Lời nói đầu 1
I. Lịch sử TTCK 2
1. Lịch sử hình thành 2
2. Các khái niệm 3
II. Sự hình thành TTCK tại Việt Nam 4
A. Tính tất yếu của việc hình thành TTCK tại Viẹt Nam 4
1.Do yêu cầu của nền kinh tế 4
2.Do yêu cầu của Nhà nước 5
B. thực trạng TTCK ở Việt Nam hiện nay 5
1.Thực trạng 5
2.Những thuận lợi cho việc hình thành một TTCK thực sự tại Việt Nam 6
3.Chủ thể tham gia TTCK 6
4.Hàng hoá ở TTCK 7
5.Những vấn đề còn tồn tại 7
C.Định hướng và giải pháp để phát triển TTCK ở Việt Nam 9
1.Định hướng phát triển TTCK ở Việt Nam 9
2.Giải pháp để khắc phục những hạn chế về vấn đề hàng hoá trong TTCK 10
Kết luận 12
Tài liệu tham khảo 13
16 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp để khắc phục những hạn chế về vấn đề hàng hoá trong thị trường chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện.. Trong các phiên giao dịch họ thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng Dần dần những quy ước đó được tu bổ hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những người tham gia. Từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành.
Phiên chợ đầu tiên năm 1453 tại Vanber của Bỉ sau đó được xuất hiện ở Anh năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thụy sĩ 1876, ở Nhật 1878, ở Pháp 1801, ở Hương Cảng 1946, ở Inđônêxia 1925, ở Hàn Quốc 1956, ở Thái Lan 1962, ở Malaysia và Philipin 1963.
Quá trình hình thành và phát triển của các thị trường chứng khoán thế giới đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm 1975 - 1913 cùng với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế. Cũng có lúc thị trường chứng khoán rơi vào đêm đen như ngày thứ năm đen tối tức ngày 29/10/1929 rồi ngày thứ hai đen tối năm 1987, vừa qua tháng 7/97 thị trường chứng khoán ở các nước Châu á sụt giá, mất lòng tin bắt đầu từ Thái Lan. Đến nay thị trường chứng khoán các nước đang phát triển mạnh mẽ về số lượng thị trường chứng khoán lên đến 160 sở giao dịch, chất lượng hoạt động thị trường ngày càng đáp ứng cho số đông những nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến tới một thị trường chứng khoán hội nhập khu vực và quốc tế.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công nghiệp hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp… Bên cạnh đó hơn 40 nước phát triển đã thiết lập thị trường chứng khoán cũng đã hình thành ở các nước láng giềng Việt Nam như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin và Inđônêxia và Việt Nam cũng đã có trung tâm giao dịch thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. (7/2000)
2. Các khái niệm
a. Chứng khoán:
Chứng khoán là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công ty cổ phần. Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty cổ phần, người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh.
Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận nhiều hơn giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua lỗ. Cổ đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ phần, họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán.
Trái phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở hữu trái phiếu đối với đơn vị phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán mà lãi suất vay nợ đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức cố định và chỉ được hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mà người phát hành phải thực hiện. Trái phiếu do các doanh nghiệp có thể là quốc doanh, tư doanh hay cổ phần phát hành. ở Việt Nam hình thức vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu đã xuất hiện ở một vài nơi. Ví dụ như việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất của nhà máy xi măng Hoàng Thạch vào cuối năm 994, một số doanh nghiệp khác cũng có hình thức huy động vốn này để vay của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Kỳ phiếu là chứng chỉ của nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của ngân sách Nhà nước. Trong vài năm trở lại đây, kho bạc nhà nước đã phát hành kỳ phiếu kho bạc rộng rãi trong cả nước.
b. Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (tiếng latinh là Bursa - nghĩa là cái ví tiền) là nơi mà cung và cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả. Số lượng của từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường.
Cụ thể hơn thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều vốn hơn để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế tăng trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa nêu trên, thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua vào hoặc bán ra các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch (mua - bán) chứng khoán của những người muốn mua hay bán chứng khoán mà là của những nhà môi giới. Nếu một người muốn mua hay bán chứng khoán, người này sẽ thông qua người môi giới chứng khoán của anh ta trên thị trường chứng khoán để tiến hành việc mua bán chứ không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả chứng khoán được hình thành một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai chiều. Người môi giới mua khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh với những người môi giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị trường chứng khoán là thị trường có tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
II . Sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
A. Tính tất yếu của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
1. Do yêu cầu của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
"Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu mới có hình thức giao lưu vốn giáp tiếp nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả tối ưu nguồn vốn còn khá tiềm tàng của đất nước. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, nâng cao trình độ giao lưu vốn gián tiếp, cần phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức giao lưu vốn trực tiếp"* Theo thị trường tài chính tiền tệ số 12: tháng 6/2000
.
Giao lưu vốn trực tiếp là hình thức giao lưu vốn chủ yếu thông qua phương thức thu hút vốn bằng phát hành các phương tiện tín dụng, như trái phiếu, cổ phiếu.
Phương thức giao lưu vốn trực tiếp có nhiều ưu điểm nổi bật hơn phương thức giao lưu vốn gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với việc hoàn thiện tổ chức giao lưu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển mạnh giao lưu vốn trực tiếp nhằm làm phong phú thị trường tiền vốn và đổi mới cơ chế giao lưu vốn theo hướng hiện đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức giao lưu vốn trên cùng tồn tại, phát triển và bổ sung cho nhau thì thị trường tiền tệ - tín dụng mới từng bước được cải tiến, thị trường chứng khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một thị trường tiền tệ - tín dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi nguồn vốn tiềm tàng trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
2. Do yêu cầu của nhà nước.
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước ta đã có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
B. Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng.
Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có 80 doanh nghiệp cổ phần trong đó có 24 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công thương nghiệp dịch vụ, 22 ngân hàng thương mại và 2 công ty tài chính với số vốn cổ phần lên tới 250 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này ngoài việc phát hành cổ phiếu, một số đơn vị (chủ yếu là các ngân hàng và các công ty tài chính) đã phát hành các loại kỳ phiếu trung hạn. Ngoài ra các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển quốc doanh, kho bạc nhà nước cũng đã phát hành các loại kỳ phiếu có mục đích… tất cả các loại kỳ phiếu, cổ phiếu nói trên đều có thể tham gia thị trường chứng khoán, do vậy có thể nói rằng Việt Nam hiện nay đã có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động. Đến ngày 31/8/2000 đã có hai phiên giao dịch. Hiện nay mới chỉ có 2 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu là công ty điện lạnh (REE) và công ty vật liệu bưu chính viễn thông (SACOM) cho nên hàng hoá cần cho thị trường rất ít.
Nói chung lại, thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ tồn tại ở mức độ rất sơ khai, chưa thực sự là thị trường chứng khoán với đúng ý nghĩa của khái niệm thị trường chứng khoán đã được mọi người nhìn nhận.
2. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trường chứng khoán thực sự tại Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến triển cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức 9%, nền kinh tế đã bắt đầu ổn định. Thu nhập của dân cư đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, chính sách một giá tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các khu vực trong nước. Lãi suất tín dụng và lãi suất tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan giữa cung và cầu vốn trên thị trường. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị đang phát huy những tác động tích cực tới nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút nhiều vốn trong nước cũng như vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh. Sự ra đời của các cổ phiếu, trái phiếu do các công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước, phát hành tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán ra đời.
Thêm vào đó, nền kinh tế thị trường cũng đang làm tiến triển dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu cầu của người đầu tư vốn. Người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
Các yếu tố trên đây tạo thuận lợi cho sự ra đời của thị trường chứng khoán và khẳng định là thị trường chứng khoán sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu cầu của người đầu tư vốn, người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Ai có thể tham gia thị trường chứng khoán ?
Mọi người dân trong cả nước đều có thể tham gia mua, bán chứng khoán qua sáu công ty chứng khoán theo nguyên tắc: Giao dịch chứng khoán là qua trung gian như: Công ty CKCP Bảo Việt (Hà Nội); Công ty chứng khoán Thăng Long (HN); Công ty CKCP Sài Gòn; Công ty CKCP Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu (TPHCM); Công ty CKCP Bình Dương; Công ty TNHHCK Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Các công ty chứng khoán có vốn điều lệ từ 6 tỷ đồng đến 55 tỷ đồng chuyên môi giới chứng khoán tự doanh bảo lãnh, phát hành, quản lý danh mục đầu tư lưu ký. Chỉ đại diện các công ty chứng khoán mới được giao dịch trực tiếp trên hệ thống máy tính, khách hàng muốn làm quen và thông thạo tình hình thị trường chứng khoán cần lựa chọn, tìm cho mình một công ty chứng khoán cung cấp thông tin, tư vấn và làm môi giới mua bán CP.
Ai cũng có thể tham gia phiên giao dịch với số tiền tối thiểu 10.000đ. Hiện nay mệnh giá CP phát hành thấp nhất là 100.000đ nhưng phiên giao dịch đầu tiên có thể do công ty phát hành CP với mệnh giá 100000đ nhằm tạo điều kiện cho người ít tiền cũng có thể mua được.
Để tham gia thị trường chứng khoán người mua cần đăng ký mở tài khoản tiền mặt tại ngân hàng được chỉ định thanh toán chứng khoán và một tài khoản chứng khoán cũng tại ngân hàng này. Người bán cũng vậy, thị trường giao dịch chứng khoán sẽ mở cửa từ 8h sáng đến 15h chiều các ngày thứ 2,4,6 hàng tuần. Khi phiên giao dịch được mở (thí dụ vào 8h sáng ngày 20/7) người mua cầm sổ tài khoản đến các công ty chứng khoán hoặc văn phòng đại diện công ty bán chứng khoán. Khách hàng có thể ra lệnh mua bán trước phiên giao dịch và được thông tin liên tục qua Internet, điện thoại, Fax… về kết quả mua bán trong phiên giao dịch về giá CP của mình bán ra, giá các loại CP ở từng thời điểm.
4. Hàng hoá ở thị trường chứng khoán.
Câu hỏi đưa ra hàng hoá ở thị trường chứng khoán Việt Nam là gì?
Đó là CP và trái phiếu, đó là hai loại chứng khoán cơ bản, cổ phiếu là chứng khoán vốn (người đầu tư là chủ sở hữu), trái phiếu là chứng khoán nợ (người đầu tư là chủ nợ), giá trái phiếu thường ít biến động hơn so với giá cổ phiếu do tiền lãi thu được từ trái phiếu là cố định, còn cổ phiếu có thể tăng giảm tùy thuộc lợi nhuận của doanh nghiệp. Biên độ giá chứng khoán không vượt quá +5% (Với CP) là 1,8% với trái phiếu người đầu tư vào chứng khoán không phải trả một khoản thuế nào.
Nhà đầu tư (người mua) bằng lòng với lợi nhuận thấp nhưng ổn định thường chọn trái phiếu làm đối tượng đầu tư. Ngược lại ai dám mạo hiểm, chấp nhận rủi ro để lấy một tiềm năng lợi nhuận lớn sẽ chọn cổ phiếu.
Theo uỷ ban chứng khoán nhà nước hiện cả nước có 370 công ty cổ phần trong đó có trên 100 công ty có khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên để tạo lòng tin của công chúng, hàng hoá trong thời gian đầu đòi hỏi chất lượng và ổn định. Vì vậy công ty CP cơ điện lạnh REE và công ty CP cáp và vật liệu viễn thông SACOM và có thể thêm cổ phiếu của công ty giao nhận và kho vận ngoại thương Trasimex Thành phố HCM và công ty XNK chế biến nông sản Long An được niêm yết. Ngoài ra sẽ có thêm vài trăm tỉ đồng trái phiếu của nhà nước cũng được mua bán.
Điều kiện để các công ty có cổ phiếu tham gia giao dịch là 2 - 3năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh được kiểm toán xác nhận, có đủ 10 tỷ đồng vốn trở lên.
Trên cơ sở ấy, vụ quản lý phát hành của Uỷ ban chứng khoán nhà nước sẽ quyết định cổ phiếu của công ty có được tham gia giao dịch hay không.
5. Những vấn đề còn tồn tại.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, hiện nay vẫn còn tồn tại các khó khăn cản trở sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Nhìn toàn cảnh, nền kinh tế vẫn chưa đạt thật sự ổn định, nguy cơ lạm phát vẫn còn làm các nhà quản lý kinh tế đau đầu. Hiệu quả của sản xuất trong nước còn thấp nhất là ở các doanh nghiệp nhà nước. Các sản phẩm nội địa của ta đang phải cạnh tranh chật vật với các sản phẩm của nước ngoài. Sự thua lỗ của nhiều doanh nghiệp quốc doanh và sự quản lý cồng kềnh của các ngành ngân hàng tài chính gây nên khó khăn và tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư.
Xét riêng về các khó khăn đối với sự hình thành thị trường chứng khoán, em thấy còn những tồn tại lớn tập trung ở các điểm sau:
Thứ nhất: Hàng hoá (các loại chứng khoán) để giao dịch trên thị trường chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn về chất lượng cũng như chưa đủ về khối lượng để giao dịch khi thị trường chứng khoán chính thức được hình thành số lượng và giá trị cổ phiếu hiện nay còn quá nhỏ chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường chứng khoán khi nó ra đời. Các loại trái phiếu tuy có đa dạng nhưng phần lớn là các trái phiếu ngắn hạn không phải là đối tượng chính để mua bán trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai: Hệ thống ngân hàng tuy đã đổi mới nhưng chưa mạnh cần tiếp tục phát triển để đáp ứng các yêu cầu về thanh toán, chuyển giao, lưu trữ và thực hiện các dịch vụ khác.
Thứ ba: Chưa có khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Hiện nay mặc dù đã có luật công ty, luật dân sự… Chúng ta vẫn thiếu các văn bản pháp luật về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Các văn bản có liên quan về phát hành chứng khoán, kiểm toán, kế toán tuy đã có nhưng chưa đồng bộ để có khả năng bao quát toàn bộ hoạt động của thị trường chứng khoán. Thêm vào đó là việc chấp hành không nghiêm chỉnh luật pháp đã kéo theo những hậu quả tiêu cực làm giảm lòng tin trong dân chúng về hiệu lực của pháp luật.
Đây là khó khăn có ý nghĩa đặt biệt quan trọng khi mà khó khăn này chưa được khắc phục thì việc tổ chức một thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh là không thể có được.
Thứ tư: Việt Nam chưa tổ chức được một hệ thống định chế tài chính hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán. Một khi chưa có các tổ chức này thì không thể hình thành được một thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng nguyên tắc của thị trường.
Thứ năm: Thiếu cán bộ, kể cả cán bộ quản lý giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và cán bộ trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Lâu nay đã có tới hàng nghìn cán bộ từ nhiều cơ quan đã đi khảo sát về thị trường chứng khoán, nhưng chưa có đội ngũ được đào tạo cơ bản về quản lý và kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Như vậy, để thành lập được một thị trường chứng khoán hoạt động tốt cần phải tiến hành một khối lượng các công việc chuẩn bị rất lớn, đồng bộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Chúng ta cũng cần tuyên truyền, giáo dục các kiến thức cơ sở về thị trường chứng khoán cho nhân dân, củng cố lòng tin của họ bằng các luật, qui định chặt chẽ và khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ chứng khoán và thiết lập hệ thống thông tin kinh tế tài chính rộng lớn.
C. Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thị trường chứng khoán là một thị trường cao cấp có tác động rất lớn đến nền kinh tế của đất nước vì vậy quá trình thành lập thị trường chứng khoán phải rất thận trọng bên cạnh việc nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm cuả nước ngoài chúng ta phải tiến hành phân tích đánh giá các điều kiện trong nước để xây dựng thành công thị trường chứng khoán.
Từ tính chất phức tạp và điều kiện hiện nay tại Việt Nam, mô hình tổ chức thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu nên đơn giản để phù hợp với môi trường kinh tế, tài chính, pháp lý hiện tại. Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và hoàn thiện thị trường sơ cấp để phát hành cổ phiếu nhằm thu hút nguồn vốn tiết kiệm từ dân chúng vào quá trình đầu tư đồng bộ từng bước hình thành thị trường sơ cấp tổ chức buôn bán và kinh doanh chứng khoán. Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán có hai sàn giao dịch.
Một tại Hà Nội, một tại TPHCM, theo mô hình trên cơ cấu tổ chức và điều hành sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức liên hệ sẽ bao gồm:
- Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
- Sở giao dịch chứng khoán.
- Các tổ chức môi giới chứng khoán
- Các quỹ đầu tư
- Các cơ quan kiểm toán độc lập
- Thông tin kinh tế.
Đầu tiên về uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ là cơ quan thực hiện việc quản lý nhà nước về các hoạt động của thị trường chứng khoán trong phạm vi9 cả nước do chính phủ thành lập. Trong giai đoạn đầu, uỷ ban này có nhiệm vụ triển khai các công việc để thành lập thị trường chứng khoán như: Xây dựng các chính sách của nhà nước về phát triển chứng khoán và thị trường chứng khoán, soạn thảo và trình quốc hội để ban hành hệ thống luật pháp về thị trường chứng khoán.
Thứ hai về việc mở sàn giao dịch chứng khoán và quyền sở hữu đối với sở giao dịch chứng khoán. Giai đoạn đầu chưa nên mở sở giao dịch chứng khoán nhưng khi mở lúc đầu sở giao dịch chứng khoán sẽ do nhà nước thành lập, sau đó sẽ áp dụng theo thông lệ quốc tế tức là chuyển sang tổ chức theo qui chế tự điều chỉnh. Trong giai đoạn đầu, sở giao dịch chứng khoán chưa có khả năng và cũng chưa đòi hỏi phải giao dịch hết ngày trong tuần.
Thứ ba về các công ty môi giới chứng khoán. Hoạt động của thị trường chứng khoán trước hết cần những người môi giới chứng khoán. Có hai loại môi giới chứng khoán là: môi giới chứng khoán ăn hoa hồng và thương gia chứng khoán. Để thị trường hoạt động được phải có hai loại môi giới này. Trong giai đoạn đầu cần phải chú ý đến các môi giới ăn hoa hồng để tạo điều kiện cho các loại chứng khoán được giao dịch thuận lợi.
Thứ tư về các quĩ đầu tư: Đồng thời do việc thiết lập thị trường chứng khoán, nhà nước cần có chủ trương cho thành lập các quĩ đầu tư.
Thứ năm về công tác kiểm toán: Kiểm toán không phải là một bộ phận công tác thuộc cơ cấu tổ chức, bộ máy trực tiếp quản lý và điều hành thị trường chứng khoán nhưng rất cần thiết cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Các công ty muốn phát hành chứng khoán và đưa chứng khoán ra thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo tài chính kết quả kinh doanh và các tài liệu khác có liên quan đến việc phát hành chứng khoán.
Thứ sáu về hệ thống thông tin kinh tế: Đây là công tác cần thiết cho hoạt động thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ dễ dàng và tự tin hơn khi họ đầu tư vào chứng khoán của các công ty có kết quả sản xuất tốt, có khả năng phát triển, các quyết định này được đưa ra dựa trên các thông tin mà họ nhận được từ hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán. Hội đồng chứng khoán quốc gia quyết định cho phép phát hành hoặc định chỉ phát hành. Các chứng khoán của một doanh nghiệp nào đó cần phải có thông tin. Thị trường chứng khoán hoạt động chịu sự tác động nhiều của các yếu tố ngoại lai như tình hình chính trị, xã hội tại từng thời điểm do vậy cũng cần phải có thông tin.
Thứ bảy về thể thức thanh toán: Giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam nên học tập Trung Quốc tiến hành phi vật chất hoá chứng khoán ngay từ đầu để áp dụng một hệ thống thanh toán bù trừ càng sớm càng tốt nhằm tiếp thu công nghệ mới và khắc phục sau này khi thị trường chứng khoán phát triển đến mức độ cao.
2. Giải pháp để khắc phục những hạn chế về vấn đề hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Theo ý kiến: Từ nay đến cuối năm, nhà nước sẽ tổ chức đấu thầu và niêm yết tại các thị trường giao dịch chứng khoán khoảng 2.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ và lượng hàng giao dịch tại các thị trường giao dịch chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể. Ngoài ra uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng nên nhanh chóng xem xét để cấp giấy phép cho 3 công ty nữa niêm yết và đưa cổ phiếu vào giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tăng trái phiếu nhà nước.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phối hợp với ngân hàng nhà nước để có giải pháp tháo gỡ đối với những hạn chế trong việc chuyển nhượng cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần và xúc tiến lưạ chọn một số ngân hàng cổ phần có vốn lớn, làm ăn có lãi, tỷ lệ nợ quá hạn thấp để đưa vào danh sách niêm yết giao dịch, phối hợp với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam để chuẩn bị hoặc các điều kiện đối với các trái phiếu ngân hàng đầu tư đã phát hành ra thị trường có kỳ hạn 5 năm và thời gian đáo hạn đồng nhất để đưa vào niêm yết giao dịch. Vấn đề cần giải quyết là hệ thống ngân hàng cần tiếp tục để đáp ứng yêu cầu về thanh toán.
Như ví dụ đối với hoạt động kinh doanh mua bán chứng khoán cho ngân hàng trong đó có phần hoạt động dịch vụ bảo lãnh phát hành, nó liên quan đến vốn ngân hàng phải lập công ty chứng khoán riêng… còn các loại hình dịch vụ khác không sử dụng đến tiền vốn và ít rủi ro, bản thân NHTM với tư cách là một định chế tài chính - tiền tệ, có sẵn bộ máy tổ chức sao không thể tự mình đảm đương chỉ cần lập 1 bộ phận chức năng "phòng dịch vụ chứng khoán".
Ngay trong cơ chế lập riêng công ty chứng khoán của NHTM, ngân hàng nhà nước cũng nên xem xét lại quy định có tính chất "ràng buộc cả gói". Muốn lập công ty chứng khoán, NHTM phải hoạt động có lãi nợ quá hạn dưới 50%…
Thứ ba: Giải quyết về khung pháp lý.
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam, đồng thời cũng là lĩnh vực khó và phức tạp. Chúng ta chưa từng có kinh nghiệm thực tế về vấn đề này. Việc học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài phải hết sức linh hoạt, không thể máy móc vì môi trường kinh tế Việt Nam có những đặc thù riêng.
Cần phải ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung kịp thời để đảm bảo hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán trong thời gian tới.
Theo hướng đó, trong thời gian qua, UBCKNN đã thực hiện sửa đổi bổ sung qui chế lưu ký thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán. Ngày 14/6/2000. Chủ tịch UBCKNN đã chính thức đăng ký quyết định số 43/2000/QĐ - UBCK 3 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán và có công văn số 50/2000/CV - UBCK 3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0961.doc