A. MỞ ĐẦU. 1
B. NỘI DUNG 2
I. Lý luận chung. 2
1. Tiền tệ. 2
1.1. Tiền tệ - sự hình thành và quá trình phát triển. 2
1.1.1. Tiền là gì? 2
1.1.2. Khái quát về sự phát triển của tiền tệ. 2
1.1.3. Tiền tệ ngày nay 4
1.2. Chức năng của tiền tệ 5
1.2.2. Thước đo giá trị. 5
1.2.2. Phương tiện lưu thông. 6
1.2.3. Phương tiện cất trữ: 7
1.2.4. Phương tiện thanh toán. 7
1.2.5. Tiền tệ thế giới. 7
2. Chính sách tiền tệ. 8
2.1. Chính sách tiền tệ là gì? 8
2.2. Mục đích, vai trò, tầm quan trọng của chính sách tiền tệ đối với mỗi quốc gia. 9
2.2.1. Ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát. 9
2.2.2. Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở ổn định tỷ giá hối đoái. 10
2.2.3. Kích thích tăng trưởng kinh tế. 10
2.2.4. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp. 11
2.4. Các mối liên hệ của chính sách tiền tệ. 11
2.5. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 12
2.5.1. Công cụ tái cấp vốn. 12
2.5.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 13
2.5.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở. 14
2.5.4. Công cụ lãi suất tín dụng 16
2.5.5. Công cụ hạn mức tín dụng 17
2.5.6. Công cụ tỷ giá hối đoái 18
II. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam 19
1. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời kỳ trước. 19
2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 21
3. Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 23
3.1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ để xử lý các vấn đề trước mắt. 23
3.2. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường. 24
C. KẾT LUẬN. 26
28 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về hàng hoá tiêu dùng. Do đó, đời sống của người dân sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng do không thu hút được tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình…do đó lạm phát ảnh hưởng mọi mặt của nền kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng không tốt thì lạm phát vẫn có những ảnh hưởng tốt đến nền kinh tế. Một tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó, lạm phát là công cụ điều tiết của nền kinh tế.
Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế nó, để ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người dân, chứ không phải triệt tiêu nó.
2.2.2. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hoá diễn ra rất nhanh. Trong hệ thống tài chính, tốc độ này phụ thuộc vào mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó. Một sự biến động trong tỷ giá hối đoái tác động đến các hoạt động kinh tế trong nước, đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp( có nghĩa đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây khó khăn cho xuất khẩu do hàng xuất khẩu đắt hơn hàng nhập khẩu. Vì vậy làm giảm lượng dự trữ ngoại tệ của quốc gia.
Nhưng nếu một tỷ giá hối đoái quá cao(đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ) làm bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu do tỷ giá cao làm cho hàng hoá xuất khẩu rẻ đi, làm tăng khả năng cạnh tranh… do vậy dự trữ ngoại tệ tăng. Tuy nhiên gây khó khăn cho hoạt động nhập khẩu, nên ảnh hưởng đến các doanh nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguyên vật liệu, máy móc nhập khẩu.
Như vậy, một tỷ giá quá cao hay quá thấp đều có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, Ngân hàng trung ương cần phải sử dụng các biện pháp, công cụ để can thiệp giữ cho tỷ giá không biến động quá lớn gây sự bất ổn định trong nền kinh tế, vừa phải khuyến khích xuất khẩu vừa phải khuyến khích nhập khẩu để cân bằng nền kinh tế.
2.2.3. Kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là gì? chính sách tiền tệ ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?
Khi khối lượng tiền tệ cung ứng tăng, làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, làm tăng tổng sản phẩm quốc nội( GDP). Khi khối lượng tiền tệ tăng làm tăng tổng cầu, do đó sức mua hàng hoá tăng là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Nếu mức gia tăng GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì sẽ có tăng trưởng kinh tế.
Khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất tăng, làm giảm đầu tư, do đó GDP giảm. Mặt khác, khi khối lượng tiền tệ giảm làm giảm tổng cầu, làm giảm sức mua, làm hàng hoá tồn đọng, các doanh nghiệp không có động lực mở rộng sản xuất, do đó GDP giảm.
Như vậy chính sách tiền tệ tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
2.2.4. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Tạo việc làm, giảm thất nghiệp là một trong những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Để thực hiện được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc tác động vào đầu tư sản xuất, mở rộng hoạt động kinh tế nhằm chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được mức tăng trưởng ổn định
Như vậy, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và thất nghiệp có mối quan hệ đối nghịch nhau:
Khi kiềm chế được lạm phát thì tăng trưởng kinh tế giảm, thất
nghiệp tăng, nền kinh tế suy thoái.
Khi mở rộng đầu tư,khắc phục suy thoái, giảm thất nghiệp, kinh tế
tăng trưởng cao, thì khó có thể kiềm chế được lạm phát.
Như vậy, nền kinh tế luôn biến động mang tính chu kỳ: tăng trưởng kinh tế quá mức, dẫn đến lạm phát, từ đó rơi vào tình trạng suy thoái. Một lượng tiền tệ tăng lên để cứu vãn nền kinh tế, chuyển nền kinh tế sang thời phục hưng, rồi lại tăng trưởng mạnh…
Tóm lại, đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ cần tìm giải pháp để vừa đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu kinh tế khác.
2.4. Các mối liên hệ của chính sách tiền tệ.
Hệ thống công cụ quản lý của một quốc gia gồm có bốn chính sách: chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách tiền tệ. Trong đó, chính sách tiền tệ được coi là chính sách quan trọng, có vị trí trung tâm, gắn kết các chính sách kinh tế vĩ mô lại với nhau. Ví dụ, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách. Chính sách tài khoá ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền trong lưu thông - đối tượng của chính sách tiền tệ. Tiền tệ đi vào lưu thông qua nhiều kênh, trong đó chủ yếu là qua ngân sách và tín dụng. Do đó, thu chi ngân sách và tín dụng thặng dư, thâm hụt hay thăng bằng đều ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định tiền tệ của chính sách tiền tệ.
Khi ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể vay ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ và ngân hàng trung ương hay ngân hàng thương mại mua. Đây là hình thức tài trợ tiền tệ. Khi đó, lượng tiền cung ứng tăng, gây bất lợi cho mục tiêu ổn định tiền tệ. Chính phủ nên vay của các tổ chức phi ngân hàng hoặc trong dân cư bằng cách phát hành trái phiếu. Như thế sẽ không làm tăng lượng tiền cung ứng, nhưng sẽ làm tăng cầu tín dụng, làm lãi suất tăng, do đó ảnh hưởng đến đầu tư. Cũng có thể bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách vay từ nước ngoài. Nhưng cách này cũng không đảm bảo ổn định được tiền tệ, vì nhà nước vẫn phải dùng nội tệ để chi trả cho các khoản chi tiêu của chính phủ, làm cung tiền tăng. Chỉ khi thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ chính phủ dùng để nhập khẩu đúng bằng thâm hụt ngân sách bán hàng nhập khẩu thu nội tệ đảm bảo chi ngân sách là phù hợp với mục tiêu ổn định tiền tệ. Nhưng để trả được khoản nợ nước ngoài này chính phủ phải tăng xuất khẩu làm ảnh hưởng đến tiền hàng trong nước. Ngoài ra, lãi suất nợ nước ngoài thường biến động gây bất ổn định tiền tệ.
Theo J.Keynes, nhà nước cần mạnh dạn chi tiêu dù có thâm hụt ngân sách, có như thế thì mới tạo đủ công ăn việc làm, tạo thu nhập, từ đó thúc đẩy tiêu dùng xã hội, kích thích sản xuất phát triển. Keynes luôn nhấn mạnh vai trò của tiền tệ đối với nền kinh tế hiện vật. Nhưng đến giữa thập kỷ 70 đến nay, nền kinh tế thế giới bị suy thoái, thất nghiệp suy thoái, lạm phát, làm hệ thống tiền tệ thế giới bị rối loạn thì lý thuyết của Keynes không còn đúng nữa mà trở nên kém hiệu quả và bị phê phán.
Theo Friedman, chính sách khôi phục kinh tế bằng ngân sách thực chất là chính sách tiền tệ. Sự kết hợp giữa chính sách ngân sách và chính sách tiền tệ làm tăng thêm khối lượng tiền tệ là một yếu tố đảm bảo khôi phục nền kinh tế phát triển.
Giữa chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách còn có những xung đột: khi chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt thì lại có chính sách bành trướng ngân sách, và ngược lại. Khi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu giảm lạm phát thì làm chậm tăng trưởng kinh tế, do đó giảm nguồn thu ngân sách, và dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn, chính phủ buộc phải đi vay làm tăng cầu tiền tệ, lãi suất biến động, gây mất ổn định trên thị trường tài chính.
Như vậy, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ, phù hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách vừa đảm bảo tính độc lập, vừa đảm bảo tính thống nhất tránh tình trạng nền kinh tế rơi vào trì trệ, suy thoái, hay phát triển quá nóng, bất ổn.
2.5. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Để đạt được mục tiêu đề ra, Ngân hàng trung ương cần phải sử dụng hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết. Bao gồm các chính sách sau:
2.5.1. Công cụ tái cấp vốn.
Đây là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại, nhằm tạo bút tệ cho các ngân hàng thương mại nâng cao năng lực thanh toán, đồng thời làm tăng cung ứng tiền tệ.
Tuỳ theo từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển, công cụ này được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu giấy tờ có giá nên còn được gọi là công cụ tái chiết khấu. Ngoài ra, còn có các hình thức như: chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay bằng cách cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn han…
Cơ chế tác động: Ngân hàng trung ương điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay nới lỏng. Khi Ngân hàng trung ương thấy cần phải tăng lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ hạ lãi suất tái cấp vốn nhằm khuyến khích các Ngân hàng thượng mại đến Ngân hàng trung ương vay tiền, làm tăng dung lượng tín dụng được cấp đối với các Ngân hàng thương mại. Ngược lại, nếu thấy cần phải giảm lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, do đó làm hạn chế ý định vay của các Ngân hàng thương mại, và làm giảm dung lượng tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại vẫn có ý định vay.
Ưu điểm của công cụ tái cấp vốn là Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, kiểm soát lượng tiền lưu thông, kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các ngân hàng thương mại, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì Ngân hàng trung ương là chỗ dựa, phục hồi khả năng thanh toán…
Nhược điểm của công cụ này là Ngân hàng trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Như thế, quyền lực của Ngân hàng trung ương và Ngân hàng thương mại ngang nhau. Ngân hàng trung ương hạ lãi suất tái cấp vốn để khuyến khích các Ngân hàng thương mại vay, nhưng quyết định vay hay không lại phụ thuộc vào chính ngân hàng thương mại, nếu họ không vay thì mục tiêu điều tiết của công cụ này không được thực hiện.
2.5.2. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ Ngân hàng trung ương sử dụng để kiểm soát, điều chỉnh khả năng thanh toán, cho vay của các Ngân hàng thương mại thông qua tỷ lệ bắt buộc giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động. Khi Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghĩa là làm giảm khả năng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, do đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng khả năng tín dụng cho các Ngân hàng thương mại, làm tăng lượng tiền trong lưu thông.
Cơ chế tác động: thông qua công cụ này, Ngân hàng trung ương tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các Ngân hàng thương mại, và do đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng.
Công cụ này được áp dụng lần đầu ở Mỹ(1913) nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống các ngân hàng thương mại, đảm bảo tính thanh khoản cho các khoản tiền gửi. Do tính hiệu quả của công cụ này nên nó nhanh chóng được áp dụng ở các nước khác và được coi là một công cụ của chính sách tiền tệ
Ưu điểm của công cụ này là nó tác động mạnh đến lượng tiền cung ứng do tác động trực tiếp đến khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Tạo nên mối quan hệ giữa khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại và nhu cầu tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương. Nó tăng quyền lực cho Ngân hàng trung ương vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và mức độ khả dụng của các Ngân hàng thương mại mà Ngân hàng trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại. Đồng thời, công cụ này làm tăng tính cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại do không có sự phân biệt trong toàn hệ thống ngân hàng. Nó giúp các ngân hàng giảm thiểu được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, công cụ này cũng có những nhược điểm: chi phí quản lý cao khi thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc; việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên khả năng thanh toán ngay đối với một ngân hàng có dự trữ quá thấp; đồng thời nếu thay đổi tỷ lệ dự trữ thường xuyên sẽ gây nên tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng, làm khó khăn trong việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó.
2.5.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của ngân hàng mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ thông qua cung cầu các giấy tờ có giá, tác động đến tỷ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại, do đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến tăng hay giảm lượng tiền cung ứng.
Khi bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng trung ương đã thu hẹp tín dụng làm giảm khối lượng tiền tệ nhằm mục đích ngăn chặn tỷ lệ lạm phát tăng cao. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá ngắn hạn thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ được các Ngân hàng trung ương của các nước sử dụng.
Cơ chế tác động: nghiệp vụ này tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng, và tác động vào lãi suất.
Thông qua các hành vi mua bán các giấy tờ có giá, các chứng khoán trên thị trường mở của ngân hàng trung ương để gây ảnh hưởng ngay tức thì đến tình hình dự trữ của các ngân hàng thương mại thông qua ảnh hưởng tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương và của khách hàng tai các ngân hàng thương mại. Khi bán các chứng khoán, Ngân hàng trung ương làm giảm đi một lượng tiền dự trữ tương ứng. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ dẫn đến giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng, do đó làm giảm giảm lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo bằng sự giảm xuống của hệ số nhân tiền. Và ngược lại, khi mua chứng khoán, Ngân hàng trung ương làm tăng lượng tiền dự trữ tương ứng.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường đó là:
+ Khi dự trữ của các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng làm tác động đến cung cầu vốn của ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, sẽ dẫn đến lãi suất trên thị trường tiền ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự án của thị trường và các hoạt động Arbitrage về lãi suất, sẽ tác động đến các mức lãi suất trung bình và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ của nền kinh tế sẽ quyết định tại một mức thị trường xác định.
+ Việc mua bán chứng khoán làm ảnh hưởng đến cung cầu các loại chứng khoán trên thị trường mở, do đó ảnh hưởng đến giá cả của nó, và làm thay đổi tỷ lệ sinh lợi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
*Sơ đồ về cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc.
Cung TPKB giá TPKB ls thị trường
NHTW bán TPKB đầu tư
Dự trữ Cung vốn NHTM ls ngắn hạn ls thị trường
Các nghiệp vụ của thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường phải có sự tham gia của các ngân hàng trung ương bởi nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung không thay đổi. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường năng động --> làm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động, nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ của thị trường mở thường được thực hiện theo hai cách: các giao dịch không hoàn lại, và các giao dịch có hoàn lại. Cụ thể:
- Các giao dịch không hoàn lại ( các giao dịch mua đứt bán đoạn) gồm các nghiệp vụ mua bán chứng khoán của NHTW theo các phương thức mua đứt bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Qua đó, thực hiện việc chuyển đổi quyền sở hữu các chứng khoán. Do đó ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân hàng là dài hạn.
- Các giao dịch hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn) chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời: các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sở dụng khi NHTW thực hiện mua các chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Hợp đồng mua lại đảo ngược được sử dụng khi NHTW muốn rút bớt dự trữ của hệ thống ngân hàng.Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở vì: đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng; chi phí giao dịch của một hợp đồng mua lại thấp hơn chi phí hợp đồng mua đứt bán đoạn; thích hợp cho các chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến sử dụng các giải pháp khắc phục; làm giảm bớt thời gian thông báo nên giảm bớt sự biến động của thị trường khi có sự thay đổi lien tục của NHTW.
Ngoài ra còn có các nghiệp vụ khác cũng được áp dụng: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ.
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo phương thức đấu thầu: đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Trong đó, đấu thầu theo khối lượng là hình thức đấu thầu mà NHTW niêm yết trước mức lãi suất, còn các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ cần đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất niêm yết. Còn đấu thầu lãi suất là hình thức mà các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền cung ứng với mỗi mức lãi suất do chính mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp.
Hàng hóa của thị trường mở không có giới hạn về chủng loại, nhưng những loại chứng khoán nợ chủ yếu là: tín phiếu kho bạc; chứng chỉ tiền gửi; thương phiếu; trái phiếu chính phủ; trái phiếu chính quyền địa phương; các hợp đồng mua lại;…
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, do:
+ Cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện của nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới buộc các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn.
+ Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ cao được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của cuộc sống là động lực quan trọng ra đời các sản phẩm tài chính mới, có ảnh hưởng đến hàng hoá trên thị trường mở.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính ưu việt so với các công cụ khác:
+ NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
+ Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào, mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ, NHTW cũng có thể thực hiện theo cách mua bán một lượng chứng khoán.
+ NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có sai lầm khi sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sử dụng công cụ đó
+ Việc thực hiện có thể hoàn thành nhanh chóng. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hay dự trữ thì NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
2.5.4. Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế vì lãi suất không trực tiếp làm tăng giảm cung tiền nhưng nó tác động vào sản xuất: kích thích hay kìm hãm. Vì vậy, lãi suất là công cụ rất quan trọng, có mức ảnh hưởng to lớn. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Điều hành lãi suất thông qua hai cơ chế: gián tiếp và trực tiếp.
+ Cơ chế gián tiếp: thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay, cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này thực hiện theo nguyên tắc: trong chính sách điều hành lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đến các khoản cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể thao từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung cầu vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. NHTW có thể điều chỉnh lãi suất chiết khấu để từ đó tác động đến lãi suất tiền tệ liên ngân hàng và do đó tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ theo từng thời kỳ. Cơ chế này được áp dụng rộng rãi, và cũng trở nên linh hoạt hơn.
+ Cơ chế trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng như: quy định mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay,…mà thực chất NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa, tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi cho phép các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có thay đổi, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất hợp lý. Nhìn chung, trong nền kinh tế phát triển lãi suất ngày càng tự do hoá. Còn ở những nền kinh tế mà hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sợ quản lý này.
2.5.5. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dơ nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW, nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nên kinh tế, tránh làm tăng quá mức khối lượng tiền trong nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều chỉnh lượng tiền cung ứng, được sử dụng khi các công cụ khác tỏ ra kém hiêu quả. Tuy nhiên, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều khiếm khuyết như: làm lãi suất tăng lên vì cung về vốn bị giới hạn không thoã mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế; nó làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và thiệt hại cho ngân hàng; hạn mức tín dụng cũng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế; khi thị trường hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước, nên chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó; nó cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì các NHTM thường lựa chọn khách hàng lớn để cho vay trước;…
Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng, tuy nhiên do những khuyết điểm trên làm cho nó kém linh hoạt hơn.
2.5.6. Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ nên chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế: xuất- nhập khẩu, sản xuất kinh doanh trong nước, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư từ nước ngoài, dự trữ ngoại hối,…mặc dù tỷ giá không phải là công cụ tác động trực tiếp đến lượng tiền trong lưu thông nhưng nó là công cụ hỗ trợ quan trọng cho việc điều hành chính sách tiền tệ được nhiều quốc gia sử dụng.
Có nhiều phương pháp điều hành tỷ giá: chính sách hối đoái, quỹ dự trữ bình quân hối đoái, phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ, chính sách lãi suất chiết khấu,…
+ Quỹ dự trữ bình quân hối đoái là một hình thức biến tướng của chính sách hối đoái, nhằm mcụ đích tạo ra một cách chủ động lượng dự trữ hối đoái để đối phó với sự biến động của tỷ giá thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị trường. Quỹ này chỉ có tác dụng khi có khủng hoảng ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ.
+ Phá giá tiền tệ là việc hạ thấp sức mua danh nghĩa của đồng nội tệ so với ngoại tệ, có nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng lên. Nhà nước áp dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có khủng hoảng ngoại hối: sức mua đồng tiền giảm sút mạnh không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, hay tỷ giá hối đoái biến động trong thời gian dài buộc phải xác định lại tỷ giá hối đoái. Kết quả của việc thực hiện chính sách này là sự thay đổi tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái. Như vậy, phá giá tiền tệ cũng làm thay đổi tỷ giá hối đoái như chính sách hối đoái, nhưng sự khác nhau cư bản ở đây là: chính sách tỷ giá là sự can thiệp thường xuyên của nhà nước vào tỷ giá theo một biên độ dao động cho phép nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá, ổn định sức mua của đồng tiền,…còn phá giá tiền tệ là biện pháp mạnh của Nhà nước được sử dụng khi thật sự cần thiết. Khi áp dụng, phá giá tiền tệ có những tác dụng lớn: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu góp phần làm cân bằng cán cân thương mại, c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0736.doc