Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội

Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Cương lĩnh 1991 đã nêu 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bảy phương hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước.

Một là, “ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lây liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

Phương hương này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Thông qua Nhà nước nhân dân ta có công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ và đúng đắn, cần đấu tranh phê phán quan điểm và hành vi quan liêu, xa quần chúng, quan điểm dân chủ phi giai cấp, dân chủ quá trớn, thiếu kỷ cương không phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 

doc15 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3947 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iai cấp phát triển đến một trình độ nhất định – trình độ đấu tranh chính trị, thì các đảng chính trị mới có khả năng ra đời. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ rệt, phải có tổ chức chặt chẽ để tập hợp lực lượng giai cấp, huy động lực lượng đồng minh, đánh bại kẻ thù, giành thắng lợi. Cả khi chưa giành được chính quyền Trong thời đại ngày nay, tuy chế độ chính trị xã hội ở mỗi nước có sự khác nhau, nhưng dù dưới chế độ chính trị xã hội nào, đảng cầm quyền luôn đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi nước. Lãnh đạo của đảng là lãnh đạo chính trị bằng việc đề ra và tổ chức thực hiện cương lĩnh chính trị. Đặc trưng thứ nhất : Nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc trưng cơ bản khác biệt hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa tư bản và các chế độ bóc lột, thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát vọng cháy bỏng ngàn đời của con người. Nhân dân lao động làm chủ được đảm bảo trên thực tế, trong mọi mặt đời sống xã hội, được thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp theo quy định của pháp luật. Quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một quá trình phấn đấu, hoàn thiện từng bước từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả sự phát triển xã hội và phát triển con người. Đặc trưng thứ hai : Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Thực hiện công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xóa tận gốc việc sinh ra giai cấp đối kháng, xóa tận gốc cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Song chế độ công hữu chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện từng bước trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại. Đặc trưng thứ ba : Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thấm đượm tinh thần yêu nước và tiến bộ, mà nội dung cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vũng mà lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đã hun đúc nên. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân với gia đình, làng xã, Tổ quốc; là tinh thần ham học tập, cầu tiến bộ; là lối sống giản dị, khiêm tốn; là lòng nhân ái thủy chung, trọng nghĩa tình đạo lý… - Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc luôn đi đôi với tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại Đặc trưng thứ tư : Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vùa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Con người phát triển toàn diện là con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đặc trưng thứ năm :Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Nước ta là quốc gia đa dân tộc. Trên đất nước ta có 54 dân tộc anh em bao đời chung sức, chung lòng xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam. Trong xã hội mới mà chúng ta xây dựng, các dân tộc anh em, dù đa số hay thiểu số, đều bình đẳng, có sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đặc trưng thứ sáu : Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do, tôn trọng độc lập tự do của các dân tộc khác, của dân tộc ta cùng với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã xác định xã hội mới mà chúng ta xây dựng có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước trong quá trình xây dựng. Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc trưng, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm được rút ra, Đại hội X đã bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh 1991 như sau: a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có 8 đặc trưng: Một là, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này, Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ”, thành Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã xác định đó là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Hai là, “do nhân dân làm chủ” Cương lĩnh 1991 viết: “do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều chỉnh là “do nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Ba là, “có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.” Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự sự đan xen phức tạp và đang phát triển. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh, bỏ đoạn nói về “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Bốn là, “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.” Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. Năm là, “con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ “bóc lột”. Xét về bản chất và mục tiêu lâu dài trong xã hội ta không còn bóc lột. Nhưng trong quá trình phát triển, hiện tượng bóc lột tồn tại do trình độ sản xuất quy định, và trong thời kỳ quá độ, nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sữa chữa cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” thành “phát triển toàn diện”. Sáu là, “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”. Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ “tương trợ”, phù hợp hơn với thực tế phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, miền, từng dân tộc. Bảy là, “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Các Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này. Tám là, “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Cương lĩnh 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X đã sắp xếp lại, bổ sung thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta. Một là, “ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh 1991 chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nói phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hóa, là quy luật phát triển chung của nhân loại, đến Đại hội IX chúng ta coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định đây là quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hai là, “ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển tất yếu khách quan của các nước từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển. Cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Từ Đại hội VIII, Đảng ta nói công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Đại hội X bổ sung điều này so với Cương lĩnh 1991. Ba là, “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội”. Quan điểm này nhắc lại nội dung Cương lĩnh 1991. Bốn là, “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội X đã xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm là, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây là nội dung được bổ sung so với Cương lĩnh 1991. Đại hội X chỉ rõ phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sáu là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng thường xuyên. Đại hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên quan đến lối sống của Đảng, của chế độ. Bảy là, “bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Tám là, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X khẳng định: “Qua tổng kết lý luân – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Cương lĩnh 1991 đã nêu 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bảy phương hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước. Một là, “ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lây liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”. Phương hương này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Thông qua Nhà nước nhân dân ta có công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ và đúng đắn, cần đấu tranh phê phán quan điểm và hành vi quan liêu, xa quần chúng, quan điểm dân chủ phi giai cấp, dân chủ quá trớn, thiếu kỷ cương…không phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa là phương thức quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời, do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học – công nghệ, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay theo hướng hiện đại. Ba là, “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”. Mặt khác, cần tăng cường vai trò của nền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó là kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Chỉ có trên cơ sở kinh tế này chúng ta mới thực hiện được mục tiêu xóa áp bức bóc lột, xóa sự phân hóa xã hội thành các giai cấp đối kháng. Đây là một trong những vấn đề cơ bản để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế có nhiều hình thức phân phối khác nhau: phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi, nhưng hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Bốn là, “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hôi”. Cách mạng tư tưởng – văn hóa là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền văn hóa mới và con người mới đảm bảo sự phát triển bền vững. Năm là, “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Phương hướng này nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động mọi lực lượng của cộng đồng dân tộc, mọi tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam. Mặt khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ tối đa sức mạnh bên ngoài để kết hợp có hiệu quả sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững; góp phần của nước ta vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân dân thế giới. Sáu là, “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”. Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưg có quan hệ thống nhất với nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước; mặt khác, có đủ khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không phải là coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng Bảy là, “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Phương hướng này quán triệt sâu sắc luận điểm Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp cách mạng; đồng thời chỉ rõ cần thường xuyên nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà V.I.Lenin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, sự thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Theo các phương hướng cơ bản nói trên, mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “…xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hôi, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”. Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoài, phương hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng. Câu 2: Qua buổi đi thực tế ở Bảo tàng Hồ Chí Minh, đồng chí nhận thức được gì sâu sắc nhất, có ý nghĩa với việc rèn luyện bản thân để trở thành người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam? Qua buổi đi thực tế ở Bảo tàng Hồ Chí Minh, em càng hiểu và yêu thêm người chủ tịch vĩ đại của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam_Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo và dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang như ngày nay. Sinh thời, Người hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng thành một khối vững mạnh, trong sạch, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ trở thành con người vừa hồng vừa chuyên. Trong cuộc sống, Người coi trọng cả đức và tài song đức là gốc. Đạo đức của người cách mạng là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại. Nó không vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người cũng như song thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì song cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh dạo được nhân dân. Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người Đảng viên cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Suốt cả cuộc đời Người hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc độc lập, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và cho toàn nhân loại, Người dành tất cả tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, con cháu, già trẻ, gái trai, miền xuôi, miền ngược, Bắc cũng như Nam. Mỗi một bài nói, bài viết, một lời căn dặn, một buổi gặp gỡ, công tác của Người đều chứa đựng ý nghĩa, tư tưởng, hành vi và quan hệ đạo đức cách mạng sang ngời. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đều là tấm gương đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời. Từ đạo đức và sự hi sinh của Người, em luôn cố gắng rèn luyện bản than để trở thành người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Em nhận thấy rằng giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tư tưởng nói riêng. Con người XHCN là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân bởi vì chủ nghĩa cá nhân “như cỏ dại sinh sôi nảy nở rất dễ, là một kẻ địch hung ác của CNXH. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Muốn thành người cách mạng, người cộng sản chân chính thì phải gian khổ mới có được, phải chống chủ nghĩa cá nhân, chốn nó không phải một lần mà hết được mà phải trau dồi đạo đức cách mạng và phải coi đây là công việc hàng ngày của người cách mạng. Bên cạnh đó công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên góp phần xây dựng lý tưởng, cung cố niềm tin một cách vững chắc của cán bộ, Đảng viên, quần chúng nhân dân vào đương lối và sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng về tư tưởng, ý chí và hành động. Là một sinh viên trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân, ngoài việc trau dồi đạo đức bản than: trung với nước, hiếu với dân, trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân; em luôn cố gắng với tinh thần nỗ lực học tập, cầu tiến bộ, yêu lao động, lao động sáng tạo, chông chây lười, ăn bám. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch đều là lao động cả bởi lao động là vẻ vang. Do đó, yêu lao động và lao động sang tạo là một trong những chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Điều đó dồi hỏi cán bộ đảng viên phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt tình và trí tuệ làm cho lao động của mình và của tập thể đạt năng suất ngày càng cao trong lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hôi góp phần xây dựng một nước Việt nam XHCN hiện đại, giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc. Thông qua lao động con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản thân mình thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và không ngừng đáp ứng nhu cầu mọi mặt của đời sống con người, sang tạo những văn minh của nhân loại. Bên cạnh đó còn cố gắng phấn đấu theo 5 tiêu chí sau: Có động cơ vào Đảng đúng đắn. Xây dựng động cơ vào Đảng chính là trong mỗi lời nói, việc làm đều có ý thức chính trị rõ ràng, có lợi cho dân, cho Đảng. Ở đâu, lúc nào, làm gì cũng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Thật đáng quý biết bao, ngay cả khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, chúng ta vẫn thủy chung với Đảng, quyết tâm phấn đấu trở thành đảng viên để góp phần giữ vững chủ nghĩa xã hội, thành quả lịch sử vĩ đại được tạo nên ở sự hy sinh to lớn của cả dân tộc. Trong điều kiện hoà bình, Đảng lãnh đạo chính quyền, xây dựng đất nước ta đi vào kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế, trước ma lực của đồng tiền và sự chống phá của các thế lực thù địch, biết bao người trong chúng ta vẫn nêu cao lý tưởng sống và chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, tận tụy, phục vụ nhân dân. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình hoạt động thực tiễn. Chúng ta cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, chiến đấu hàng ngày nhất là những hoạt động chính trị - xã hội, vận động quần chúng tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ có trải qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng, kiên định. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ai cũng cần có chương trình, kế hoạch học tập; vấn đề gì bức xúc với công việc của mình thì học trước và học thực sự đến nơi đến chốn. Phải học thường xuyên để không bị lạc hậu do nguồn tư duy vơi cạn trong khi thực tế đang tiến nhanh về phía trước. Đối với đảng viên, trước hết phải thực hiện tốt: “chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội. Nhiệt tình tham gia sinh hoạt và công tác đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.. Thử hỏi, một đoàn viên, một hội viên chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm với đoàn thể của mình thì làm sao có thể nêu cao trách nhiệm đối với Đảng. Trước các phong trào và hoạt động diễn ra ở địa bàn nơi cư trú, cần vận động gia đình sốt sắng tham gia với ý thức một công dân và một thành viên tích cực của cộng đồng. Mỗi cuộc vận động đều mang ý nghĩa chính trị nhất định, người đang phấn đấu vào Đảng không thế có thái độ miễn cưỡng, thờ ơ đứng ngoài cuộc. Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, chúng ta chẳng những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37347.doc
Tài liệu liên quan