Giải pháp chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo của tổng công ty lương thực miền nam vinafood 2

 Vào những tháng cuối năm 2007, ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn. Việc thu mua gạo gặp trở ngại do giá gạo trong nước tăng cao cùng với nguồn cung bị hạn chế bởi nhiều yếu tố. Trước diễn biến phức tạp đó, việc thu mua gạo của công ty Vinafood 2 cũng gặp khó khăn đáng kể. Nhìn chung lượng gạo xuất khẩu giảm đi 1 triệu tấn so với năm 2006 (4 triệu tấn).

 Tuy nhiên, với sự thay đổi kịp thời trong việc điều hành và lên kế hoạch cân đối giữa lượng gạo xuất khẩu cũng như giá thu mua. Tình hình xuất khẩu gạo của công ty năm 2008 có những chuyển biến rõ nét, tiêu biểu là đã xuất được 100.000 tấn gạo loại 5% tấm sang Malaysia. Đây là hợp đồng có sản lượng lớn nhất được ký trong vòng 02 tháng trong năm. Điều này có tác động tích cực tới tình hình mua bán lúa gạo trong nước khi thị trường trầm lắng và giá cả đi xuống.

 Cũng trong năm này, công ty được ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV cung ứng vốn và các dịch vụ tài chính để đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả, ổn định nguồn thu mua, xuất khẩu lúa gạo và các nông sản khác, nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam. Nhưng cuối năm 2008, quyết định tạm ngừng xuất khẩu gạo của Chính phủ (vì an ninh lương thực) càng làm cho thị trường lúa gạo trong nước trở nên phức tạp khi trước đó tình hình xuất khẩu khá căng thẳng, giá gạo tăng mạnh

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2949 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo của tổng công ty lương thực miền nam vinafood 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trên thế giới, hoạt động thương mại quốc tế diễn ra hết sức sôi nổi, mạnh mẽ. Tuy là một nước nông – công nghiệp nhưng Việt Nam cũng góp một phần vào nền thương mại thế giới qua các hoạt động xuất khẩu nông sản mà gạo là sản phẩm khá nổi bật. Tự hào là nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Nguồn ngoại tệ thu được từ hoạt động này là nguồn vốn không nhỏ cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Nhìn chung, thị trường gạo ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật công nghệ,… Do đó, từ những năm 2007, 2008 đến nay, các nhà xuất khẩu gạo nước ta đã tập trung thực hiện nhiều chiến lược, giải pháp nhằm đầy mạnh xuất khẩu gạo, giữ vững và nâng cao sản lượng gạo xuất ra thế giới. Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 – doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò vị trí quan trọng trong ngành lương thực, đặc biệt là xuất khẩu gạo. Để khẳng định vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đồng thời đưa ra định hướng và một số giải pháp chiến lược nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung và công ty nói riêng. Nhóm chúng tôi đưa ra “GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN NAM VINAFOOD 2”. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM. Giới thiệu ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam. Năm 2009, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Nếu trong năm 2009, Thái Lan xuất khẩu 8,57 triệu tấn gạo, trị giá 5 tỉ USD thì khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là 5,950 triệu tấn, chiếm 15% tổng mậu dịch gạo của toàn cầu. Tên nước 2008/2009 2009/2010 1 Thailand (Thái Lan) 8.570 10.000 2 Vietnam (Việt Nam ) 5.950 5.500 3 United State (Hoa Kỳ) 3.100 3.150 4 Pakistan 3.000 3.800 5 India (Ấn Độ) 2.000 2.000 6 Myanma 1.052 800 7 Uruguay 926 750 8 Cambodia (Campuchia) 800 800 9 China (Trung Quốc) 760 1.500 10 Brazil (Braxin) 650 300 Thế giới 29.029 30.845 Thống kê-dự báo của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ về 10 nước xuất khẩu gạo (Nguồn: Vinanet thuộc Bộ Công Thương Việt Nam) Hiện nay Việt Nam có trên 200 nhà xuất khẩu gạo. Trong đó, chiếm thị phần nhiều nhất là Tổng công ty Lương thực Miền Bắc và Tổng công ty Lương thực Miền Nam (61%). Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam. Gạo Việt Nam xuất khẩu đi gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Mali, Hong Kong, Campuchia,… Hiện nay, có thể khẳng định châu Á là thị trường truyền thống của gạo Việt Nam (chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo). Trong đó, Philippines, Malaysia là hai thị trường mà Việt Nam xuất khẩu gạo nhiều nhất. Xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang đây gần 1,7 triệu tấn gạo, trị giá hơn 912 triệu USD. Thị trường xuất khẩu lớn tiếp theo của hạt gạo Việt Nam phải kể đến là Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008 đã vươn lên thứ hai với hơn 611.000 tấn, trị giá khoảng 271 triệu USD. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD). Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu USD). Đài Loan (203.000 tấn và 81 triệu USD). Iraq (168.000 tấn và 68 triệu USD). TỒNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN NAM VINAFOOD 2 Giới thiệu về công ty. Lịch sử hình thành. Năm 1975, Tổng công ty được thành lập với tên gọi Tổng công ty lúa gạo miền Nam. Tháng 7/1978: Tổng công ty được đổi tên thành Tổng công ty lương thực miền Nam. Tháng 9/1986: Tổng công ty được đổi tên thành Tổng công ty lương thực khu vực II. Tháng 11/1987: Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định thành lập Tổng công ty lương thực Trung ương (Vinafood). Lúc này, Tổng công ty trở thành Cơ quan đại diện Tổng công ty lương thực trung ương đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 01/1990: thành lập lại Tổng công ty lương thực Trung ương II (Vinafood II). Tháng 5/1995: Tổng công ty lương thực miền Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Tổng công ty lương thực Trung ương II, Công ty lương thực Trung ương III và các đơn vị kinh doanh lương thực từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào. Tổng công ty lúc này còn được gọi là Tổng công ty 91 (hạng đặc biệt). Tháng 7/2003: Tổng công ty bắt đầu thực hiện lộ trình sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước và thí điểm chuyển sang tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con. Tháng 12/2005: Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 333/2005/QĐ-TTg ngày 14/12/2005 về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty lương thực miền Nam; Sau đó, ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ – công ty con. 01/3/2007: sau khi thực hiện xong các trình tự thủ tục pháp lý cần thiết, Tổng công ty lương thực miền Nam đã chính thực chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 kinh doanh các ngành nghề như: mua bán, chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, kinh doanh bất động sản, chăn nuôi, chế biến thủy sản, quảng cáo thương mại, tiếp thị,… nhưng hoạt động chủ yếu và nổi bật nhất là hoạt động xuất khẩu gạo. Các loại gạo chủ yếu công ty xuất khẩu. Gạo 25% tấm chủ yếu xuất khẩu vào thị trường châu Phi. Gạo 5% tấm chủ yếu xuất khẩu vào thị trường châu Á như Malaysia, Philippines,…. Vị thế và vai trò. Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 là doanh nghiệp Nhà nước 100%, giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng trong ngành lương thực ở Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu gạo, thời gian gần đây luôn là đơn vị xuất khẩu gạo chính của cả nước, cùng với Tổng công ty lương thực miền Bắc Vinafood 1 chiếm 61% thị phần xuất khẩu gạo của cả nước. Vinafood 2 được ủy quyền đại diện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia dự thầu và thắng thầu các hợp đồng cấp Chính phủ trong thời gian qua. Hoạt động xuất khẩu gạo của Vinafood 2 trong những năm gần đây Vào những tháng cuối năm 2007, ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn. Việc thu mua gạo gặp trở ngại do giá gạo trong nước tăng cao cùng với nguồn cung bị hạn chế bởi nhiều yếu tố. Trước diễn biến phức tạp đó, việc thu mua gạo của công ty Vinafood 2 cũng gặp khó khăn đáng kể. Nhìn chung lượng gạo xuất khẩu giảm đi 1 triệu tấn so với năm 2006 (4 triệu tấn). Tuy nhiên, với sự thay đổi kịp thời trong việc điều hành và lên kế hoạch cân đối giữa lượng gạo xuất khẩu cũng như giá thu mua. Tình hình xuất khẩu gạo của công ty năm 2008 có những chuyển biến rõ nét, tiêu biểu là đã xuất được 100.000 tấn gạo loại 5% tấm sang Malaysia. Đây là hợp đồng có sản lượng lớn nhất được ký trong vòng 02 tháng trong năm. Điều này có tác động tích cực tới tình hình mua bán lúa gạo trong nước khi thị trường trầm lắng và giá cả đi xuống. Cũng trong năm này, công ty được ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV cung ứng vốn và các dịch vụ tài chính để đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả, ổn định nguồn thu mua, xuất khẩu lúa gạo và các nông sản khác, nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam. Nhưng cuối năm 2008, quyết định tạm ngừng xuất khẩu gạo của Chính phủ (vì an ninh lương thực) càng làm cho thị trường lúa gạo trong nước trở nên phức tạp khi trước đó tình hình xuất khẩu khá căng thẳng, giá gạo tăng mạnh. Trong năm 2008, Vinafood 2 đã xuất khẩu 2,2 triệu tấn gạo, chiếm 47% tổng số gạo xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2009, thị trường mua bán gạo trên thế giới trầm lắng trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả giảm mạnh trong khi lượng tồn kho ở các nước xuất khẩu là rất lớn. Là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, tình hình ở Việt Nam cũng “ảm đạm” không kém. Tuy nhiên, dù tồn kho nhiều các doanh nghiệp kinh doanh lương thực vẫn phải mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo nhằm hạn chế sức ép giảm giá, giữ được giá lúa gạo theo sàn của Chính phủ quy định. Trong thời gian này, Vinafood 2 tham dự và trúng thầu bán 1,6 tiệu tấn gạo cho Philippines. Bên cạnh đó, công ty cũng có thêm những hợp đồng riêng lẻ xuất vào thị trường này. Đầu năm 2010, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia đấu thầu các hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung cấp Chính phủ vào Philippines, Vinafood 2 đẩy mạnh xây dựng kho ngoại quan ở nước này. Ngoài ra, để phục vụ cho việc mở rộng thị trường tiềm năng, giao thương được dễ dàng, công ty đã đầu tư các chi nhánh như công ty lương thực Sài Gòn tại Singapore (100% vốn Việt Nam) và công ty cổ phần lượng thực thực phẩm Campuchia-Việt Nam. Như vậy, những tháng đầu năm 2010, Vinafood 2 trúng thầu xuất khẩu gần 1,286 triệu tấn gạo, chiếm tới 70,6% trong tổng khối lượng trúng thầu của Việt Nam (gần 1,821 triệu tấn). Bên cạnh đó, giá trúng thầu bình quân cả khối lượng khổng lồ này của Vinafood 2 không chỉ cao ngất ngưởng là 633,51 USD/tấn, mà còn cao hơn 16,14 USD/tấn và 2,61% so với giá trúng thầu bình quân của tất cả các đối thủ cạnh tranh còn lại (617,38 USD/tấn). Những con số này cho thấy ngành xuất khẩu gạo của Vinafood 2 trong năm nay có bước mở đầu khá thuận lợi. Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam tham dự và đã trúng thầu được ba lô xuất khẩu gạo. Trong đó, công ty Vinafood 2 đã tham dự và trúng thầu với giá cao: Lô 1 là 598 USD/tấn (CIF); Lô 2 là 630 USD/tấn (CIF); Lô 3 là 648 USD/tấn (CIF). Đánh giá các hoạt động. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 tăng lên qua các năm. (Nguồn: Tổng Cục thống kê) Giá trị của các gói xuất khẩu của công ty cao, tăng lên từng năm nhưng so với giá thu mua của nông dân trong nước thì lại có sự chênh lệch rất lớn. Vì vậy, nông dân trong nước vẫn là người chịu thiệt hại. Ở Việt Nam hiện nay chưa có nơi nào áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP) cho sản xuất lúa gạo. Cùng với việc gạo Việt Nam chưa tạo được thế mạnh về uy tín, thương hiệu (nhãn sinh thái). Vì thế, các loại gạo cùng chất lượng với Thái Lan nhưng giá luôn thấp hơn từ 7-20 USD/tấn và thấp hơn giá gạo của Mỹ đến 220 USD. Là công ty 100% vốn Nhà nước nên Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 rất thuận lợi trong việc thu mua, xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, có những khoảng thời gian chính sự chi phối của Chính phủ lại kìm hãm khả năng nâng cao sản lượng gạo xuất khẩu của công ty (đảm bảo an ninh lương thực). Mặc dù vậy, công ty cũng đã chủ động tìm kiếm khách hàng mới, thị trường mới (với những hợp đồng riêng lẻ với Philippines dù giá và số lượng xuất khẩu còn thấp). GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO. Chiến lược sản phẩm. Chất lượng cây trồng: Tại Việt Nam hiện nay tuy một số giống lúa đã được cải tiến nhưng năng suất chưa cao như các nước trên thế giới. Vì vậy công ty nên: Phối hợp với người nông dân. Hổ trợ về mặt chuyên môn chăm sóc cây và công cụ lao động phù hợp với yêu cầu. Các doanh nghiệp cần xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh, tập trung hóa cây trồng để bảo đảm việc quản lý, khai thác, chăm sóc đạt hiệu quả cao, sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị sản phẩm. Cần giáo dục ý thức cho mỗi người nông dân rằng họ phải làm ra những sản phẩm đạt chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Phối hợp với các nhà nhiên cứu: Cần nghiên cứu hoặc nhập những giống mới phù hợp để cho ra chất lượng lúa tốt nhất và tạo ra một lợi thế cạnh tranh mới. Cần đi sâu vào nghiên cứu chi tiết việc chăm bón cây sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Công tác thu gom và tiêu thụ: Khi gặt và xây xát còn dựa vào những công cụ thô, ảnh hưởng đến chất lượng gạo và gây thất thoát, lãng phí. Cần đưa cơ giới hóa vào sản xuất, đặc biệt là trong quá trình gặt và xây xát lúa. Để công tác tiêu thụ lúa cho nông dân được thuận lợi, việc thu mua lúa phải đảm bảo được các yếu tố: tiêu thụ hết lúa trong dân, người trồng lúa có lãi trên 30%, doanh nghiệp thu mua có lãi và bình ổn được thị trường. Nguồn nhân lực: Hệ thống, sàn lọc nguồn nhân lực tránh lãng phí và sử dụng không hiệu quả. Ngoài ra còn thường xuyên có chế độ kiểm tra, khen thưởng thích đáng, tránh làm việc chạy theo thành tích ở tất cả các khâu. Đây là việc đáng quan tâm vì đa số các công ty lương thực lớn đều là doanh nghiệp Nhà nước. Công nghệ Công nghệ phải được đổi mới một cách đồng bộ tất cả các khâu. Phải cung cấp những sản phẩm mà thị trường cần. Một số thị trường có những yêu cầu cao đối với nhãn sinh thái về gạo như: EU, Mỹ, Australia, Đài Loan, Singapore… vì vậy cần đưa chuẩn sinh thái vào sản xuất để thâm nhập các thị trường trên dễ dàng, định vị được thương hiệu Việt. Muốn chương trình nhãn sinh thái này có hiệu quả, Tổng công ty lương thực miền Nam cần đưa ra những kiến nghị phù hợp với Chính phủ để được hổ trợ. Hạt gạo Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh với các nước khác, cần phải cải thiện bao bì, giữ vững chất lượng đồng nhất của hạt gạo, công nghệ chế biến sau thu hoạch. Chiến lược thị trường. Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường đẩy mạnh quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết lập khách hàng mới. Tìm hiểu từng thị trường một cách sâu rộng để đưa ra sản phẩm phù hợp. Một số thị trường mà ta cần quan tâm. Thị trường Châu Á: Nhật Bản thích loại gạo hạt ngắn, tròn. Thái Lan có xu hướng tăng tiêu dùng gạo hạt dài. Ấn Độ, Pakitan các loại gạo có mùi hương đặc trưng vẫn được ưa chuộng. Đa số các nước khác tiêu thụ chính gạo trắng hạt dài, ít bạc bụng, độ tấm thấp và xay xát kĩ giống lúa hạt dài như IRR64 của Việt Nam có thể đáp ứng nhu cầu này. Thị trường Châu Âu: Cũng có yêu cầu như châu Á nhưng đòi hỏi độ thuần chủng cao hơn. các nước Nam Âu loại hạt tròn là loại được ưa chuộng trong khi đó ở Bắc Âu là loại hạt dài. Thị trường Trung Đông: loại hạt dài ít tấm khá phân biệt, gạo thơm được coi là gạo cao cấp. Thị trường Châu Mỹ: ưa chuộng loại gạo hạt trắng dài, xây xát kĩ, có mùi vị tự nhiên, khắc khe về chất lượng. Thị trường Châu Phi: nhìn chung thị trường này tập trung là gạo hạt trắng dài, thu nhập thấp nên đây chủ yếu là thị trường gạo cấp thấp. Nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh để thích ứng với các chiến lược mà đối thủ đang và sẽ thực hiện. Ngoài ra thu thập thêm các thông tin về sự biến động trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua báo chí chuyên ngành. Lấy ‎‎ý kiến khách hàng thông qua các cuộc khảo sát hay kênh bán hàng trực tiếp. Tổ chức các hội nghị khách hàng nhằm gắn kết thâm giao và thông qua đó tìm kiếm thêm đối tác tiềm năng. Nghiên cứu giá cả, dung lượng thị trường, các thông số về môi trường kinh doanh để sau đó đưa ra chiến lược phù hợp, mặt hàng kinh doanh, đối tượng về kinh doanh gạo mà ta sẽ giao dịch. Công tác nghiên cứu này phải thực hiện trong và ngoài nước nhằm đưa ra cái nhìn tổng thể về thị trường. Khi thâm nhập thị trường phải chủ động và có kế hoạch Chọn cách thích ứng và phản ứng lại với thị trường. Có sự kết hợp giữa những doanh nghiệp lại với nhau để tạo sự liên kết trong ngành và các ngành phụ trợ khác để có một sự liện kết bền vững. Chiến lược giá. Có thể xem xét xây dựng những kho bãi và hỗ trợ những kĩ thuật bảo quản phòng trừ khi bị ép giá hay thị trường không khả quan công ty sẽ trữ lại chờ giá cao hơn. Tiết kiệm chi phí, nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu từng thị trường cụ thể, và chính sách giá của đối thủ, độ co giãn cầu theo giá như thế nào để đưa ra những chiến lược giá cho từng giai đoạn cụ thể và sản phẩm cụ thể. Xúc tiến thương mại. Xúc tiến các hoạt động quảng cáo truyền thông, thông qua các hội chợ lương thực – thực phẩm trên thế giới Tạo một hình ảnh, thương hiệu gạo của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng. Kết hợp chặt chẽ để có sự giúp đỡ của các đại sứ quán tại nước mà ta đang và sẽ xuất khẩu vào. Phát triển tốt dịch vụ hậu mãi. Xác định quy mô đối tác, quy mô lượng hàng xuất khẩu, quy mô chi nhánh để xây dựng mạng lưới phân bổ và tuyển chọn nhân sự phù hợp. Phát triển thương mại điện tử. Giao dịch với khách hàng thông qua hệ thống điện tử hay các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể lập những trang web chung mà ở đó có những thông tin về thị trường và để hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả, công ty còn xét tới các yếu tố khác như vốn, tài sản, chính sách tài chính phù hợp, khoa học công nghệ. Giữ vững và phát triển việc đầu tư sang Campuchia nhằm xuất khẩu vào thị trường châu Âu vì tại đây tính thuế 0% gạo xuất từ Campuchia. Tiếp tục phát triển công ty đầu tư tại Singapore là Saigon Food (Pte. Ltd), không chỉ để xuất khẩu gạo, mua bán bột mì, nguyên liệu chế biến thức ăn thủy sản mà có cả việc bán gạo cho Thái Lan. Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo trong những năm qua vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục. Để tạo sự đồng thuận cao trong hoạt động xuất khẩu, cần xác định đúng vai trò của Hiệp hội lương thực trong xuất gạo, nhằm tiêu thụ kịp thời lúa gạo, bảo đảm lợi ích cho nông dân. Để công tác xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao hơn, Hiệp hội lương thực Việt Nam VFA cần phát huy hơn nữa vai trò đại diện cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam tham vấn cho Chính phủ chỉ đạo, điều hành công tác xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả. Kết luận. Qua việc phân tích các hoạt động của Tổng công ty lương thực miền Nam như trên, chúng ta thấy được thực tế là công ty đã góp phần thay đổi tích cực tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay. Năm 1989, sản lượng gạo cả nước mới đạt 18,9 triệu tấn thì 14 năm sau, năm 2000 con số đó đã lên tới 32,7 triệu tấn, đạt tốc độ tăng 5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu gạo đều tăng lên mỗi năm tuy còn nhiều vấn đề cần giải quyết như: công nghệ sau thu hoạch còn lạc hậu, thị trường chưa thực sự ổn định, giá gạo xuất khẩu còn thấp so với giá quốc tế, chất lượng gạo chưa cao, các chính sách quản lý còn có nhiều bất cập. Vì vậy, cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ, Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 cần đề ra và thực hiện những chiến lược kinh doanh phù hợp để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo của công ty nói chung và của cả Việt Nam nói riêng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo của tổng công ty lương thực miền nam vinafood 2.doc
Tài liệu liên quan