Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp nguồn gốc, xuất xứ hàng ho

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1

B. PHẦN NỘI DUNG 2

I. Hàng giả và tác hại của nó 2

1. Khái niệm về hàng giả 2

2. Các hình thức làm giả 2

a. Giả về chất lượng hoặc công dụng 3

b. Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá 3

c. Giả về nhãn hàng hoá 4

d. Các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá 4

3. Tác hại của hàng giả 4

II. Thực trạng sản xuất và buôn bán, làm hàng giả ở Việt Nam 5

1. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam 5

2. Nguyên nhân dẫn đến nạn làm hàng giả trên thị trường Việt Nam 6

III. Một số biện pháp khắc phục 7

1. Đối với các cấp, các ngành 7

2. Đối với doanh nghiệp 9

3. Đối với người tiêu dùng 9

KẾT LUẬN 10

TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

 

doc12 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp nguồn gốc, xuất xứ hàng ho, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Phần Mở đầu Sau Nghị quyết Đại hội Đảng (1986) nền kinh tế nước ta bước sang thời kỳ mới. Xây dựng một nền kinh tế với sự giao lưu mở thị trường thu hút đầu tư quốc tế tạo động lực xây dựng một nền kinh tế năng động, đa dạng nhiều chiều cùng với sự mở rộng giao lưu hợp tác đó nền kinh tế Việt Nam còn đối đầu với nhiều thách thức đó là xu hướng cạnh tranh theo hai hướng. Cạnh tranh tích cực và cạnh tranh tiêu cực. Bên cạnh những doanh nghiệp rất nỗ lực để đổi mới công nghệ, tìm tòi, sáng tạo... nên đã tạo ra được những sản phẩm tốt được người tiêu dùng ưa thích, thì không ít kẻ vì lợi nhuận trước mắt bất chấp đạo đức, pháp luật để sản xuất và buôn bán hàng giả. Ngoài ra hàng giả ở nước ngoài cũng tràn ngập vào thị trường Việt Nam phá hoại sản xuất và lừa dối người tiêu dùng. Đó là những bức xúc đấu tranh chống hàng giả trên các mặt trận kinh tế, hình sự và quản lý Nhà nước trong kinh doanh. B. Phần nội dung I. Hàng giả và tác hại của nó 1. Khái niệm về hàng giả Theo Nghị định số 140/HĐBT-CP ngày 25/4/1991 có các hình thức sau được coi là hàng giả. Sản phẩm kể cả hàng hoá nhập khẩu có sản phẩm giả mạo hoặc sản phẩm của một cơ sở khác sản xuất mà không được chủ hàng đồng ý. Sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, cục sáng chế hoặc đã được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu không đúng với sản phẩm đã được đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Sản phẩm hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng có mức chất lượng thấp hơn, mức độ tối thiểu cho phép. Sản phẩm hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó. 2. Các hình thức làm giả Theo Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT/BTM-BTC - BCA - BKHCNMT ngày 27/4/2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Công an, Khoa học Công nghệ và Môi trường. (hướng dẫn chỉ thị 31 của Thủ tướng Chính phủ về chống sản xuất và buôn bán hàng giả), hàng hoá có dấu hiệu sau thì được coi là hàng giả. a. Giả về chất lượng hoặc công dụng Hàng có giá trị sử dụng không đúng như bản chất tự nhiên tên gọi và công dụng của nó. Hàng hoá được thêm tạp chất, chất phụ da không được sử dụng làm thay đổi chất lượng, có chứa được chất khác với tên dược chất ghi trên nhãn bao bì, không có hoặc không đủ hoá chất, chất hữu hiệu không đủ gây nên công dụng, có hoạt chất hữu hiệu ghi trên bao bì. Hàng hoá không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay đổi bằng những nguyên liệu, phụ tùng không đảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi trường, môi sinh. Hàng hoá thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng và không thực hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi trường, môi sinh. Hàng hoá chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hoá bắt buộc). b. Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá Hàng có nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự gây nhầm với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia mà không được phép của chủ nhãn hiệu. Hàng hoá có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ. Hàng hoá, bộ phận hàng hoá có hình giống bên ngoài trung với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng chấp nhận. Hàng hoá có cấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá, dấu hiệu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hoá. c. Giả về nhãn hàng hoá Hàng hoá có nhãn giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hoá của cơ sở khác đã công bố. Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hoá không phù hợp với chất lượng hàng hoá nhằm lừa dối người tiêu dùng. Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xoá, sửa đổi ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng. d. Các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá Các loại đề can, tên sản phẩm, nhãn hàng hoá bao bì có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với hàng hoá cùng loại, với nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ được bảo hộ. 3. Tác hại của hàng giả Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cơ chế thị trường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ trong sản xuất đưa những sản phẩm hàng hoá dịch vụ phong phú đa dạng. Người tiêu dùng được quyền lựa chọn và mua sản phẩm an toàn và chất lượng bên cạnh đó do chạy theo lợi nhuận. Cơ sở sản xuất đã tự đưa ra thị trường những hàng hoá kém chất lượng hàng "nhái" nhãn mác, hàng giả đánh lừa người tiêu dùng làm thất thu ở các doanh nghiệp làm ăn chân chính, nền kinh tế trì trệ, ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường môi sinh. * Đối với người tiêu dùng Làm cho người tiêu dùng mất đi niềm tin vào sản phẩm vì họ không tìm thấy giá trị đích thực mà mình mong muốn và gây thiệt hại về tài sản về sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng khi mua phải hàng giả, kém chất lượng. * Đối với doanh nghiệp Hàng giả gây thiệt hại lớn về mặt tinh thần cũng như tiền của của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn làm ăn chân chính thì mất hết uy tín đối với khách hàng. Sản lượng bán ra không nhiều gây thất thu lớn và các doanh nghiệp phải đầu tư một lượng tiền khá lớn vào việc chống hàng giả và việc cải tạo nhãn mác vào việc cải tạo sản phẩm của mình sao cho hàng giả không thể nhái theo nhãn mác của Công ty mình. * Đối với Nhà nước Làm thất thu ngân sách Nhà nước, rối loạn trật tự quản lý kinh tế. Các cơ quan điều tra phải đối phó với các thủ đoạn tinh vi. II. Thực trạng sản xuất và buôn bán, làm hàng giả ở Việt Nam 1. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam Tình hình hàng giả ở Việt Nam hiện nay đang là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Nó diễn biến khá phức tạp và ngày càng tinh vi. Đặc biệt là ở vùng giáp danh giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi có trình độ dân trí còn thấp, phương tiện giao thông đi lại còn khó khăn. Các cơ quan chức năng và chính quyền còn thiếu chặt chẽ trong quản lý kiểm tra. Thống kê của Cục Cảnh sát kinh tế từ 1997-2001 đã phát hiện 3564 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả. Theo số liệu của quản lý thị trường thuộc bộ thương mại đầu năm đến nay trung bình mỗi tháng các cơ quan chống hàng giả thu giữ hàng trăm hàng giả, khong chỉ hàng tiêu dùng hàng ngày mà cả các loại vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu... cũng bị làm giả. Đặc biệt là năm 2001 cơ quan quản lý thị trường đã xử lý tới 45% vụ làm hàng giả là thực phẩm, dược phẩm liên quan đế sức khoẻ, cuộc sống người tiêu dùng. Tính từ 1998 đến nay số vụ làm hàng giả có xu hướng ngày càng tăng, năm 1998 có khoảng 2000 vụ thì năm 2000 có tới 2936 vụ. Năm 2001 số làm hàng giả vẫn không giảm, tính chất làm hàng giả ngày càng phức tạp và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn trước rất nhiều. Do vậy việc phân biệt chúng vô cùng khó khăn. Đáng chú ý là hàng giả theo lĩnh vực nhập khẩu đã xuất hiện tệ nạn đặt hàng giả theo yêu cầu từ nước ngoài nhập khẩu vào trong nước và đặt hàng giả để xuất ra nước ngoài có dấu hiệu tăng lên đáng kể. Hàng giả nhãn hiệu, kiểu dáng, xuất xứ khá phổ biến như: máy tính CASIO, Đồng hò RADO, LOGIN, nội thất AMERICA phụ tùng xe máy HONDA... trong một số mặt hàng đã lên đến mức báo động. Tuy nạn hàng giả đã tràn ngập trên thị trường Việt Nam song người tiêu dùng thì vẫn chưa có cách gì để nhận biết đâu là hàng thật đâu là hàng giả, nên việc mua nhầm hàng giả vẫn diễn ra liên tục trên thị trường ngày càng nhiều. Theo kết quả khảo sát xã hội học về "thái độ của người dân đối với hàng giả trong lĩnh vực thương mại" tại thành phố Hạ Long Quảng Ninh (tháng 8/2002) thì có tới 58% số người được hỏi từng mua hàng giả. Trong đó số người mua phải hàng giả do không nhận biết được là 73%, số biết hàng giả nhưng vẫn mua (chủ yếu là hàng có giá trị không lớn, rẻ tiền) chỉ chiếm 22,2%. Điều này cho thấy người dân không nhận biết được hàng giả bán trên thị trường chiếm tỷ lện cao (gần 30%) kết quả nghiên cứu còn cho thấy. Nhu cầu được hướng dẫn cách nhận biết hàng giả của người dân chiếm tới 83% số người được hỏi. Nếu thường xuyên hướng dẫn cách nhận biết cho người dân thì hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả sẽ cao hơn. Bởi vì khi đó hàng giả sẽ ít cơ hội được tiêu thụ và tồn tại trên thị trường Việt Nam. 2. Nguyên nhân dẫn đến nạn làm hàng giả trên thị trường Việt Nam Hàng giả tồn tại trong mọi lĩnh vực, thực sự là một tệ nạn xã hội, gây tác hại to lớn đến lợi ích người tiêu dùng song một trong những nguyên nhân chủ yếu là từ phía sản xuất nhằm thu lợi nhuận cao các cơ sở này đã tìm mọi cách thay thế vật liệu dởm, rẻ tiền để sản xuất hàng hoá với chi phí thấp nhất mà vẫn bán được giá cao, thu lợi nhuận nhiều. Nguyên nhân thứ hai là do người tiêu dùng không nhận biết được hàng giả. Việc quản lý nhãn mác của các cơ sở sản xuất chính hiệu, sản phẩm dịch vụ có uy tín còn lỏng lẻo cơ chế quản lý Nhà nước chưa đồng bộ, một số luật liên quan đến sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp và lợi ích người tiêu dùng được đề ra quá chậm và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Nguyên nhân thứ ba là một số bộ phận người tiêu dùng có tâm lý dễ chấp nhận với hàng hoá theo quan niệm "tiền nào của ấy" khi hàng oá rẻ, phù hợp với thu nhập thì họ mua về để dùng. Nguyên nhân thứ tư là chúng ta chưa làm tố công tác tuyên chuyền và cung cấp những kiến thức cơ bản cho người tiêu dùng về chất lượng hàng hoá. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả để nhận biết, tham gia đấu tranh phòng ngừa. nguyên nhân thứ năm: là tình trạng thất nghiệp thiếu công ăn việc làm, 1 số bộ phận người sản xuất ít vốn không có kỹ thuật đã phản ứng tiêu cực, sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác hàng hoá của các cơ sở khác để nhằm duy trì sự tồn tại của họ. Nguyên nhân thứ sáu việc phối hợp đấu tranh giữa các ngành, lực lượng chức năng chưa đồng bộ, chưa có sự thống nhất cao, công tác giám định chưa đáp ứng nhu cầu đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả không có hoặc rất ít hạn chế kết quả của chúng. III. Một số biện pháp khắc phục Để khắc phục vấn đề này không chỉ là các cấp các ngành mà còn đối với toàn thể nhân dân nhất là các doanh nghiệp và người tiêu dùng. 1. Đối với các cấp, các ngành Chính quyền và các cấp ban ngành chức năng các cấp cần có chính sách mở rộng sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động phải thực sự quan tâm tạo điều kiện phát huy sản xuất, từng bước nâng cao mức thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho cán bộ công nhân viên và nhân dân về vật chất, đồng thời tích cực vận động mọi người dân tự nguyện, tích cực tố cáo, tố giác tội phạm, không tham gia vào buôn bán sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng. Công tác đấu tranh phòng chống sản xuất và buôn bán hàng giả phải kịp thời, có tác dụng giáo dục răn đe phòng ngừa tội phạm. Trưng bày, triển lãm hàng thật, hàng giả ở từng địa phương. Đưa chúng ra để giúp mọi người mọi tầng lớp xã hội ý thức được tác hại ghê ghớm của hàng giả, giúp họ có thêm thông tin cần thiết, phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả. Qua đó tập hợp được cộng đồng dân cư cùng các cơ quan chức năng tham gia bài trừ hàng giả, hàng kém chất lượng. Qua việc triển lãm giúp cho người tiêu dùng có thêm ý thức thông tin để phân biệt được hàng giả, hàng thật hiểu được tác hại ghê ghớm của nó, để không bao giờ mua nhầm hàng. Đồng thời tích cực tố giác với các cơ quan chức năng những cơ sở, ổ nhóm sản xuất, tàng trữ kinh doanh hàng giả. Đồng thời cũng giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ ràng, muốn sản xuất và kinh doanh tốt cần phải tuân theo quy định của pháp luật. Cụ thể là tuân theo tám nội dung bắt buộc ghi trên nhãn hàng hoá, theo quyết định 178/1999 QĐ-TTG ngày 30/8/1990 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và xuất khẩu tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng người tiêu dùng biết rõ tên cơ sở sản xuất, địa chỉ, điện thoại để có thể đối chiếu hoặc khiếu nại khi xảy ra sự cố về chất lượng hàng hoá và đây cũng là dịp để các nhà doanh nghiệp nghiên cứu thị trường dành lại thị phần đã mất do nạn hàng giả, hàng kém chất lượng. Rà soát lại các văn bản pháp quy, xem cái nào phù hợp để sửa đổi, bổ sung cần cụ thể hoá các chế tài và làm rõ mức nào thì khởi tố hình sự, mức nào thì xử lý hành chính, nâng cao một số khung hình phạt về hành vi lưu thông tàng trữ và buôn bán hàng giả. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, thanh tr định kỳ sau cấp phép, quản lý chặt chẽ các cơ sở kinh doanh trên địa bàn, kịp thời phát hiện kiên quyết xử lý, đối với các tổ chức cá nhân vi phạm. Và một điều rất quan trọng là đầu tư thoả đáng cho công ty trong công tác chống hàng giả. Ngoài quỹ chống hàng giả Nhà nước nên tài trợ kinh phí từ ngân sách tạo điều kiện cho các lực lượng chức năng thực thi công vụ thuân lợi hơn/ 2. Đối với doanh nghiệp Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải chủ động bảo vệ chất lượng mẫu mã, quản lý bao bì nhãn mác hàng hoá của cơ sở mình, chức năng trong việc tuyên truyền hàng thật hàng giả để chủ động phát hiện phối hợp với các lực lượng chức năng trong công tác đấu tranh phòng chống và buôn bán hàng giả. Doanh nghiệp chủ động đổi mới bao bì đồng thời dán tem chống hàng giả cho các sản phẩm của mình. 3. Đối với người tiêu dùng Khi mua hàng phải đọc kỹ nhãn mác, sản phẩm nhái và phải góp phần hỗ trợ các chi cục quản lý thị trường phòng chống và đẩy lùi các tệ nạn hàng giả, phải khai báo các đối tượng sản xuất ấy cho nhà chức trách kịp thời, không tiếp tay cho bọn xấu. Kết luận Thực trạng sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam diễn biến khá phức tạp và ngày càng tinh vi. Hàng giả tràn ngập ở mọi nơi, từ những mặt hàng cao cấp cho đến những mặt hàng rẻ tiền, từ những mặt hàng tư liệu sản xuất cho đến các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đâu đâu cũng có hàng giả. Hàng giả đã và đang là nguy cơ đối với các nhà sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư sản xuất nhiều mặt hàng còn ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng người tiêu dùng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lưu thông của doanh nghiệp, làm nản lòng các nhà đầu tư. Hiện nay trên thị trường xuất hiện rất nhiều những mặt hàng giả với khối lượng lớn nhằm đánh lừa thật giả, giả thật. Đối với người tiêu dùng gây cho họ thiệt hại về tài sản và sức khoẻ. Đã đến lúc chúng ta phải rung lên hồi chuông báo động về hàng giả. Chúng ta phải tuyên chiến với hàng giả, phải xử lý nghiêm minh đối với những kể sản xuất, kinh doanh hàng giả. Nói tóm lại, qua phân ở trên ta thấy hàng giả là vấn đề càn quan tâm của các cấp các ngành cũng như mọi người dân. Hy vọng, bằng nỗ lực của các lực lượng chống hàng giả, bằng biện pháp hữu hiệu của Nhà nước và môi trường kinh donah trong sạch hơn. tài liệu tham khảo - Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về hàng giả và vấn đề đấu tranh trong phòng chống sản xuất và buôn bán hàng giả của Trần Ngọc Việt thời báo Nhà nước và pháp luật số 8/2001. - Hàng giả cuối năm của Hà Giang Minh báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh 2/12/2001. - Báo Thương mại số 9, 1-10/2001 và số 16 (1-10) 6/2001. - Văn bản về pháp luật tố tụng hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam (140 -CP). - Kinh doanh và Pháp luật số36-4/3/2001. - Kinh tế Sài Gòn số 37 - 6/9/2001. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0848.doc
Tài liệu liên quan