MỤC LỤC: Trang
Lời mở đầu 3
I. Tính cấp thiết của đề tài. 4
II. Khái quát. 5
1.Khái niệm và phân loại lợi nhuận. 5
1.1.Khái niệm lợi nhuận. 5
1.2.Phân loại lợi nhuận 5
2.Phân phối lợi nhuận 6
3.Hạch toán phân phối lợi nhuận 8
3.1.Tài khoản sử dụng 8
3.2.Phương pháp hạch toán 8
3.2.1.thuế thu nhập doanh nghiệp 8
3.2.2.Chia lãi cho các đối tác góp vốn 9
3.2.3.Trích lập các quý doanh nghiệp 10
III. Thực trạng & Giải pháp. 10
1.Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước . 10
1.1. Định nghĩa và phân loại. 11
1.2. Nguồn luật điều chỉnh. 11
1.3. Thực trạng . 12
1.4. Giải pháp & kiến nghị. 15
1.4.1. Ưu tiên bảo toàn vốn Nhà Nước. 16
1.4.2. Bổ sung vốn kinh doanh. 16
1.4.3. Đảm bảo lợi ích ba bên. 17
1.4.4.Có chính sách hợp lý. 17
1.5. Cải cách thành công DNNN ở Trung Quốc. 19
1.5.1. Mở rộng quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm cho 20
Doanh nghiệp.
1.5.2. Giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế” 20
1.5.3. Thực hiện chế độ tự chủ trách nhiệm trong 22
sản xuất - kinh doanh:
1.5.4. Cổ phần hóa các DNNN: 22
1.5.5. Xây dựng tập đoàn doanh nghiệp. 23
2.Công ty cổ phần. 23
2.1,Định nghĩa & các vấn đề liên quan đến công ty cổ phần. 23
2.2. Nguồn luật điều chỉnh. 24
2.3. Thực trạng. 25
2.3.1. Tình hình chia cổ tức. 26
2.3.2. Sai lầm trong chính sách cổ tức. 29
2.4. Giải pháp & Kiến nghị. 31
2.4.1.Chính sách cổ tức ổn định nhất quán. 31
2.4.2 Lập mục tiêu trong dài hạn về tỷ lệ thanh toán. 33
IV. Kết luận. 33
36 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ban hành kèm theo Nghị định 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ.
1.2.2. Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên.
Phân phối lợi nhuận trong Công ty TNHH nhà nước một thành viên được thực hiện theo Thông tư số 58/2002/TT-BTC.
1.3. Thực trạng .
1.3.1. Công ty nhà nước.
- Lợi nhuận thực hiện của Công ty sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế TNDN. Lợi nhuận sau thuế về cơ bản được dùng bù lỗ, không được trừ vào lợi nhuận trước thuế và lập các quỹ (Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ đặc biệt với Công ty đặc thù...) theo quy định.
- Lợi nhuận còn lại được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và vốn Công ty tự huy động bình quân trong năm, trong đó:
+ Phần vốn Nhà nước được xác định bằng số dư bình quân đầu kỳ và cuối kỳ của vốn kinh doanh, vốn đầu tư xây dựng và quỹ đầu tư phát triển.
+ Vốn DN tự huy động được xác định bằng số dư bình quân của các khoản vốn vay ngân hàng thương mại, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (trừ các khoản vốn vay được Nhà nước bảo lãnh, hỗ trợ lãi suất, vay với lãi suất ưu đãi).
a. Phần lợi nhuận chia theo nguồn vốn nhà nước đầu tư .
Được dùng để tái đầu tư, tăng vốn nhà nước tại Công ty hoặc hình thành quỹ tập trung để đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực nhà nước cần phát triển hoặc chi phối theo quy định của Chính phủ.
b. Phần lợi nhuận phân chia theo nguồn vốn Công ty tự huy động.
- Trích lập quỹ đầu tư phát triển sản xuất theo quy định Chính phủ hiện nay là : 30% lợi nhuận còn lại. Phần lợi nhuận còn lại do Công ty tự quyết định phân phối vào các Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi (sau khi đã trả hết nợ đến hạn).
- Trích Quỹ trợ cấp mất việc làm : từ 1%-3% trên tổng Quỹ tiền lương của Công ty.
- Trích Quỹ khen thưởng Ban Quản lý điều hành Công ty : tối đa 5%, nhưng mức trích tối đa không được vượt quá 300 triệu với công ty không có hội đồng quản trị và 500 triệu với công ty có hội đồng quản trị.
- Trích Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi : Mức trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc Công ty (không có Hội đồng quản trị) quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn Công ty.
+ Đối với các Công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc quyền được trích tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện cho 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi. Số lợi nhuận còn lại sau khi trích vào 2 quỹ này được bổ sung vào quỹ ĐTPT của Công ty.
+ Đối với Công ty đầu tư thành lập mới trong 2 năm liền kể từ khi có lãi nếu phân phối lợi nhuận như trên mà 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi không đạt 2 tháng lương thực tế thì Công ty được giảm phần trích Quỹ ĐTPT để đảm bảo đủ 2 tháng lương cho 2 quỹ này. Mức giảm tối đa bằng toàn bộ số trích Quỹ ĐTPT trong kỳ phân phối lợi nhuận năm đó. Đối với Công ty nhà nước được thiết kế và thực tế thường xuyên ổn định cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch khi phân phối lợi nhuận như trên mà không đủ trích quỹ khen thưởng và phúc lợi theo mức 2 tháng lương thực hiện như sau:
Trường hợp lãi ít, Công ty được giảm trích Quỹ ĐTPT, giảm phần lợi nhuận được chia theo vốn nhà nước để đảm bảo đủ 2 tháng lương cho 2 quỹ. Nếu giảm toàn bộ số tiền trên mà vẫn chưa đủ 2 tháng lương cho 2 quỹ thì sẽ được nhà nước trợ cấp cho đủ.
Trường hợp không có lãi thì nhà nước sẽ trợ cấp đủ để trích lập 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi bằng 2 tháng lương.
1.3.2. Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên.
Lợi nhuận thực hiện của Công ty sau khi nộp thuế TNDN theo quy định của Luật thuế TNDN và bù đắp các khoản lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. Chủ sở hữu quyết định sử dụng theo hướng sau:
(thieu )
- Trích lập Quỹ dự phòng tài chính : 10% lợi nhuận sau thuế.
- Trích lập Quỹ trợ cấp mất việc làm : 5% lợi nhuận sau thuế.
- Trích lập Quỹ thưởng Ban Quản lý điều hành Công ty : tối đa 5% lợi nhuận còn lại sau thuế .Tuy nhiên, mức trích quy định không vượt quá 100 triệu đồng/năm.
- Trích lập Quỹ khen thưởng và phúc lợi : 10% lợi nhuận sau thuế (sau khi trừ đi lợi nhuận trích quỹ dự trữ tài chính và quỹ trợ cấp mất việc làm).
è Kết luận : Công ty nhà nước có nhiều chủ sở hữu nên căn cứ phân phối lợi nhuận dựa vào nguồn vốn đầu tư vào Công ty. Công ty TNHH nhà nước một thành viên có một chủ sở hữu, có toàn quyền quyết định phân phối và sử dụng lợi nhuận, kể cả điều động đầu tư cho doanh nghiệp khác sau khi đã trích đưa vào các quỹ. Do sự khác biệt này nªn Công ty TNHH nhà nước một thành viên có khả năng thích ứng nhanh và linh hoạt hơn trong nền kinh tế thị trường.
1.4. Giải pháp & kiến nghị.
Phân phối lợi nhuận trong các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề rất quan trọng. Để làm tốt việc phân phối lợi nhuận trong các doanh nghiệp nhà nước cần quán triệt các nguyên tắc sau:
- Cần đảm bảo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài liên quan đến dự phòng tài chính.
- Cần giải quyết hài hoà mối quan hệ 3 mặt lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích người lao động.
Vì vậy phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp nhà nước không chỉ là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hoà các mối quan hệ kinh tế. Việc phân phối lợi nhuận, xác định tỷ lệ hợp lý sẽ trở thành động lực to lớn thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn ở kỳ tiếp theo. Để thực hiện phân phối lợi nhuận hợp lý cần quán triệt các yêu cầu cơ bản sau:
-Cần làm nghĩa vụ và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế TNDN một cách đầy đủ và kịp thời về ngân sách nhà nước theo luật định.
-Cần phải dành một phần lợi nhuận sau thuế để lại thích đáng để đáp ứng nhu cầu bảo toàn và bổ sung tăng vốn kinh doanh cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong doanh nghiệp nhà nước.
hướng gắn lợi ích của người quản lý, điều hành doanh nghiệp và người lao động với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo yêu cầu trên, mô hình phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ nên thực hiện theo định hướng sau:
- Cần ưu tiên bảo toàn vốn của nhà nước tại Công ty sau đó mới đến phát triển vốn.
- Cần bổ sung tăng vốn kinh doanh cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cần đảm bảo lợi ích người lao động, người quản lý và nhu cầu phúc lợi của Công ty.
Bên cạnh đó, cần sớm có chính sách chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang Công ty TNHH nhà nước một thành viên.
1.4.1. Ưu tiên bảo toàn vốn Nhà Nước.
Lợi nhuận sau thuế được sử dụng để bù đắp các khoản lỗ ở các năm trước, không được trừ vào lợi nhuận trước thuế (trường hợp các khoản lỗ này bằng hoặc lớn hơn lợi nhuận sau thuế thì toàn bộ lợi nhuận sau thuế được dùng để bù đắp các khoản lỗ. Công ty không được phép trích lập các quỹ, kể cả Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi).
1.4.2. Bổ sung vốn kinh doanh.
Trích Quỹ đầu tư phát triển sản xuất của Công ty. Tỷ lệ trích vào quỹ này cần căn cứ vào nhu cầu gia tăng vốn trong Công ty và tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty. Cần dựa trên cơ sở xem xét quan hệ tỷ lệ giữa tốc độ tăng trưởng Công ty với tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở hữu để xác định tỷ lệ trích lợi nhuận để lại tái đầu tư. Dựa vào công thức sau:
Tỷ lệ tăng trưởng Tỷ lệ lợi nhuận để Tỷ lệ sinh lời
doanh nghiệp = lại tái đầu tư x vốn chủ sở hữu
(Giả sử Công ty dự định tốc độ tăng trưởng trong năm tới phải đạt 7% với mức sinh lời vốn chủ sở hữu (LNST/Vốn CSHbq) đạt 14% thì tỷ lệ lợi nhuận để lại tái đầu tư (trích vào Quỹ phát triển sản xuất) phải là 7%/14% = 50%).
1.4.3. Đảm bảo lợi ích ba bên.
Phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng không khống chế mức trích tối đa của quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi cho người lao động,quỹ khen thưởng ban quản lý điều hành công ty nhằm tránh tình trạng “cào bằng” hiện nay là mức thưởng cho người lao động ở doanh nghiệp làm ăn hiệu quả ít cũng gần giống như doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Tỷ lệ trích vào quỹ này do chủ sở hữu Công ty quyết định dựa trên sự đảm bảo lợi ích người lao động, người quản lý và nhu cầu phúc lợi của Công ty.
1.4.4.Có chính sách hợp lý.
Trong khi còn tồn tại song song 2 hình thức doanh nghiệp nhà nước (Công ty nhà nước và Công ty TNHH nhà nước một thành viên) mà thực chất đều là loại hình doanh nghiệp có chủ sở hữu là nhà nước thì chế độ phân phối lợi nhuận ở 2 loại hình Công ty này cần phải có sự tương đồng nhau. Tuy nhiên hiện nay chế độ phân phối lợi nhuận hiện hành ở 2 loại Công ty này có sự khác biệt lớn.
a. Về trích lập Quỹ trợ cấp mất việc làm.
- Đối với Công ty nhà nước: Quỹ trợ cấp mất việc làm được trích từ 1%-3% trên tổng Quỹ tiền lương của Công ty.
- Đối với Công ty TNHH nhà nước một thành viên: Thì trích 5% lợi nhuận còn lại sau thuế để lập Quỹ trợ cấp mất việc làm.
Vì nguồn trích lập quỹ này khác nhau nên cách thức quản lý quỹ cũng không giống nhau. Các khoản chi từ Quỹ trợ cấp mất việc làm của Công ty nhà nước được đưa vào chi phí quản lý doanh nghiệp và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của Công ty nhà nước. Điều này làm tăng chi phí hợp lý hợp lệ và giảm thuế TNDN nộp về ngân sách nhà nước. Do vậy, nếu Công ty càng sử dụng Quỹ trợ cấp mất việc làm thì càng đẩy chi phí kinh doanh tăng lên và hiệu quả kinh doanh giảm đi. Đối với Công ty TNHH nhà nước một thành viên Quỹ trợ cấp mất việc làm được trích từ lợi nhuận sau thuế nên chi của quỹ này không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nếu Công ty để người lao động mất việc làm thì lợi nhuận sau thuế của Công ty sẽ giảm, phần lợi nhuận để chia nhằm bổ sung tăng vốn của Công ty và phần lợi nhuận để phân phối cho người lao động sẽ bị giảm đi.
b. Về mức khống chế trong trích lập Quỹ khen thưởng Ban Quản lý điều hành Công ty.
Theo chế độ phân phối lợi nhuận hiện hành, cả 2 loại hình Công ty trên đều được trích tối đa 5% lợi nhuận còn lại sau thuế lập Quỹ thưởng Ban Quản lý điều hành Công ty. Tuy nhiên, mức khống chế trích tối đa lại có sự khác biệt lớn. Đối với Công ty TNHH nhà nước một thành viên mức trích quy định không vượt quá 100 triệu đồng/năm. Trong khi đó, tại Công ty nhà nước quy định mức trích một năm không quá 500 triệu đồng (đối với Công ty có Hội đồng quản trị) & 300 triệu (đối với Công ty không có Hội đồng quản trị). Điều này dẫn đến sự không công bằng với người quản lý trong 2 loại hình trên.
c. Về trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi.
- Đối với Công ty nhà nước, số lợi nhuận còn lại sau khi trích Quỹ khen thưởng Ban Quản lý điều hành Công ty được phân phối vào Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi. Mức trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc Công ty (không có Hội đồng quản trị) quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn Công ty.
- Đối với Công ty TNHH nhà nước một thành viên: Mỗi quỹ khen thưởng và phúc lợi được trích bằng 10% lợi nhuận sau thuế (sau khi trừ đi lợi nhuận trích quỹ dự trữ tài chính và quỹ trợ cấp mất việc làm).
è Qua nội dung trích, quỹ khen thưởng và phúc lợi của 2 loại hình Công ty trên cho thấy ở Công ty nhà nước phần lợi nhuận để trích lập 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi được nhà nước đảm bảo tối thiểu bằng 2 tháng lương thực hiện, kể cả Công ty hoạt động lãi ít hoặc không có lãi, thậm chí để trích đủ bằng 2 tháng lượng thực hiện vào 2 quỹ này, nhà nước còn cho phép Công ty giảm toàn bộ mức trích Quỹ ĐTPT trong kỳ phân phối lợi nhuận hoặc nhà nước trợ cấp cho đủ nếu ít lãi hoặc không có lãi. Điều này thể hiện tính bao cấp của nhà nước đối với Công ty nhà nước. Ở Công ty TNHH nhà nước một thành viên, mức trích 10% lợi nhuận còn lại.
Kết luận :
Từ những khác biệt và bất cập trên trong phân phối lợi nhuận ở 2 loại hình đều là doanh nghiệp nhà nước, đặt ra yêu cầu sớm sửa đổi, bổ sung chế độ phân phối lợi nhuận hiện hành để đảm bảo lợi ích nhà nước, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích người quản lý, người lao động trong doanh nghiệp nhà nước ở 2 loại hình cần có sự tương đồng nhau.
Đồng thời, , cần có kế hoạch chuyển đổi các Công ty nhà nước thành Công ty TNHH nhà nước một thành viên, tập đoàn nhà nước hiện đại hoặc Công ty cổ phần nhà nước nắm quyền chi phối để tiến tới ban hành áp dụng Luật doanh nghiệp thống nhất.
Hy vọng rằng, việc bổ sung, hoàn thiện chế độ phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp nhà nước và việc chuyển doanh nghiệp nhà nước sang Công ty TNHH nhà nước một thành viên sẽ góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và góp phần thực hiện được các mục tiêu của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước.
1.5. Cải cách thành công DNNN ở Trung Quốc.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa (năm 1978), Trung Quốc đồng thời đã thực hiện những biện pháp cải cách hướng vào hoạt động của DNNN như: Mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh, cổ phần hóa, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại...
1.5.1. Mở rộng quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm cho Doanh nghiệp.
Tháng 4/1978, Trung uơng Đảng CS Trung Quốc đã ban hành: “Quyết định về một số vấn đề tăng cuờng phát triển công nghiệp“, trong đó quy định các DN sau khi hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, có thể trích một phần tỷ lệ trong lợi nhuận để lập quỹ phúc lợi tập thể trong DN. Sau đó, Quốc vụ viện Trung Quốc tiếp tục phê chuẩn “Quy định về thí điểm thực hiện Quỹ DN trong các DNNN“. Theo quy định này, DN được giữ lại một phần lợi nhuận (tương đương 5% tổng số lương cả năm của CNV) để lập quỹ cho DN, Nhà nước không thu toàn bộ lợi nhuận của DN như trước nữa. Sau Hội nghị TW3 khóa XI, việc thí điểm mở rộng quyền tự chủ đã được đẩy mạnh, số DN thực hiện thí điểm ở Trung Quốc đã tăng từ 6 lên 100 DN.
Trung Quốc đã ban hành văn bản “Một số quy định tạm thời về việc tăng cường hơn nữa quyền tự chủ cho các DNNN”, trong (THIIEU)Về lương và tiền thưởng DN có quyền định ra hình thức tiền lương và mỗi năm có thể tăng lương cho 3% số CBVC trong DN; Về quan hệ hợp tác, DN có quyền tham gia hoặc tổ chức các hoạt động hợp tác kinh tế liên ngành, liên khu vực, có quyền chọn đối tác kinh doanh.
1.5.2. Giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế”: Tháng 4 năm 1983, Trung Quốc đã thực hiện giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 1”. Nội dung chủ yếu của cải cách này là.
- Tất cả các DN lớn và vừa làm ăn có lãi phải căn cứ vào lợi nhuận thực tế để nộp thuế thu nhập cho Nhà nước, với mức thuế bằng 55% tổng lợi nhuận thực tế. Số lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế của DN vẫn phải nộp cho Nhà nước, DN chỉ được giữ lại một phần theo quy định.
- Đối với các DN nhỏ làm ăn có lãi, thì căn cứ vào lợi nhuận thực tế để nộp thuế theo phương thức luỹ tiến.
- Các DN dịch vụ như khách sạn, nhà hàng ăn uống phải nộp 15% thuế thu nhập.
- Các hợp tác xã thương mại cấp huyện nộp thuế theo cấp luỹ tiến.
- Nhà nước chỉ thực hiện bù lỗ theo định mức cho các DN nằm trong diện chính sách theo quy định, không bù lỗ vượt mức.
- Phần lợi nhuận được giữ lại sau khi nộp thuế, được dùng để lập các loại quỹ của DN.
Mục đích của giải pháp cải cách này là từng bước chuyển đổi hình thức nộp lợi nhuận của DN, DN sẽ nộp lợi nhuận dưới dạng thuế. ý nghĩa của việc DNNN nộp thuế thừa nhận vai trò độc lập của DN, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần sự quản lý trực tiếp của các cơ quan hành chính đối với DN, hạn chế việc bao cấp, coi DNNN như một bộ phận làm kinh tế của các cơ quan hành chính nhà nước. Mặc dù chứa đựng nhiều ý nghĩa tích cực như vậy, song biện pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 1” vẫn còn một số điểm bất hợp lý, ảnh hưởng đến hiệu quả cải cách. Do đó, để có những điều chỉnh cho phù hợp hơn, năm 1984, Quốc Vụ viện Trung Quốc đã quyết định thực hiện giải pháp “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 2”, mà điểm khác biệt căn bản so với bước 1 là DNNN sẽ chỉ phải nộp thuế, ngoài ra, không phải nộp thêm phần lợi nhuận nào khác cho Nhà nước. Nội dung của “Chuyển lợi nhuận thành thuế bước 2” bao gồm:
- Dựa vào đối tượng nộp thuế để phân thuế công thương thành: thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh nghiệp. Tăng thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế sử dụng ruộng đất.
- Khi định thuế suất điều tiết, lấy lợi nhuận thực tế của DN làm cơ số và coi đó là lợi nhuận cơ bản để tính sau khi điều chỉnh
- DNNN nhỏ làm ăn có lãi, sau khi nộp thế thu nhập theo mức luỹ tiến sẽ phải chịu lỗ lãi, Nhà nước không tiếp tục bù lỗ.
Giải pháp này được coi là pháp lệnh hóa đối với mối quan hệ về phân phối lợi nhuận giữa nhà nước và DN. Điều này không chỉ góp phần làm minh bạch tình hình tài chính DN mà còn luật hóa mới quan hệ giữa DN với Nhà nước, mà vẫn duy trì được các khoản thu cho ngân sách. Đối với DN, biện pháp này cho phép DN được thêm nhiều lợi ích trong phân phối lợi nhuận, góp phần nâng cao tính năng động, tích cực của DN.
1.5.3. Thực hiện chế độ tự chủ trách nhiệm trong sản xuất - kinh doanh:
Tháng 12/1986, Quốc vụ viện Trung Quốc đã ban hành: “Một số quy định về việc đi sâu cải cách DNNN, tăng cường sức sống cho DN. Các DN loại nhỏ thuộc chế độ sở hữu toàn dân tích cực thí điểm cho thuê kinh doanh và khoán kinh doanh. Chọn lựa một số doanh nghiệp loại vừa, lãi ít hoặc bị lỗ để tiến hành thí điểm cho thuê kinh doanh và khoán kinh doanh. Các DN lớn thuộc chế độ sở hữu toàn dân cần thực hiện chế độ trách nhiệm kinh doanh dưới nhiều hình thức đa dạng...”. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng cải cách này, chế độ khoán kinh doanh đã được thí điểm rộng rãi ở Trung Quốc, tạo điều kiện cho DN thực sự trở thành thực thể kinh tế tương đối độc lập, tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Tính đến những năm 90 của thế kỷ trước, có 93% số DNNN ở Trung Quốc đã thực hiện biện pháp cải cách mới này, trong đó các DN lớn và vừa chiếm 95%.
1.5.4. Cổ phần hóa các DNNN:
Cổ phần hóa đã được thực hiện ở Trung Quốc từ năm 1984. Đại hội XV Đảng CS Trung Quốc đã khẳng định: “Chế độ cổ phần là một hình thức tổ chức vốn của DN hiện đại, có lợi cho việc tách riêng quyền sở hữu và quyền kinh doanh, cho việc nâng cao hiệu quả vận hành DN và sử dụng vốn”. Các công ty cổ phần ở Trung Quốc được hình thành chủ yếu theo 3 cách: Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ DN; Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội; Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các DN. Tính đến năm 2000, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN chuyển thành công ty cổ phần với tổng số vốn trên 600 tỷ NDT. Nhiều công ty cổ phần đã tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải, Thẩm Quyến, một số công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài... Sau khi cổ phần hóa, quyền tài sản trong các doanh nghiệp sẽ được chia thành 3 cấp: Quyền sở hữu cuối cùng (Nhà nước), quyền sở hữu pháp nhân (DN) và quyền quản lý kinh doanh (Tổng giám đốc).
Đến năm 2000, Trung Quốc đã cơ hơn 4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật DN với tổng số vốn đạt hơn 360 tỷ NDT.
1.5.5. Xây dựng tập đoàn doanh nghiệp.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt của cải cách DNNN là làm cho các DNNN có sức sống. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế không chỉ đòi hỏi các DNNN phải trở thành trụ cột ở trong nước mà còn đặt ra yêu cầu quốc tế hóa hoạt động của DNNN. Về cơ bản, sự phát triển của các tập đoàn DN ở Trung Quốc được trải qua 5 giai đoạn, bao gồm: Giai đoạn phôi thai (từ năm 1978 – 1985); Giai đoạn xuất hiện một số tập đoàn DN (Từ tháng 2/1986); Giai đoạn hình thành các tập đoàn DN (từ tháng 12/1987), trong đó nổi bật là Chính phủ Trung Quốc cho ban hành: “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn DN”. Sau nhiều năm chú trọng xây dựng và phát triển, đến nay, Trung Quốc đã bước đầu hình thành hệ thống tập đoàn DN có quy mô và tốc độ tăng trưởng nhanh. Tính đến năm 2000, Trung Quốc có tổng số hơn 2.655 tập đoàn DN với tổng giá trị tài sản đạt hơn 106.983 tỷ NDT, doanh thu đạt hơn 53.250 tỷ NDT, lợi nhuận đạt 2.900 tỷ NDT...
2.Công ty cổ phần.
2.1,Định nghĩa & các vấn đề liên quan đến công ty cổ phần.
- Cổ phiếu?
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty cổ phần.
-Cổphần?
Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau, mỗi phần bằng nhau đó gọi là cổ phần. Cổ phần hoàn toàn khác biệt so với cổ phiếu vì cổ phiếu chỉ là hình thức biểu hiện của cổ phần.
- Cổ tức?
Cổ tức là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty phát hành để trả cho mỗi cổ phiếu mà cổ đông đang nắm giữ.
VD: Năm 2002, công ty REE chi trả cổ tức 1.500 đồng/ 1 cổ phiếu, tức là tại thời điểm công ty chi trả cổ tức, nếu nắm giữ 1 cổ phiếu REE bạn sẽ được trả 1500 đồng theo định nghĩa của tờ Wall Street Journal. Khoản tiền chi cho mỗi cổ phần sau mỗi năm cho người giữ cổ phiếu thông thường. Cổ tức là một phần của thu nhập trên mỗi cổ phần. Tuy nhiên, nếu một công ty cho thấy không có lãi trong một khoảng thời gian nhất định thì có thể dùng khoản lãi từ các khoảng thời gian có lãi để thanh toán cổ tức theo đúng kế hoạch.
- Tỷ suất cổ tức:
Tỷ suất cổ tức được tính toán bằng cách lấy thu nhập cổ tức hàng năm trên mỗi cổ phần chia cho giá cổ phiếu hiện tại. Tỷ suất này đo lường khoản thu nhập nhận được so với giá cổ phiếu.
- Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người mua cổ phần được gọi là cổ đông và đóng vai trò là người sở hữu công ty.
2.2. Nguồn luật điều chỉnh.
Căn cứ luật doanh nghiệp năm 2006 hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006
2.3. Thực trạng.
Khi công việc kinh doanh của công ty tạo ra lợi nhuận, một phần lợi nhuận được tái đầu tư vào việc kinh doanh và lập các quỹ dự phòng, gọi là lợi nhuận giữ lại, phần lợi nhuận còn lại được chi trả cho các cổ đông, gọi là cổ tức. Đối với các công ty cổ phần, tỉ lệ giữa phần lợi nhuận giữ lại với lợi nhuận chi trả phụ thuộc vào chính sách cổ tức của hội đồng cổ đông.
Hàng năm, Công ty sẽ phải trích từ lợi nhuận sau thuế của mình một khoản vào quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ theo quy định của pháp luật. Khoản trích này không được vượt quá năm phần trăm (5%) lợi nhuận sau thuế của Công ty và được trích cho đến khi quỹ dự trữ bằng 10% vốn điều lệ của Công ty.
Theo các quy định về chế độ tài chính do nhà nước ban hành đối với các công ty cổ phần, lợi nhuận của công ty gồm :
Lợi nhuận trước thuế = tổng doanh thu – Tổng chi phí
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế – thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế vào cuối năm tài chính, trước khi phân chia cổ tức cho các cổ đông phải phân chia trả lãi liên doanh và sau khi chia trả lãi liên doanh, số còn lại trích lập các quỹ như sau:
Phúc lợi + Khen thưởng = 10%. (Tùy theo kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm ; HĐQT có thể đề xuất mức cao hơn và phải được Đại hội đại hội đồng cổ đông chấp thuận ).
Trích quỹ phát triển sản xuất do hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào kết quả kinh doanh hàng năm.
Số còn lại sau khi trích các quỹ, được chia cổ tức cho các cổ đông theo số cổ phần góp vốn.
Trên khía cạnh xem xét phân phối lợi nhuận hợp lý để phát triển doanh nghiệp, chúng ta chỉ xét cách chi trả cổ tức của các doanh nghiệp.
2.3.1. Tình hình chia cổ tức.
Mức chia cổ tức và diễn tiến thị trường chứng khoán trong năm nay các chuyên gia nhận định, so với các hình thức đầu tư khác như gửi tiết kiệm, chơi bảo hiểm và mua nhà đất, bỏ tiền mua cổ phiếu là hình thức cho lợi nhuận khá cao. Điều này có thể thấy rõ khi lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND bình quân 8,7%/năm, bảo tức của các công ty bảo hiểm nhân thọ dao động 2-5%, lợi nhuận từ kinh doanh bất động sản bằng 0 do thị trường đóng băng.
Các công ty cổ phần trong lĩnh vực này thường trả cổ tức trung bình khoảng 12%/năm. Những doanh nghiệp làm ăn tốt, có tên tuổi chia ít nhất 15% song cũng có công ty do làm ăn kém hiệu quả chỉ lo được 4-5%.
Trả cổ tức cao nhất là nhóm các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin như Bảo Minh chia 15-16%, VP Bank 20%, ACB đạt lợi nhuận 385 tỷ đồng dự kiến chia cổ tức 25%, Techcombank đạt lợi nhuận trước thuế 286 tỷ đồng tỷ lệ cổ tức đạt 36,6%, có doanh nghiệp viễn thông chia cổ tức tới 50%.
Tuy vậy, cũng có nhiều doanh nghiệp không trả cổ tức do làm ăn kém hiệu quả hoặc chi trả cổ tức khi mà doanh nghiệp đang bị lỗ. Điển hình là trường hợp Công ty Bibica. Năm 2003 Bibica dự kiến mức cổ tức 12-13% cho cổ đông và Công ty đã tạm ứng trước cho cổ đông 5%. Việc tạm ứng cổ tức đã dựa trên mục tiêu ''khả quan'' và được chứng minh bởi có số lãi 4,1 tỷ đồng trong 3 quý đầu năm 2002. Sau một thời gian khất lần báo cáo tài chính cả năm 2002, cuối cùng Công ty này đã ''bất ngờ'' công bố lỗ 5,4 tỷ đồng. Khoản tạm ứng cổ tức 5% trở thành lỗi vi phạm của Bibica. Vì theo Khoản 1, Điều 67, Luật Doanh nghiệp, ''công ty cổ phần chỉ được chi trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi''. Điều này tạo nên nhiều bất cập trong Luật và cách thi hành Luật do khi đã chia cổ tức cho cổ đông rồi thì khó lòng mà thu lại được.
Hiện nay, cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.
a. Trả cổ tức bằng tiền.
Lâu nay việc chia cổ tức thường được quan niệm là chia bằng tiền mặt. Điều này cũng dễ hiểu vì cổ đông luôn ưa thích “tiền tươi thóc thật”. Trả cổ tức bằng tiền làm hao hụt nguồn tiền mặt của doanh nghiệp tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0704.doc