Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Các ông đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Phù hợp với lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, Ph. Ăng-ghen cho rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Ph. Ăng-ghen đã đóng góp quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành vũ khí sắc bén, ngọn đuốc soi đường cho phong trào đấu tranh giai cấp công nhân giành thắng lợi, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp cho mình”. Có thể khẳng định việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phát kiến vĩ đại thứ ba cùng với hai phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, càng làm cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học.
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4650 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hứng sinh động, vững chắc khẳng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác được thể hiện trong tuyên ngôn. Xu hướng toàn cầu hóa đã được dự báo trong tuyên ngôn. “Nền đại công nghiệp đã xây dựng nên thị trường thế giới vốn được chuẩn bị từ khi phát hiện ra châu Mỹ”, “Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ khắp nơi”(5) . Toàn cầu hóa rõ ràng là gắn liền với chủ nghĩa tư bản và hiện nay cũng đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ, hay nói cách khác, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang đi trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đảng ta xác định: chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là sự vận dụng đúng đắn quy luật phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục tối đa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người lao động đều được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do mình tạo ra, toàn xã hội quan tâm đến xóa đói giảm nghèo. Ngày nay, do phải đối mặt với CNXH hiện thực, phải đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên dù bản chất áp bức, bóc lột tàn bạo không thay đổi nhưng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự điều chỉnh. Sự điều chỉnh này làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đổi như việc quan tâm đến người thất nghiệp, cho công nhân mua cổ phần, phát triển phúc lợi xã hội... Nhưng thực chất đó là việc trích một phần nhỏ giá trị thặng dư mà chủ nghĩa tư bản bóc lột được để nhằm xoa dịu đấu tranh giai cấp, bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Ngay cuối năm 2007, ở nước Mỹ với dân số 301 triệu người thì vẫn có đến 35 triệu người đói, 11 triệu người không biết đọc, tội phạm gia tăng, tỷ lệ tù nhân trên đầu người cao nhất thế giới. Trong khi đó chính phủ Mỹ đã chi cho 2 cuộc chiến tranh I Rắc và Apganixtan lên đến 700 tỷ USD (Báo Nhân dân ngay 6/1/2008). Như vậy, bản chất của chủ nghĩa tư bản như đã trình bày trong tuyên ngôn đó là bản chất bóc lột - do chế độ tư hữu quy định, vẫn không hề thay đổi. Giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản luôn chạy theo lợi nhuận, nó không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” không tình, không nghĩa. Vì vậy, tuyên ngôn đã đặt ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người thoát khỏi áp bức bóc lột. Tuyên ngôn nêu lên mục tiêu, bản chất của xã hội tương lai là sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả mọi người. Tóm lại, sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời và chín muồi của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống bền vững của tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống đó đã được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng qua nhiều lần thử thách nghiệt ngã. Giá trị, sức sống và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn vẫn được khẳng định bằng thực tiễn cách mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải cách, đổi mới với nhiều thành tựu của Trung Quốc, Việt Nam, sự đứng vững của nước Cu ba XHCN trước sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, các phong trào cánh tả ở Châu Mỹ la tinh với khẩu hiệu “CNXH thế kỷ XXI”... là những minh chứng về tác động và ý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước hết giúp Đảng có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 160 năm là quãng thời gian dài so với đời của một con người, nhưng lại là ngắn so với lịch sử tiến hóa của nhân loại. Vượt qua thời gian của lịch sử, những giá trị của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bất diệt, là mặt trời, là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới tương lai ./.
Những cống hiến lớn lao của Ph. Ăng-ghen vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay.
Khi đánh giá công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, V.I. Lê-nin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác và Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Phri-đrích Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.(1)
Mặc dù Ph. Ăng-ghen rất khiêm tốn, luôn luôn tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh C. Mác, luôn khẳng định vai trò sáng lập hàng đầu thuộc về C. Mác, song qua lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác, chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn, dấu ấn không thể nào phai của Ph.Ăng-ghen. C. Mác đánh giá Ph. Ăng-ghen là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa xã hội hiện đại, còn V.I. Lê-nin thì khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăng-ghen”.(2)
Chúng ta đều biết rằng chủ nghĩa Mác là một hệ thống hoàn chỉnh, toàn vẹn và chặt chẽ bao gồm ba bộ phận cấu thành không thể tách rời: triết học mác-xít mà nội dung của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học mà nền tảng là học thuyết giá trị thặng dư, và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với hai phát hiện khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và với vai trò tổ chức, giáo dục phong trào công nhân quốc tế, cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học với tính cách là học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Các ông đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Phù hợp với lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, Ph. Ăng-ghen cho rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Ph. Ăng-ghen đã đóng góp quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành vũ khí sắc bén, ngọn đuốc soi đường cho phong trào đấu tranh giai cấp công nhân giành thắng lợi, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp cho mình”. Có thể khẳng định việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phát kiến vĩ đại thứ ba cùng với hai phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, càng làm cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học.
Theo Ph. Ăng-ghen, giai cấp công nhân có 2 đặc điểm cơ bản là: 1- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại trong nền sản xuất mang tính xã hội hóa cao. Giai cấp công nhân là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại; 2 - Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị tư bản bóc lột về giá trị thăng dư vì họ không có tư liệu sản xuất. Ông khẳng định: Người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản; giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa. Mặc dù là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại, là “lực lượng sản xuất hàng đầu” như V.I. Lê-nin khẳng định, giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa không những về đời sống vật chất (tiền công thấp, chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, tình trạng thất nghiệp, vấn đề nhà ở khó khăn, việc sử dụng lao động nữ và trẻ em không phù hợp) mà cả về đời sống tinh thần như tình trạng thất học, không có điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần.
Từ thực tế này trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là: “Sản xuất đã trở thành một hành vi xã hội; trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt: sản phẩm của lao động xã hội bị nhà tư bản cá thể chiếm hữu. Đó là mâu thuẫn cơ bản, từ đó nảy sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong đó xã hội hiện nay đang vận động, những mâu thuẫn mà đại công nghiệp đang làm cho thấy đặc biệt rõ: Tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất. Giam hãm người lao động vào trong chế độ lao động làm thuê suốt đời. Sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”(3).
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, có trình độ xã hội hóa ngày càng cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại hiện nay, đó là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp của xã hội. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức tiến trình cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, như Ph. Ăng-ghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện khách quan quy định”.
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, giai cấp công nhân cũng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Khi chủ nghĩa Mác xâm nhập phong trào công nhân, sự kết hợp này đã dẫn đến sự ra đời của đảng cộng sản. Lúc này, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế chuyển sang đấu tranh chính trị. Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh, trong cuộc đấu tranh chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, chỉ khi giai cấp vô sản tự tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp độc lập được. Như vậy đảng cộng sản là yếu tố quyết định để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính V.I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen giả định, chủ nghĩa xã hội ra đời từ xã hội tư bản phát triển trình độ cao, điều này phù hợp với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội coi sự phát triển của xã hội loài người như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nhiệm vụ khoa học của hai ông không phải vạch ra mô hình của chủ nghĩa xã hội với mọi chi tiết của nó, đúng như V.I. Lê-nin đã khẳng định “Trong tài liệu của Mác, người ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”(4). Còn C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn nhấn mạnh quan điểm “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo” mà là “một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Cái “trạng thái hiện nay”, theo Ăng-ghen bao gồm:
Thứ nhất, là đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Thứ hai, là tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, kết quả của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã phân tích hết sức khoa học sự phát triển của xã hội mới, dự báo một cách thiên tài hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản, với giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, mà về mọi phương diện nó còn mang những tì vết của chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn dấu vết của pháp quyền tư sản thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Do vậy, trong giai đoạn này vẫn phải thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, đến giai đoạn sau khi lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cao, các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi mới đủ điều kiện để thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Ph. Ăng-ghen đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Muốn đối xử với chủ nghĩa xã hội như là một học thuyết khoa học, cần phải đặt nó trên một mảnh đất hiện thực. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, khi phê phán Đuy-rinh đã có thái độ phủ định sạch trơn đối với tư tưởng của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng như Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê, Ô-oen, Ph. Ăng-ghen khẳng định: những ý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng là sự phản ánh chưa trưởng thành của chủ nghĩa tư bản và chỉ ra nguyên nhân của sự chưa chín muồi những ý tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng "Tương ứng với một trạng thái chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa trưởng thành, là những lý luận chưa trưởng thành. Việc giải quyết những nhiệm vụ xã hội còn ẩn giấu trong những quan hệ kinh tế chưa phát triển"(5). Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, về nội dung thì nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội bắt rễ sâu xa từ những sự kiện kinh tế: một mặt, có sự đối lập giai cấp giữa hai giai cấp xã hội trong xã hội tư bản: công nhân làm thuê và nhà tư sản; và mặt khác, giữa hai tầng lớp xã hội chủ yếu: tầng lớp người có của và tầng lớp người không có của.
Chính vì xuất phát trên cơ sở hiện thực, nên chủ nghĩa xã hội đã chuyển biến từ không tưởng thành khoa học. Nói cách khác, việc nhận thức quá trình lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, phân tích những mâu thuẫn và xung đột cơ bản chứa đựng trong chế độ đó đã giúp chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời. Ăng-ghen viết: "Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột ấy, trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ vì sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân".(6)
Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản viết năm 1847, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa cộng sản là đối lập với chế độ tư hữu, và sẽ có lý khi các đảng cộng sản đều khẳng định mục tiêu của mình là xóa bỏ chế độ tư hữu. Tuy nhiên, khi được hỏi có nên xóa bỏ chế độ tư hữu hay không sau khi cách mạng vô sản thành công, Ph. Ăng-ghen trả lời dứt khoát rằng: “Không, không và không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất có thể tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu”. Cho nên, chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu.
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ, để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển. Chính vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã chủ trương nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân, không thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng hướng nội là chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế. Mô hình này đã lâm vào khủng hoảng sâu sắc vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX.
Ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, chúng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng"(7).
Phương châm xuất phát từ hoạt động thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận lý luận khoa học đúng đắn, phục vụ tốt hơn nữa cho hoạt động thực tiễn, đã được Ph. Ăng-ghen kiên trì áp dụng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông.
Một trong những hoạt động thực tiễn cách mạng của Ph. Ăng-ghen là tiến hành cuộc đấu tranh thành lập đảng và tổ chức cách mạng quốc tế của giai cấp vô sản - một điều kiện quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Chính trong cuộc đấu tranh này, Ph. Ăng-ghen có những cống hiến có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân: trong vòng hơn 40 năm kể từ khi gặp C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã cùng với C. Mác xây dựng một học thuyết cách mạng khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học; tổ chức giáo dục những đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen đã tiếp tục đấu tranh, bảo vệ, củng cố và phát huy những thành tựu đã đạt được để đưa phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng phát triển.
Cống hiến của Ph. Ăng-ghen đối với phong trào công nhân quốc tế được thể hiện sinh động thông qua 10 năm tồn tại của Quốc tế I và hoạt động của ông trong phong trào công nhân quốc tế cho đến tận cuối đời. Sau khi Quốc tế I ngừng hoạt động, rồi Quốc tế II ra đời, vấn đề thống nhất phong trào công nhân quốc tế, đặc biệt là sự thống nhất tư tưởng của phong trào được Ph. Ăng-ghen hết sức quan tâm. Ông đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết chống những khuynh hướng tư tưởng ảnh hưởng xấu đến phong trào công nhân, nhất là đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa vô chính phủ, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác với tính cách là cơ sở nền tảng tư tưởng, lý luận của phong trào công nhân luôn luôn được Ph. Ăng-ghen chú trọng đặt lên hàng đầu. Chống Đuy-rinh là một trong những tác phẩm lý luận tiêu biểu mà Ph. Ăng-ghen viết để đập tan những quan điểm lý luận phi mác-xít đang truyền bá trong Đảng Dân chủ - Xã hội Đức vào cuối những năm 80 của thế kỷ XIX.
“Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph. Ăng-ghen”.
V.I. Lê-nin
Sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen tập trung sức lực và trí tuệ tiếp tục sự nghiệp tổ chức, giác ngộ công nhân và bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ này, Ăng-ghen đã đảm đương một khối lượng công việc vô cùng nặng nề, khó khăn để chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản Quyển II, Quyển III bộ Tư bản - tác phẩm kinh tế chính trị vĩ đại nhất của thế kỷ XIX. Với công trình này, "Ph. Ăng-ghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ph. Ăng-ghen cũng không ngờ đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được". Sau đó, ông đã tích cực tìm mọi cách để phổ biến rộng rãi tác phẩm Tư bản cũng như những tác phẩm mác-xít khác trong giai cấp công nhân, nhằm nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân, nâng cao tính tự giác của phong trào công nhân.
Có thể nói, công lao của Ph. Ăng-ghen đối với giai cấp công nhân chính là ở chỗ Ph.Ăng-ghen đã cùng với C. Mác, bằng hoạt động lý luận và thực tiễn "dạy cho công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng"(8). Những cống hiến vĩ đại của ông đối với phong trào công nhân quốc tế đời đời bất diệt.
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăng-ghen trong điều kiện cụ thể của đất nước mình. Chính V. I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được.
Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, cần có sự sáng tạo, khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị xuyên tạc méo mó.
Ở Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn sự phát triển của đất nước cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định thành tựu và cách làm trước đây, mà là khẳng định những gì trước kia hiểu đúng làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù hợp, bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, dùng lý luận tư tưởng đó làm cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định đường lối đổi mới.
Những tư tưởng của Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa xã hội khoa học đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh xu thế hội nhập toàn cầu, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, hướng đến mục tiêu chung “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”./.
Chủ nghĩa Mác và thời đại ngày nay
Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta...
Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời, phát triển đã trải qua và đứng vững trước nhiều đợt tiến công của kẻ thù tư tưởng đủ các loại màu sắc. Trong những năm gần đây, trên nhiều diễn đàn và nhiều trang báo chí ở phương Tây, ở các nước Đông Âu, Liên Xô (trước đây) và trong một vài trường hợp ở nước ta, với những mức độ khác nhau, đã nổi lên một chiến dịch đả kích chủ nghĩa Mác. Đầu tiên là những bài phê bình “thận trọng” một số luận điểm, đưa ra một vài khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác, rồi sau đó tiến tới sự phê phán những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, coi học thuyết Mác - Lê Nin đã thuộc về quá khứ, không còn phù hợp với thời đại ngày nay, và cuối cùng là phủ định chủ nghĩa Mác nói chung.
Việc bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và phê phán chủ nghĩa Mác đang như là cái mốt thời thượng. Số lượng những người tham gia vào công việc này có phần tăng thêm. Ngoài những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác từ trước tới nay và những người theo khuynh hướng phi mác-xít trong phong trào công nhân quốc tế, điều đáng ngạc nhiên là có những nhân vật mới đây thôi còn tự coi mình là trung thành với chủ nghĩa Mác, thì hôm nay quay ra công kích Mác một cách
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_khoa_hoc_va_y_nghia_thuc_tien_cua_tac_pham_136.doc