiêu diệt vi sinh vật cao hơn so với phương pháp gián đoạn.
3.1.3.8. Aûnh hưởng của tính chất hệ vi sinh vật trên nguyên liệu cần xử lý
Aûnh hưởng của lượng vi sinh vật trong nguyên liệu xử lý
Lượng vi sinh vật ban đầu trong mẫu đem xử lý (N0) ảnh hưởng lớn đến thời gian
tiến hành kỹ thuật DPCD tại một điều kiện kỹ thuật nhất định về áp suất, nhiệt độ
và các thông số khác. Với một lượng vi sinh vật ban đầu quá lớn thì cho dù sản
phẩm có qua quá trình xử lý vẫn không đảm bảo vấn đề an toàn vi sinh cho thực
phẩm.
Trong thực tế sản xuất, để rút ngắn thời gian xử lý nhưng vẫn đảm bảo mức độ
an toàn vi sinh cho thực phẩm, các nhà công nghệ cần đặt ra các chỉ tiêu vi sinh
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
47
nghiêm ngặt cho nguyên liệu đầu vào, đặc biệt phải đảm bảo điều kiện vệ sinh
thiết bị, nhà xưởng, công nhân tham gia sản xuất... trong suốt quy trình công nghệ
để khống chế giá trị N0 của các mẫu thực phẩm trước khi xử lý luôn ở mức thấp
nhất.
Loài vi sinh vật
Các loài vi sinh vật khác nhau có các tính chất về cấu trúc và hệ enzyme khác
nhau, do đó mà chịu những ảnh hưởng khác nhau bởi kỹ thuật DPCD.
Tính chất của màng tế bào vi sinh vật có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả của
kỹ thuật DPCD. Vi khuẩn G(-) với màng tế bào mỏng, nhạy cảm do đó dễ bị phá vỡ
và tổn thương trong giai đoạn giải phóng áp suất, đồng thời tính thấm của màng cao
hơn, tạo điều kiện dễ dàng cho CO2 thấm qua và trích ly các tế bào chất. Ngoài ra,
màng vi khuẩn G(-) còn được cho l à dễ biến tính hơn vi khuẩn G(+). Vì các nguyên
nhân trên và người ta đi đến kết luận, vi khuẩn G(-) bị tiêu diệt dễ dàng hơn so với
vi khuẩn G(+).
Tuy nhiên, một khi màng tế bào đã bị biến tính trong quá trình xử lý bằng kỹ
thuật DPCD thì hiệu quả vô hoạt các loài vi sinh vật khác nhau l à như nhau.
Tính chất về hệ enzyme trong bộ máy trao đổi chất của các loài vi sinh vật cũng
ảnh hưởng đến hiệu quả của kỹ thuật DPCD. Tùy vào loài vi sinh vật khác nhau mà
hệ enzyme này cũng khác nhau và chịu những ảnh hưởng với các mức độ khác
nhau. Như đã nói ở trên, chưa có nghiên cứu kết luận sự vô hoạt của enzyme nào sẽ
ảnh hưởng chủ yếu đến sự sống của vi sinh vật, vì vậy cần tìm hiểu thêm enzyme
nào quan trọng cho sự sống của tế bào, từ đó tập trung vô hoạt những enzyme đó
(phần 3.1.1.1) (Damar và Balaban, 2006; Spilimbergo và Bertucco, 2003).
Ngoài ra, các loài vi sinh vật khác nhau có khả năng chịu đựng khác nhau đối
với điều kiện xử lý bằng kỹ thuật DPCD, ví dụ như các vi khuẩn lactic, acetic... có
thể chịu được môi trường có pH thấp, một số loài vi sinh vật khác lại có thể sinh
tổng hợp những protein mới có tác dụng bảo vệ tế bào chống lại các điếu kiện khắc
nghiệt như áp suất và nhiệt độ cao, nồng độ muối cao... Những nguyên nhân trên
cũng góp phần làm giảm hiệu quả của kỹ thuật DPCD.
Loài vi sinh vật khác nhau ảnh hưởng đến các thông số kỹ thuật của quá trình xử
lý bằng kỹ thuật DPCD. Tương tự như các kỹ thuật thanh, tiệt trùng bằng nhiệt, mỗi
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
48
loài vi sinh vật có một giá trị thời gian tiêu diệt thập phân D khác nhau, vì vậy
người ta sẽ chọn ra loài vi sinh vật có giá trị D cao nhất, tức là có khả năng chịu
đựng cao nhất, làm đại diện để thiết lập chế độ xử lý và đánh giá hiệu quả quá
trình.
Các so sánh về hiệu quả của quá trình xử lý bằng kỹ thuật DPCD trên các đối
tượng vi sinh vật khác nhau cần phải được xem xét kỹ lưỡng và phải có sự đồng
nhất về các điều kiện xử lý. Aûnh hưởng của kỹ thuật DPCD lên các loài vi sinh vật
khác nhau đến nay vẫn chưa có những kết luận cụ thể, các nghiên cứu cần phải
được tiến hành thêm để tìm hiểu rõ về vấn đề này.
Louka và cộng sự nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật DPCD đến sự sống của vi
sinh vật (1999) cho thấy tốc độ tiêu diệt sẽ khác nhau đối với các loài vi sinh vật
khác nhau với cùng một chế độ xử lý như nhau về thời gian và áp suất
Hình 3.16: Aûnh hưởng của thời gian xử lý đến hiệu quả vô hoạt các loài vi sinh vật
khác nhau của kỹ thuật DPCD.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
49
Aùp suất (MPa)
Hình 3.17: Aûnh hưởng của áp suất đến sự sống của các loài vi sinh vật khác nhau
(thời gian xử lý 30 phút)
Aûnh hưởng của giai đoạn phát triển của vi sinh vật.
Giai đoạn phát triển của vi sinh vật cũng ảnh hưởng đến hiệu quả vô hoạt vi sinh
vật của kỹ thuật DPCD.
Trong cùng một loài vi sinh vật, các tế bào trẻ nhạy cảm hơn các tế bào trưởng
thành, do đó mà dễ bị tiêu diệt hơn.
Tế bào ở pha thích nghi được cho là có sức đề kháng yếu nhất do chúng chưa
sinh tổng hợp được các enzyme và các cấu trúc thích hợp với điều kiện môi trường,
vì vậy mà chúng dễ dàng bị tiêu diệt bằng kỹ thuật DPCD.
Ngược lại, ở pha ổn định, vi sinh vật có khả năng chịu đựng cao nhất nên khó bị
vô hoạt nhất. Nguyên nhân là do trong giai đoạn này, các vi sinh vật đã sinh tổng
hợp nên những protein mới có khả năng bảo vệ tế bào chống lại những ảnh hưỡng
bất lợi từ môi trường như áp suất và nhiệt độ cao, sự có mặt của các chất oxy hoá
khử, nồng độ muối cao...
Trong các giai đoạn phát triển thì bào tử có khả năng chịu đựng cao nhất. Do cấu
trúc lớp vỏ vững chắc, bền với các tác động của môi trường nên ảnh hưởng của kỹ
thuật DPCD lên bào tử cũng là thấp nhất so với các gi ai đoạn phát triển khác của vi
sinh vật (Damar và Balaban, 2006; Spilimbergo và Bertucco, 2003; Hong và Pyun,
1999).
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
50
Nghiên cứu của Hong và Pyun về động học quá trình vô hoạt L. plantarum bằng
kỹ thuật DPCD (1999) kết luận vi sinh vật ở pha log có tính mẫn cảm cao, khả năng
chịu đựng kém vì vậy mà dễ bị tiêu diệt hơn. Nghiên cứu này cũng cho thấy tốc độ
vô hoạt L. plantarum ở giai đoạn pha log (nuôi cấy trong vòng 12 giờ t ại 37oC) cao
hơn so với tốc độ vô hoạt ở pha ổn định (nuôi cấy trong vòng 24 giờ tại 37oC).
Thời gian xử lý (phút)
Pha log
Pha ổn định
Tỷ lệ sống
sót N/N0
Hình 3.18: Tốc độ vô hoạt L. plantarum ở các giai đoạn phát triển khác nhau bằng
kỹ thuật DPCD
Sự kết tụ của các tế bào vi sinh vật và bào tử
Trong quá trình phát triển, một số loài vi sinh vật có xu hướng kết tụ với nhau
thành từng đám lớn. Sự kết tụ này giúp cho chúng tăng khả năng chống chịu với các
điều kiện bất lợi của môi trường. Trong suốt thời gian xử lý DPCD, các tế bào cũng
như các bào tử càng có xu hướng kết tụ nhiều hơn nhằm chống lại các điều kiện bất
lợi của môi trường.
Nghiên cứu của Furukawa và cộng sự (2006) về hiện tượng kết tụ của các bào tử
trong quá trình xử lý bắng kỹ thuật DPCD cho thấy, thời gian xử lý càng kéo dài thì
số lượng bào tử kết tụ càng tăng.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
51
Bảng 3.6: Kích thước các đám kết tụ bào tử theo thời gian
Nguyên nhân của sự kết tụ là do ở điều kiện áp suất và nhiệt độ xử lý kỹ thuật
DPCD, các protein trên màng tế bào bị biến tính, tính kỵ nước tăng, do đó chúng có
xu hướng kết tụ lại với nhau nhằm làm giảm năng lượng dư bề mặt.
Như vậy, việc làm giảm sự kết tụ hoặc ngăn chặn sự hình thành các đám kết tụ
các tế bào và bào tử vi sinh vật sẽ làm cải thiện hiệu quả tiêu diệt vi sinh vật của
kỹ thuật DPCD.
Trong nghiên cứu trên, Furukawa và cộng sự đã dùng các chất hoạt động bề mặt
để hạn chế hiện tượng kết tụ và kết quả sau khi xử lý cho thấy lượng vi sinh vật bị
tiêu diệt tăng lên nhiều so với mẫu không sử dụng chất hoạt động bề mặt.
Hình 3.19: Aûnh hưởng của các chất hoạt động bề mặt lên hiệu quả xử của quá trình
xử lý bẳng DPCD trên bào tử Bacillus coagulans (A) và Bacillus licheniformis (B)
3.1.3.9. Aûnh hưởng của các yếu tố khác
Hàm lượng chất béo trong môi trường xử lý cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tiêu
diệt vi sinh vật của kỹ thuật DPCD. Khi hàm lượng chất béo trong môi trường xử lý
cao thì tốc độ vô hoạt vi sinh vật giảm. Nguyên nhân là do các chất béo làm giảm
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
52
khả năng thẩm thấu của CO2 qua màng tế bào bằng cách thay đổi các tính chất bề
mặt của màng (Spilimbergo và Bertucco, 2003; Hong và Pyun, 1999).
Sự có mặt của các chất hỗ trợ trong môi trường xử lý làm tăng hiệu quả vô hoạt
vi sinh vật của kỹ thuật DPCD. Chẳng hạn như khi bổ sung một lượng SO2 (khoảng
30ppm) vào CO2 thì tốc độ tiêu diệt nấm men Saccharomyces cerevisiae tăng lên
((Spilimbergo và Bertucco, 2003).
Đã có nhiều nghiên cứu khác nhau trên rất nhiều đối tượng như bia, nước quả,
các loại rượu, sữa, một số các thực phẩm dạng rắn như kimchi, thịt bò... được tiến
hành nhằm khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả vô hoạt vi sinh vật của kỹ
thuật DPCD. Các nghiên cứu này phần nào đã đưa ra được vai trò của các thông số
kỹ thuật chính cũng như đã thống nhất được một số cơ chế chủ yếu vô hoạt vi sinh
vật của kỹ thuật DPCD.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
53
3.2. Biến đổi hóa sinh
Khả năng vô hoạt các enzyme ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm của kỹ
thuật DPCD đã được nhiều nghiên cứu chứng minh. Kỹ thuật DPCD có thể vô hoạt
các enzyme tại những nhiệt độ mà phương pháp truyền thống sử dụng nhiệt độ tỏ ra
không hiệu quả. Hàng loạt các enzyme chịu ảnh hưởng bởi DPCD có thể kể đến
như: enzyme pectinesterase (PE) làm mất màu đục của các loại nước quả đục,
enzyme polyphenoloxidase (PPO) làm hóa nâu các loại quả, rau, nước trái cây và
một số sản phẩm hải sản, enzyme lypoxygenase (LOX) phá hủy chlorophyll và làm
tăng mùi vị khó chịu cho rau quả lạnh đông, và enzyme peroxidase (POD), một
enzyme chủ yếu làm biến màu thực phẩm và được dùng như một chỉ số đánh giá
hiệu quả vô hoạt enzyme dùng nhiệt độ trong quá trình chế biến các sản phẩm rau
quả. Mặc dù không nhiều về mặt số lượng nhưng những nghiên cứu về khả năng vô
hoạt enzyme nhờ kỹ thuật DPCD đã cho những kết quả khả quan, đặc biệt là trong
các sản phẩm từ rau quả (Damar và Balaban, 2006).
3.2.1. Cơ chế vô hoạt enzyme
Cũng như đối với vi sinh vật, đã có nhiều giả thuyết đưa ra các cơ chế vô hoạt
enzyme nhưng vẫn chưa thể khẳng định đâu là cơ chế chủ yếu. Một số các cơ chế
được đề cập đến như sau:
3.2.1.1. Tác dụng làm giảm pH
Như đã trình bày ở trên, kỹ thuật xử lý với DPCD có thể làm giảm pH môi
trường, và do đó làm giảm hoạt tính của một số enzyme (Damar và Balaban, 2006;
Gui và cộng sự, 2006; Tanimoto và cộng sự, 2005; Tisi, 2004; Park và cộng sự,
2002; Yoshimura và cộng sự, 2002, 2001; Chen và cộng sự, 1993).
Mỗi loại enzyme có một pH tối thích riêng, nếu pH môi trường ra khỏi pH này
thì hoạt tính enzyme sẽ giảm. Bên cạnh đó, với một số enzyme có pH đẳng điện
trong vùng acid thì pH môi trường giảm có thể dẫn đến việc đông tụ các enzyme
này.
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
54
Bảng 3.7: pH tối thích của một số enzyme lấy từ các nguồn khác nhau (Yada,
Proteins in food processing, CRC Press, 2004)
Việc làm giảm pH của nguyên liệu nhờ kỹ thuật DPCD có thể góp phần làm
giảm hoạt tính của enzyme nhưng đây không phải là cơ chế chính vô hoạt enzyme.
Nguyên nhân ở đây l à do một số enzyme có pH tối thích trong vùng acid, khi đó tác
dụng làm giảm pH của môi trường xử lý không thể vô hoạt các enzyme này được
mà ngược lại còn góp phần làm tăng hoạt tính của chúng. Tuy nhiên, khi áp dụng
kỹ thuật DPCD, mặc dù pH môi trường có giảm tới pH tối thích của các enzyme thì
các enzyme này vẫn bị vô hoạt. Nghiên cứu của Balaban và cộng sự (1991) về sự
vô hoạt enzyme PE trên nước cam cho thấy pH của dung dịch phải thấp hơn 2,4 thì
mới có hiệu quả vô hoạt PE rõ ràng, trong khi đó, xử lý bằng DPCD chỉ cho pH vào
khoảng 3,1 nhưng vẫn có tác dụng vô hoạt PE. Vì thế, nếu chỉ một mình tác dụng
giảm pH thì không đủ để giải thích cơ chế vô hoạt enzyme của kỹ thuật DPCD. Một
nghiên cứu khác của Chen (1992) cho kết quả mẫu tôm hùm xử lý bằng acid sao
cho pH điều chỉnh vào khoảng 5,3 (bằng với pH của mẫu đạt được khi xử lý bằng
DPCD) có hoạt tính enzyme PPO còn lại khoảng 30% tại nhiệt độ 35oC sau 30 phút,
Đồ án Công nghệ Thực phẩm
55
trong khi đó mẫu xử lý bằng DPCD cho thấy hoạt tính của enzyme PPO bị mất đi
hoàn toàn cũng tại nhiệt độ trên chỉ sau 1 phút (Damar và Balaban, 2006).
Từ các kết quả nghiên cứu trên cùng với một số nghiên cứu khác, ta thấy tác
dụng làm giảm pH của DPCD không phải là cơ chế vô hoạt enzyme chủ yếu.
3.2.1.2. Tác dụng thay đổi cấu hình không gian của enzyme và cơ chất
Như ta đã biết, phần lớn các enzyme trong tế bào sinh vật là những protein có
cấu trúc bậc 4 là cấu trúc bao gồm các tiểu phần bậc ba theo không gian ba chiều.
Trong đó, một số vị trí các chuỗi polypeptide có cấu trúc dạng xoắn α, dạng gấp
nếp β, dạng cấu trúc mặt cong β và dạng cuộn ngẫu nhiên.
Hình 3.20: Cấu trúc của một loại enzyme peroxidase với các vị trí có cấu trúc bậc 2
và bậc 3.
Dưới áp suất cao của kỹ thuật DPCD, các enzyme có thể bị biến tính do thay đổi
cấu hình không gian. Cụ thể là các vị trí có cấu trúc bậc hai (α, β, cuộn ngẫu nhiên)
và bậc ba sẽ bị biến tính làm duỗi mạch, tháo xoắn, thay đổi góc của nếp gấp…. Sự
thay đổi cấu hình này góp phần làm giảm hoạt tính của các enzyme. Mức độ biến
tính enzyme phụ thuộc vào áp suất trong khi tiến hành xử lý: để biến tính hoàn toàn
các enzyme phải cần một áp suất rất cao, chẳng hạn như theo nghiên cứu của
Hendrickx và cộng sự về ảnh hưởng của kỹ thuật DPCD lên protein (1998) cho thấy
phải nâng áp suất lên đến 310 MPa thì protein mới bị biến tính hoàn toàn, không
thể phục hồi. Do đó, sự biến tính của enzyme do tác dụng củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ky thuat Dense Phase CO2 Nguyen ly ung dung trong CNTP.pdf