MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3
1. Khái niệm lợi thế cạnh tranh. 3
2. Mô hình kim cương Porter 3
2.1 Những điều kiện về năng lực 3
2.2 Những điều kiện và nhu cầu 4
2.3 Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. 4
2.4 Chiến lược, cấu trúc của các xí nghiệp và sự cạnh tranh 4
2.5 Vai trò về cơ hội, vận may rủi 4
2.6 Vai trò của chính phủ 5
3. Khái niệm về Marketing và Marketing quốc tế. 5
4. Vai trò của marketing quốc tế 5
5. Các loại hình marketing quốc tế 6
5.1 Marketing Xuất Khẩu (Export Marketing). 6
5.2 Marketing tại nước sở tại (The Foreign Marketing). 6
5.3 Marketing đa quốc gia (Multinational Marketing). 7
6. Các chiến lược Marketing-mix quốc tế. 7
6.1 Chiến lược sản phẩm và xúc tiến quốc tế 7
6.2 Chiến lược về giá. 7
6.3 Chiến lược phân phối. 7
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM 8
1. Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam 8
2. Phân tích điểm mạnh yếu của đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình kim cương Porter 8
2.1 Yếu tố thâm dụng. 8
2.2 Ngành công nghiệp phụ trợ. 15
2.3 Yếu tố nhu cầu. 18
2.4 Chiến lược cơ cấu cạnh tranh của các công ty. 21
2.5 Vai trò của chính phủ. 22
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG MỸ 24
1. Thị trường và phân khúc thị trường 24
1.1 Kinh tế. 24
1.2 Hệ thống luật pháp: 24
1.3 Về hệ thống thuế. 30
1.4 Thủ tục hải quan. 31
1.5 Các rào cản thị trường phi luật pháp. 31
1.6 Hệ thống phân phối. 32
1.7 Đối thủ cạnh tranh. 32
1.8 Phân khúc thị trường 33
2. Phân tích SWOT về hoạt động marketing khi xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào Hoa Kỳ 33
2.1 Điểm mạnh 33
2.2 Điểm yếu. 34
2.3 Cơ hội. 34
2.4 Thách thức 36
2.5 SWOT 37
CHƯƠNG IV CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 39
1. Chiến lược sản phẩm 39
2. Đánh giá tính khả thi của chiến lược. 41
3. Giải pháp hỗ trợ thực hiện. 42
3.1 Về bộ máy Marketing của công ty 42
3.2 Về bộ phận thiết kế. 43
3.3 Thực hiện việc giảm chi phí sản xuất. 44
3.4 Gia nhập chuỗi liên kết đồ gỗ toàn cầu. 45
3.5 Tham gia hội chợ tại Hoa Kỳ. 45
3.6 Giải pháp mua hàng từng bước 47
KẾT LUẬN 48
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2693 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng khả năng cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới. Một số công nghệ sơn mới như gesso, sơn tĩnh điện tự động (Automatic Elestrostatics Spraying System) giúp tiết kiệm 40% chi phí và góp phần giảm thiệu ô nhiễm môi trường so với phương pháp phun xịt truyền thống.
Hệ thống sơn tĩnh điện bằng đĩa tự động
Hệ thống sơn UV tự động dành cho ván sàn và panel , sơn 8 lớp và sấy khô chỉ trong vòng 10 phút
Ngành keo dán gỗ.
Trong ngành keo dán gỗ, người ta vừa tạo ra được một loại keo dán làm từ bột ngô. Từ trước tới nay, người ta vẫn dùng bột mỳ chuyên dụng cho ngành công nghiệp để làm keo dán gỗ. Nhưng giá của loại bột chuyên dụng này thường khá cao, hơn nữa, nguồn cung cấp cũng không ổn định. Nhờ sự ra đời của keo dán gỗ từ bột ngô mà các nhà sản xuất gỗ dán đã có thể hạ giá thành sản phẩm do giảm được chi phí mua nhựa thông hay các loại hợp chất gắn kết đắt tiền khác, trong khi độ kết dính của sản phẩm keo ngô lại khá tốt …
Ngành giao thông vận tải.
Hệ thống giao thông vận tải ngày càng hoàn chỉnh giúp việc giao lưu giữa các vùng miền, các quốc gia ngày càng thuận tiện hơn. Tự do kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và đồ gỗ nói riêng ngày càng tăng lên. Trong đó hệ thống cảng biển Việt Nam thời gian qua đã góp phần tích cực vào tăng trưởng, Cảng Cái Mép vừa được đưa vào hoạt động có khả năng đón nhận các tàu lớn cỡ 15 ngàn TEU thì cơ hội cho hàng hải Việt Nam sẽ rất lớn. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện có khoảng 160 bến cảng với hơn 300 cầu cảng với tổng chiều dài tuyến bến đạt hơn 36km. Các cảng biển Việt Nam hiện do rất nhiều bộ, ngành, doanh nghiệp, các địa phương, ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, đầu tư, quản lý và khai thác. Với tốc độ xây dựng cầu bến mỗi năm tăng 6%, bình quân mỗi năm cả nước có thêm gần 2km cầu cảng, nhưng nhìn chung cơ sở hạ tầng cảng biển Việt Nam vẫn thuộc loại yếu kém về chất lượng, lạc hậu về trình độ kỹ thuật công nghệ so với yêu cầu và các nước tiên tiến trong khu vực. Nhận thức được tầm quan trong của hệ thống cảng biển, Các công ty vận tải biển trong nước đã và đang tiến hành các hợp đồng mua mới tàu contairner trọng tải lớn và tàu chở dầu. Một loạt hợp đồng đóng mới tàu 54 ngàn tấn và 58 ngàn tấn đã sắp tới thời hạn bàn giao. Hiện nay, các công ty đủ sức thâm nhập thị trường Mỹ ngoài Vinashin còn có VITACO, VIPCO, FALCON, VINALINES, VOSCO.
Yếu tố nhu cầu.
Nhu cầu trong nước.
Xu hướng dùng đồ gỗ trang trí nội thất trong thị trường nội địa đang rất phát triển. Từ các lọai bàn, ghế, giường cho đến các lọai
cửa, kệ, tủ… đều đang được người tiêu dùng chuyển hướng sang xài đồ gỗ thay vì là đồ nhôm, nhựa, sắt, inox…như trước đây.
Cùng với sự phát triển kinh tế và dòng đầu tư nước ngòai ồ ạt đổ vào Việt Nam trong một, hai thập kỷ qua, xuất hiện nhu cầu sử dụng những dòng sản phẩm đồ gỗ trang trí nội thất cao cấp cho các nhà hàng, khách sạn, quán café, khu nghỉ dưỡng, biệt thự, chung cư căn hộ cao cấp.
Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã nhanh chóng nhập cuộc, tham gia thị trường đồ gỗ Việt Nam với nhiều lọai sản phẩm trang trí nội thất cao cấp, đa dạng, mang phong các hiện đại nhưng lại được cách điệu cho phù hợp thị hiếu người Việt Nam.
Các doanh nghiệp trong nước cũng sớm nhận ra nhu cầu này và không ít doanh nghiệp đã và đang tập trung đầu tư lớn cho công tác tạo mẫu, thiết kế nhằm tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam liên tục tăng cao. Tuy nhiên việc tiêu thụ nội địa các sản phẩm gỗ lại chưa được quan tâm đầy đủ.
Sau khi Việt Nam là thành viên của WTO, sản phẩm gỗ của các nước thành viên sẽ tràn vào Việt Nam và được phép kinh doanh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước. Đây chính là một thách thức rất lớn cho các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam.
Mức độ tiêu thụ sản phẩm gỗ trong nước đang có sự tăng trưởng mạnh (bình quân 15%/ năm, gấp đôi tốc độ tăng trưởng của thế giới) cùng áp lực cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài, xu hướng tập trung đẩy mạnh thị trường nội địa đang được các DN gỗ trong nước nhắm tới.
Thị trường nội địa, một thị trường tiềm năng với hơn 80 triệu người tiêu dùng được chia làm hai nhóm chính: nhóm đồ gỗ đuợc thiết kế với kiểu dáng, mẫu mã có thương hiệu tiêu thụ ở các thành phố và đô thị lớn do các doanh nghiệp đồ gỗ xuất khẩu và doanh nghiệp nước ngòai nắm giữ khỏang 60%; còn lại là đồ gỗ giá rẻ do các cơ sở nhỏ sản xuất chiếm khỏang 40%.
Nhu cầu tại Hoa Kỳ.
Quy mô thị trường sản phẩm gỗ tại Hoa Kỳ.
Người Mỹ tiêu thụ gỗ và các sản phẩm gỗ rất nhiều so với bình quân thế giới. Với chỉ hơn 5% dân số thế giới, nhưng người Mỹ tiêu thụ hơn 20% sản lượng gỗ. Các nhà khoa học dự báo một khả năng tăng 50% trong sự tiêu thụ gỗ và sản phẩm gỗ, cũng như đồ gộ nội thất của Hoa Kỳ vào năm 2040.
Chi tiêu cho đồ gỗ và nội thất luôn khá cao ở khắp các bang trên nước Mỹ, trong đó các bang miền Tây như California, Texas và Florida giữ vị trí hàng đầu, còn các bang Washington, Nevada, Utah, Arizona và Colorado thì được dự đoán là có khả năng tăng trưởng mạnh trong tương lai.
Xét về sản phẩm, thị trường Mỹ hiện nay tiêu thụ nhiều nhất từ Việt nam là các sản phẩm gỗ gia dụng chiếm tới hơn 90% về khối lượng nhập khẩu.
Biểu đồ 3.1 Khối lượng và giá trị nhập khẩu trực tiếp của Mỹ đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam
Nguồn: Số liệu thương mại ITC Mỹ do James Hewitt tập hợp
Xu hướng tiêu dùng đồ gỗ ở Mỹ.
Về vật liệu sản phẩm , người Mỹ cũng thích nguyên liệu gỗ cứng, tốt nhất là gỗ của Bắc Mỹ. Sản phẩm không nhất thiết phải được làm bằng các loại gỗ tốt như lim, gụ… mà chỉ cần gỗ cao su, thậm chí là MDF (ván gỗ ép); cái chính là sản phẩm làm phải hoàn thiện ở như kiểu dáng, nước sơn, cách trang trí, đánh bóng, độ mịn bề mặt, bản lề và các phụ kiện chắc chắn, độ khít sản phẩm, đóng mở tiện lợi dễ dàng.…v..v..
Đối với người tiêu dùng Mỹ, kiểu dáng bên ngòai quan trọng hơn so với chất liệu sản phẩm. Nước sơn phủ bên ngoài phải thật đẹp và kiểu dáng phải tinh tế và thanh nhã. Để đạt được nước sơn phủ ngoài đó có khi phải sơn đến 10 lớp. Đây là một yêu cầu rất cao về công nghệ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ vào Hoa Kỳ.
Nhà cửa thiết kế hiện đại nên đồ gỗ trang trí nội thất cũng phải mang phong cách đó. Trang trí không nên rườm rà mà chủ yếu là các đường thẳng và các nắm tay cầm to hình tròn bằng gỗ hoặc bằng đồng. Tất cả đều đi thành bộ với nhau như giường, bàn ghế, tủ áo quần, tủ đựng thuốc, tủ đựng đồ tắm, tủ đựng chăn, tủ trang điểm, khung gương… Một số sản phẩm rất được ưa chuộng gần đây là các loại tủ nhiều ngăn (4-6 ngăn) có tay cầm hình tròn, khung ảnh và khung gương to bản… Có một điều khá đặc biệt ở Hoa Kỳ là nhiều khi mẫu mã sản phẩm đã cũ với bang này nhưng lại rất chạy khi chuyển đến bang khác.
Ngoài ra, người tiêu dùng Hoa Kỳ cũng có đòi hỏi ngày càng đa dạng hơn về sản phẩm chứ không phải chỉ là các mẫu mã sản phẩm thông thường như hiện nay. Các loại đồ gỗ phòng ngủ ngày nay không còn chứa nhiều lợi nhuận như trước nữa trong khi đó, các sản phẩm đồ gỗ mang phong cách Trung Hoa cổ điển đời nhà Minh, nhà Thanh… hay các sản phẩm đồ gỗ tự lắp ghép lại rất được ưa chuộng, đồ gỗ dùng ngoài trời cũng hứa hẹn sẽ mang lại nhiều sức hấp dẫn.
Chiến lược cơ cấu cạnh tranh của các công ty.
Khác với tình trạng hoạt động manh mún, rời rạc trước đây, các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ đang có xu hướng hợp tác với nhau để giữ vững thị trường, đáp ứng những đơn hàng lớn từ phía bạn hàng .
Ông Lưu Qúy Ly Chủ Doanh Nghiệp gỗ Thanh Ly nói: “Liên kết giữa các doanh nghiệp bây giờ đã khá hơn. Đơn hàng lớn ngày một nhiều trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại khó có thể đáp ứng được những đơn hàng đó, vì vậy buộc phải liên kết.”
Việc liên kết đã hình thành nhóm Doanh nghiệp gỗ sẽ ký được nhiều hợp đồng lớn với khách hàng . Với mỗi đơn hàng lớn vượt quá năng lực của doanh nghiệp, họ sẽ tìm đối tác liên kết để chia sẻ từng công đoạn sản xuất. Nỗ lực này đã tăng cường khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn, vì vậy uy tín của các doanh nghiệp ngày càng cao.
Ngành gỗ hiện có 2.000 doanh nghiệp chế biến mà hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Ông Ly, việc hợp tác không chỉ giúp doanh nghiệp chủ động nguồn nguyên liệu cho sản xuất mà còn giúp hạ giá gỗ đầu vào do tập trung thay vì manh mún như hiện nay.
Ông Ly cho biết thêm, do nhận thức được những lợi thế của liên kết nên các doanh nghiệp đang hợp tác theo hướng: các doanh nghiệp nhỏ hơn làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn; hình thành các nhóm doanh nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm và giúp nhau sản xuất, kinh doanh; hoặc tham gia liên doanh.
Hiện tại các doanh nghiệp mạnh, trường vốn thì hình thành tập đoàn chế biến gỗ xuất khẩu còn chúng tôi những doanh nghiệp nhỏ như Doanh nghiệp Đinh Việt Quang ; Doanh nghiệp Công Cúc và Cơ sở Anh Đức .v v...còn có nhiều vệ tinh khác.
Một điển hình về liên kết là Cụm Công nghiệp Gỗ Hố Nai ở tỉnh Đồng Nai. Trong năm đầu mới hình thành cụm , chỉ có 5 doanh nghiệp nhưng tới nay có tới gần 60 doanh nghiệp cùng hợp tác để sản xuất và kinh doanh.
Ông Ly cho hay: “Chúng tôi sẽ liên kết các lâm trường, chủ rừng với các công ty chế biến gỗ trong nước nhằm giám sát nguồn gốc gỗ, giúp doanh nghiệp sản xuất chế biến gỗ thấy rõ tiềm năng kinh tế, lợi ích thực sự nếu đạt được các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững”.
Vai trò của chính phủ.
Xuất khẩu gỗ đang là một trong những ngành ưu tiên hàng đầu vì thế nhà nước ta có những chính sách rất tích cực để khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu thành phẩm, nhập khẩu nguyên liệu thông qua việc miễn, giảm thuế (hiện nay, tất cả các mặt hàng gỗ nội ngoại thất xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế bằng không).
Chính sách bảo vệ rừng lại càng được nhà nước đặc biệt chú ý với cơ chế quản lý rừng chặt chẽ, chế tài nghiêm khắc với các trường hợp vi phạm, công tác trồng rừng nguyên liệu, đơn cử như việc Chính phủ đã yêu cầu các địa phương rà soát chặt chẽ nguồn đất các lâm trường quốc doanh đang quản lý để chuyển đổi phần lớn diện tích đang sử dụng kém hiệu quả vào mục tiêu trồng rừng công nghiệp. Thống kê sơ bộ cho thấy cả nước còn đến 6,1 triệu hecta đất có thể trồng rừng. Trong đó hơn 2,2 triệu ha rừng đã được trồng.
Mới đây nhất, nhà nước đã ban hành chính sách tiền tệ làm tăng giá đồng đô rất thuận lợi cho việc xuất khẩu.
Tuy hiên, hiện nay, do tình hình lạm phát tăng cao, chính sách thu hẹp tiền tệ đang gây nên rất nhiều kho khăn cho việc huy động vốn.
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG MỸ
Thị trường và phân khúc thị trường
Kinh tế.
Là một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, theo quỹ tiền tệ quốc tế tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Mỹ được ước tính cho năm 2010 là trên 14,657,800 triệu đô la tuy nhiên nước Mỹ vừa trải qua một cuộc đại suy thoái và đang trên đường phục hồi sau chấn thương. Đã có nhiều tín hiệu tích cực từ sự bình phục này như tỷ lệ thất nghiệp tháng 2 năm nay chỉ còn 8,6% giảm 0,4% so với năm ngoái và chính phủ Hoa kỳ cũng đưa ra rất nhiều chính sách tích cực khác để phục hồi kinh tế.
Hệ thống luật pháp:
Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước có hệ thống luật pháp khoa học và chặt chẽ nhất. Ở đây có rất nhiều đạo luật liên bang bảo vệ người tiêu dùng. Mỗi đạo luật được thực thi và giám sát bởi một cơ quan chính phủ liên bang như Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ, Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm ủy ban thương mại liên bang (FTC), Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải (DOT) và Cục an toàn giao thông đường cao tốc quốc gia (NHTSA), Bộ Nông nghiệp. Mỗi cơ quan có thể chịu trách nhiệm một hay nhiều bộ luật khác nhau.
Tất nhiên việc xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ không gặp nhiều thủ tục phức tạp như hàng thực phẩm, nhưng vẫn rất cần chú ý một số các điều luật liên quan chặt chẽ đến loại hàng hóa này bao gồm:
Các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban an toàn tiêu dùng (CPSC) về an toàn tiêu dùng.
Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm.
Theo thông luật bảo vệ người tiêu dùng (Common Law Consumer Protection) hay còn gọi là Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm (Products Liability Law), cơ quan luật pháp Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối.
Đạo lụât Lacey.
Chính phủ Mỹ có thể áp dụng Luật Lacey để áp đặt các hình thức phạt khắt khe đối với các cá nhân và công ty không nhận thức được sản phẩm gỗ của họ có nguồn gốc bất hợp pháp. Các hình thức phạt quy định theo luật này bao gồm phạt hành chính, tịch thu hàng hóa buôn lậu, phạt hình sự hoặc bỏ tù. Một hành vi vi phạm đạo luật Lacey có thể dẫn đến các cáo buộc khác về buôn lậu hoặc rửa tiền. Đạo luật Lacey sẽ được áp dụng với tất cả các sản phẩm gỗ và động, thực vật hoang dã xuất khẩu.
Đạo luật về cải tiến an tòan tiêu dùng.
Đạo luật này đã được Quốc hội Mỹ thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 15/8/2008. Văn bản quy định những điều kiện liên quan đến nhập khẩu một số mặt hàng chiếm thị phần xuất khẩu lớn của Việt Nam. Từ ngày 15/8/2009 tới, một số quy định mới trong Đạo luật về cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng sẽ tác động trực tiếp đến việc sản phẩm dệt may và đồ nội thất của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Ông Richard O'Brien, Giám đốc Chương trình Quốc tế và Đối ngoại Liên Chính phủ, Uỷ ban An toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC) cho rằng, để hạn chế tối đa rủi ro hàng hóa bị từ chối nhập khẩu vào Hoa Kỳ vì lý do không an toàn cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may và đồ gỗ Việt Nam cần cập nhật những qui định mới nhất trong việc nhập khẩu hàng dệt may và đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ nói chung và đáp ứng được những quy định trong Đạo luật "Cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng" (CPSIA) nói riêng.
Ông cũng nhấn mạnh: "Đây là một đạo luật rất phức tạp, có tính bắt buộc chứng nhận tiêu chuẩn cao hơn so với luật cũ, nếu vi phạm có thể dẫn đến các mức phạt dân sự và hình sự, đồng thời Chính phủ Mỹ có thể ra lệnh tiêu hủy sản phẩm nếu vi phạm".
Việc kiểm định và cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn phải được thực hiện bởi một cơ quan đánh giá độc lập do CPSC công nhận. Giấy chứng nhận này phải kèm theo sản phẩm hay chuyến hàng xuất khẩu sản phẩm và phải có sẵn để cho CPSC và Hải quan Mỹ kiểm tra khi có yêu cầu.
Đối với sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu, theo ông Richard O'Brien, việc nhập khẩu đồ gỗ nội thất vào Hoa Kỳ tương đối dễ, không cần xin giấy phép nhập khẩu hay một một loại giấy tờ đặc biệt nào. Tuy nhiên, mặt hàng này cũng có một số quy định khá chặt chẽ đối với các sản phẩm nội thất dành cho trẻ em, đồ nội thất có thành phần dệt và đồ nội thất chiếu sáng.
Cụ thể, đối với các loại giường cũi cho trẻ em, có những quy định rất chặt chẽ liên quan đến chiều cao của thanh bao quanh, khoảng cách giữa các bộ phận của cũi, kích cỡ bên trong, chi tiết hoàn thiện, các linh kiện bằng kim loại và phải có hướng dẫn tháo lắp đối với những bộ phận tháo ghép.
Ngoài ra, nhà nhập khẩu các loại cũi cho trẻ em phải duy trì hồ sơ lưu trữ trong vòng 3 năm kể từ ngày sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm này. Hộp carton đóng gói cũi và trên cũi phải dán nhãn với những thông tin: tên, địa điểm kinh doanh của nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối hoặc bán hàng...
Nhãn hàng phải lưu ý người sử dụng dùng các loại đệm với kích cỡ cụ thể cao bao nhiêu, dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu và lưu ý này phải viết bằng chữ hoa với chiều cao ít nhất là 1/4 inch và phải rõ ràng, dễ đọc, tương phản với nền chữ. Nhãn phải đảm bảo không dễ bị tẩy xoá, mất dấu và tồn tại lâu dài cùng với sản phẩm.
Ngoài các đạo luật liên bang này, cần phải hiểu về sự đa dạng và quy mô của thị trường Mỹ với 50 tiểu bang. Tiểu bang này có thể khác với tiểu bang nọ. Ví dụ luật của California buộc đồ gỗ phải bảo đảm an toàn khi sử dụng , một cái ghế mà người tiêu dùng mới mua về chưa bao lâu mà đã gãy, người ngồi ghế bị té ngã, thì người bán sẽ bị kiện ra toà. Một ví dụ khác nữa là một số tiểu bang buộc một số loại đồ gỗ phải được làm bằng loại gỗ bắt cháy chậm, hoặc cho phủ thêm loại hóa chất giúp cho đồ gỗ khó bốc cháy khi gặp mồi lửa. Những chuyện như vầy thì các nhà sản xuất đồ gỗ Việt Nam cần quan tâm và bàn bạc với người nhập hàng bên Mỹ.
Chứng chỉ/tiêu chuẩn Mỹ.
Chứng nhận vệ sinh dịch tễ:
Ổ rơm hay đồ bao bọc bằng gỗ khi nhập vào Mỹ phải có giấy chứng nhận vệ sinh dịch tễ. Giấy chứng nhận này có thể do nhà xuất khẩu cung cấp. Giấy chứng nhận cần xác nhận rằng các sản phẩm không bị nhiễm bệnh hay dịch của gỗ. Quy định này do Văn phòng điều tra sức khỏe động thực vật ban hành tại các điều khoản của 7 CFR 300 và 7 CFR 319. Giấy chứng nhận xử lý nhiệt cũng được yêu cầu đối với việc nhập khẩu các nguyên liệu đóng gói bằng gỗ.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như: các quy tắc vệ sinh dịch tễ và các yêu cầu về chứng chỉ vệ sinh dịch tễ đối với đồ nội thất được nhồi đệm quá phiền phức hay các quy định kiểm tra gỗ thông của Mỹ khác với quy định của EU.
Tiêu chuẩn về đồ gỗ của Mỹ:
Hiệp hội ngành gỗ CEI Bois đã chuyển đến ban tư vấn những phàn nàn liên quan đến các khó khăn mà các thành viên gặp phải trong việc tuân thủ một số tiêu chuẩn của Mỹ:
Gỗ thông xẻ khung: Chất lượng của các bộ phận của gỗ xẻ phải được Ủy ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ thử nghiệm và công nhận trên cơ sở vị trí địa lý của khu vực trồng.
Gỗ thông đã được cưa (HS 4407): hệ thống ALS yêu cầu kiểm tra kỹ thuật thiết yếu và giám sát chất lượng hàng tháng tại xưởng cưa đối với cấp độ xây dựng.
Gỗ ván sàn: Chi phí vận tải cao hơn do việc hạn chế khối lượng vận tải (21 tấn/xe chở). Theo các nhà xuất khẩu và nhập khẩu của Mỹ, quy định vận tải của Mỹ không cho phép các xe có trọng lượng vượt quá 21 tấn.
Tiêu chuẩn của ALDS:
Các tiêu chuẩn của ALDS (Ủy ban tiêu chuẩn gỗ Mỹ) về quy tắc phân loại gỗ tuy không bắt buộc thì các nhãn hàng vào Mỹ cũng nên xem xét việc tôn trọng các tiêu chuẩn của Mỹ để tiêu thụ hàng hóa của mình tại Mỹ. Việc tôn trọng các tiêu chuẩn này sẽ gây ra các chi phí bổ sung cho các công ty xuất khẩu, bởi vì họ sẽ phải tiến hành những cuộc thử nghiệm mới và phải lắp đặt máy móc mới.
Cùng với chương trình chứng nhận gỗ chưa được xử lý, Ủy ban ALSC cũng quản lý chương trình chứng nhận dán nhãn chất lượng cho gỗ đã qua xử lý được sản xuất theo tiêu chuẩn do Hiệp hội bảo tồn gỗ Mỹ ban hành và giám sát, chương trình dán nhãn gỗ nguyên liệu đóng gói không có nguồn gồc công nghiệp do Hiệp ước bảo vệ gỗ quốc tế quy định. Từ tháng 7/2001, chương trình đóng gói gỗ không có nguồn gốc công nghiệp đã được áp dụng.
Theo một số công ty, cần phải bỏ nhiều chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn phân loại của Mỹ. Để có thể xuất khẩu gỗ chưa được xử lý sang Mỹ, các tiêu chuẩn của Mỹ yêu cầu tiệt trùng cụ thể và các thiết bị để tiệt trùng lại rất đắt. Hơn thế, máy móc thiết bị sản xuất phải được văn phòng do Mỹ ủy quyền kiểm tra. Các công ty thường miễn cưỡng xuất trình kỹ thuật này bởi họ không biết liệu công việc kinh doanh của mình với Mỹ có thành công hay không. Canada cũng áp dụng quy định tương tự và chính tình trạng này đã làm hạn chế việc xuất khẩu của các nước vào thị trường Bắc Mỹ.
Quy tắc dán nhãn.
Hàng gỗ nội thất cần được dán nhãn theo đúng Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý -15 CFR, mục 500-503.
Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý yêu cầu mỗi kiện hàng hóa tiêu dùng dành cho hộ gia đình (mặt hàng mà được đưa vào đạo luật) phải mang nhãn hiệu hàng hóa, theo đó:
Tuyên bố xác định hàng hóa.
Tên và địa chỉ của nơi sản xuất, đóng gói hoặc phân phối.
Khối lượng tịnh của sản phẩm về mặt trọng lượng, kích thước hay số đém (kích thước phải được đo bằng đơn vị inch và cm).
Liên quan đến đồ nội thất gia đình, Ủy ban Thương mại Liên bang đã thông qua một hướng dẫn liên ngành công nghiệp đồ gỗ gia dụng. Hàng nội thất và các bộ phận của nó phải tuân thủ với các quy định cụ thể với mục đích bảo vệ người tiêu dùng (16CFR). Hướng dẫn này dự báo từng nhãn hàng hóa cụ thể miêu tả đồ gỗ và hàng nhái cũng như nhãn hiệu liên quan đến đặc điểm của hàng hóa. Nhãn hiệu cần chứa đựng các thông tin về kiểu dáng và nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Hướng dẫn này cũng cần điều chỉnh việc sử dụng một số thuật ngữ cụ thể, ví dụ từ “new” (mới). Thông tin đầy đủ của cuốn hướng dẫn này có thể tham khảo trên website của Ủy ban thương mại Liên bang. Các quy định này không bắt buộc pahỉ tuân thủ đối với thủ tục qua hải quan nhưng phải tuân thủ nếu muốn bán hàng tại Mỹ.
Bên cạnh đó, đạo luật các chất có khả năng gây hại của Liên bang còn bổ sung một số yêu cầu đối với mặt hàng gỗ gia dụng dùng cho trẻ em (giường) (xem 16CFR 1508; 16CFR 1500; 16CFR 1513). Các nhà nhập khẩu hang nhồi đệm cần phải chú ý rằng một số nước đã quy định nhãn bổ sung đối với đồ gỗ cho trẻ em hoặc các dạng khác của đồ gỗ nội thất.
Đạo luật hàng vải dễ cháy cũng quy định các tiê chuẩn an toàn cháy nổ cụ thể. Đạo luật này chỉ được áp dụng đối với vải được dùng để sản xuất trang phục (vải thuộc về trang trí thuộc về tiêu chuẩn tự nguyện). Các nước thành viên đã báo cáo rằng cấp độ liên bang đối với hàng vải trang trí đã bị bắt buộc phải áp dụng tại cấp độ bang (như Califonia, Masachusett).
Phân tích luật pháp.
Các quy định của Mỹ về gỗ và đồ gỗ như sau:
HTS 94: Đồ nội thất: Bao gồm các loại ghế, đồ đạc dụng cụ trong bệnh viện; các đồ đạc trong nhà, văn phòng, giường tủ, bàn ghế, đệm; đèn và các tám ngăn xây dựng làm sẵn… Các đồ dùng này có thể làm hoàn toàn bằng kim loại, gỗ, nhựa, hay làm khung có bọc da, vải hoặc các vật liệu khác.
Đối với danh mục hàng này, việc nhập khẩu phải:
Phù hợp với các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban an toàn tiêu dùng (CPSC) về an toàn tiêu dùng.
Đối với đệm: phù hợp với các tiêu chuẩn Underwriter’s Laboratory (UL), do CPSC quản lý.
Các đồ có thành phần là vải dệt phải ghi theo các quy định TFPLA về xác định nguồn gốc vải.
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hóa thuộc nhóm HTS94:
Số văn bản
Loại biện pháp áp dụng
Cơ quan nhà nước điều hành
15 USC 1191-120415 USC 126315 USC 70-7716 CFR 1610, 1611, 1615, 1616, 1630-163219 CFR 1112b
Luật về hàng dệt may dễ cháyQuy chế an toàn tiêu dùngTFPIA-Luật về hàng dệt mayTiêu chuẩn hàng dệt may dễ cháyQuy chế về nhãn mác dệt may
FTC, CPSC, USCSFTC, CPSC, USCSFTC, CPSC, USCS
FTC, CPSC, USCS
Về hệ thống thuế.
Mức thuế ở Mỹ nói chung là thấp. Đối với đồ gỗ thuộc mã HS 44, thuế quan thay đổi từ 0 đến 10,7%. Trên thực tế, thuế đánh vào gỗ dán cao nhất (8 và 10,7%). Thuế suất được áp dụng cho hàng gỗ nội thất (mã HS94) đa số là 0% và có một số mặt hàng đệm giường bằng lông vịt có mức thuế 9 và 13% (HST 94043080 và 94049085 và 13%).
Một số công ty sản xuất gỗ lâm sản nhà đã phàn nàn về gánh nặng thuế phụ thu đánh vào các nhà nhập khẩu, điều này sẽ làm tăng mức thuế nhập khẩu. Cụ thể:
Phí xử lý hàng hóa (MPF) (0,21%) theo giá FOB, trị giá từ 25 USD đến 485 USD. Phí này do Hải quan Mỹ và Puerto Rico thu.
Thuế bảo quản cầu cảng (HMT) (0,125%) giá FOB
Loại khác: phí thanh quản và tiền đặt cọc (bond) nộp cho Hải quan.
Biểu thuế nhập khẩu của Mỹ được đăng trên mạng của Ủy ban Thương mại Quốc tế của Mỹ là: www.usitc.gov
Thủ tục hải quan.
Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ (HST44), các thủ tục rời bến được cho là quá nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Hải quan Mỹ đã thay đổi phân loại gỗ dán (HS 4412) và nhiều loại đã bị tăng thuế từ 0% lên 8%. Còn với hàng gỗ nội thất (HS 94), thủ tục hải quan không quá khó khăn. Việc nhập khẩu hàng gỗ và gỗ nội thất phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định trong các bộ luật của các quy định liên bang (các văn bản nhập khẩu – 19 CRF 141; điều tra Hải quan – 19 CFR 151 và thuế Hải quan 19 CFR – 159).
Tất cả hàng hóa được nhập vào Mỹ phải được dán nhãn xuất xứ. Hải quan Mỹ có một yêu cầu chung cho việc ghi nước xuất xứ vào tất cả các mặt hàng ngoại nhập vào Mỹ. Các mặt hàng này phải được dán nhãn dễ đọc với tên tiếng Anh của nước xuất xứ trừ phi pháp luật có quy định khác. Trong các sản phẩm gỗ, chỉ gỗ xẻ, rào gỗ, gỗ lát nền là không cần dán nhãn xuất xứ. Nhãn mác xuất xứ phải dễ đọc và phải dán ở mặt dễ nhận thấy, đồng thời phải khó tẩy xóa và lâu bền cùng sản phẩm. Tuy nhiên bất kỳ một biện pháp hợp lý trong dãn nhãn đều được chấp nhận kể cả mác dính. Chỉ có một điều kiện duy nhất đó là mác dính luôn phải dính trên sản phẩm và chỉ có thể bị phá hủy bởi các hành động có chủ ý.
Các hàng hóa được yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ nếu nhập vào Mỹ mà không có nhãn mác xuất xứ sẽ phảỉ nộp thuế phụ thu hoặc bị phá hủy theo yêu cầu điều tra của hải quan trước khi đưa vào Mỹ. Các nhà xuất khẩu nên dán nhãn xuất xứ vào sản phẩm một cách chính xác để tránh bị phạt và nộp phí bổ sung
Các rào cản thị trường phi luật pháp.
Người tiêu dùng Mỹ cũng rất quan tâm các yếu tố về môi trường và xã hội. Ngoài cơ cấu pháp luật nghiêm khắc cho việc bảo vệ môi trường, người tiêu dùng cũng sẽ ưu tiên những mặt hàng gỗ có chứng nhận rừng FSC, hoặc những sản phẩm khác có nguồn gốc xuất xứ bảo đảm cho việc bảo tồn, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, họ có thể tẩy chay không sử dụng hàng hóa của một nước hay một công ty nếu b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ việt nam vào thị trường mỹ.doc