Đặc điểm và tính chất của kế toán và kiểm toán trong nền kinh
tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tính chất của kế toán và kiểm
toán đã có sự thay đổi căn bản, không chỉ thuần túy là tổ chức ghi
nhận, xử lý và tổng hợp các thông tin kinh tế - tài chính, không ch ỉ
là công cụ kiểm kê, kiểm soát và đo lường hoạt động và hiệu quả
kinh tế - tài chínhm, mà đã trở thành hoạt động dịch vụ tài chính,
một lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh, hỗ trợ hoạt
động quản lý. Đây là hoạt động dịch vụ có chất lượng cao, có giá
trị pháp lý nhất định và không được phép có sản phẩm hỏng, có
dịch vụ thiếu độ tin cậy. Tính độc lập, khách quan, những bằng
chứng pháp lý, phẩm chất nghề nghiệp và yêu cầu kiểm soát chất
lượng dịch vụ là đặc điểm nổi bật của loại hình dịch vụ này.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1860 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp đưa kế toán và kiểm toán Việt Nam ngang tầm khu vực và quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải pháp đưa kế toán và kiểm toán Việt
Nam ngang tầm khu vực và quốc tế
Trong cơ chế kinh tế mới, kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập, kế toán và kiểm toán không chỉ là công cụ quản lý kinh tế -
tài chính và cung cấp thông tin hữu ích, tin cậy phục vụ các quyết
định quản lý và kinh doanh, mà đã trở thành một ngành một lĩnh
vực dịch vụ - dịch vụ hỗ trợ quản lý kinh doanh- quan trọng trong
phạm vi từng quốc gia, trong khu vực và thế giới. Hội nhập kinh
tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích dài hạn, nhưng đặt ra không ít
thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã gia nhập
AFTA và đang trong lộ trình cắt giảm thuế quan. Trong khuôn khổ
hợp tác với các nước ASEAN, Việt Nam đã tham gia đàm phán
và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ. Việt Nam cũng đã chính
thức trở thành thành viên thứ 21 của Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Trong khuôn khổ APEC, Việt
Nam đã đưa ra kế hoạch hành động quốc gia mang tính tự
nguyện, tiến tới tự dó hóa thương mại và đâu tư vào năm 2020.
Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ cũng đã được ký
kết và có hiệu lực từ năm 2001. Từ đầu năm 2007, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Hội nhập chỉ có hiệu quả và mang lại lợi ích khi chúng ta
có bước đi thích hợp trong toàn bộ quá trình từ đàm phán, cam
kết đến thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế, kể cả song
phương và đa phương.
Kế toán và kiểm toán với tư cách là một ngành, một lĩnh
vực thương mại dịch vụ được quan tâm và hội nhập khá toàn
diện. Thương mại dịch vụ nói chung, thương mại dịch vụ kế toán
và kiểm toán nói riêng đã trở thành ngành kinh tế quan trọng và
chiếm tỷ trọng đáng kể trong thương mại của từng quốc gia và
toàn cầu. Tự do hóa thương mại dịch vụ, tự do hóa dịch vụ kế
toán, dịch vụ kiểm toán đã trở thành mối quan tâm của nhiều
quốc gia, nhất là các nước phát triển. Mục tiêu của tự do hóa
thương mại dịch vụ, dịch vụ kế toán, kiểm toán là các quốc gia
loại bỏ những hạn chế, những rào cản đối với hoạt động của
pháp nhân và thế nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước mình và
dành cho nhau quy chế đối xử quốc gia (NT). Nghĩa là không có
sự phân biệt đối xử trong hoạt động thương mại hàng hóa và dịch
vụ. Theo đó, mỗi thành viên phải dành cho dịch vụ của thành viên
khác sự đối xử ưu đãi tương tự như ưu dãi dành cho dịch vụ của
mọi thành viên khác. Không có quốc gia nào được hưởng các lợi
thế thương mại đặc biệt hơn so với quốc gia khác. Các thành
viên được đối xử công bằng và đều được quyền hưởng lợi từ các
cuộc đàm phán về thuế quan, về hàng rào phi thuế quan và mở
cửa thị trường dịch vụ. Quy chế đối xử quốc gia (NT) còn quy
định một sản phẩm hoặc dịch vụ nhập khẩu vào thị trường một
quốc gia phải được đối xử ưu đãi như sản phẩm, dịch vụ tương
tự sản xuất trong nước.
Nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ
kế toán và kiểm toán được thể hiện qua 4 hình thức:
- Cung cấp dịch vụ quan biên giới.
- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài.
- Hiện diện thương mại.
- Hiện diện thể nhân.
Trong 4 hình thức cung cấp dịch vụ này, trong lĩnh vực kế
toán và kiểm toán, hình thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện
diện thương mại và hiện diện thể nhân được nhiều nước thành
viên quan tâm và cũng là hình thức hoạt động có hiệu quả, để
được chấp nhận.
Kế toán và kiểm toán trong kinh tế thị trường, ngoài vai trò
cung cấp thông tin tin cậy cho quản lý và cho các quyết định kinh
té – tài chính, đã và đang được thừa nhận là một dịch vụ không
thể thiếu của một nền kinh tế mở. Luật pháp của Việt Nam và của
nhiều nước đã thừa nhận và có những quy định mang tính pháp
lý về hành nghề kế toán, kiểm toán, về cung cấp dịch vụ kế toán
và kiểm toán. Trong những cam kết mà Việt Nam phải thức hiện,
Việt Nam có lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ kế toán, kiểm
toán. Sẽ có các công ty dịch vụ kế toán – kiểm toán của nước
ngoài được phép thành lập và hoạt động ở Việt Nam. Ngược lại,
các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán Việt Nam sẽ được phép
hoạt động ở nước ngoài với tư cách là nhà đầu tư Việt Nam đầu
tư ra nước ngoài. Các chuyên gia kế toán và các kiểm toán viên
có chứng chỉ hành nghề, đủ điều kiện được hành nghề sẽ được
phép hành nghề và cung cấp dịch vụ không chỉ ở trong nước mà
cả ở nước ngoài.
Rõ ràng là thị trường dịch vụ kế toán và kiểm toán thống
nhất đã và đang hình thành trong khu vực các nước ASEAN. Đó
là một thực tế, một yêu cầu mới, một cơ hội mới cho sự phát triển
và nhất thể hóa nghề kế toán, kiểm toán trong khu vực. Thị
trường dịch vụ kế toán- kiểm toán thống nhất đòi hỏi có sự chuẩn
bị ở tất cả các nước thành viên về khuôn khổ pháp lý, về sự hài
hòa các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, thu hẹp
khoảng cách của sự khác biệt, về sự phối hợp và thống nhất của
chương trình, nội dung đào tạo, huấn luyện; thi cử và đánh giá
chất lượng đào tạo, chất lượng dịch vụ; về sự thừa nhận lẫn
nhau các chứng chỉ hành nghề của mỗi quốc gia…Có những việc
phải làm từ phía Nhà nước ở tầm quốc gia. Nhưng có nhiều việc
phải làm từ bản thân các tổ chức, các nhân hành nghề, từ phía
các tổ chức nghề nghiệp.
Yêu cầu đặt ra đối với kế toán và kiểm toán.
Trong cơ chế kinh tế thị trường và môi trường mở cửa, hội
nhập, yêu cầu đặt ra với kế toán và kiểm toán đã có sự thay đổi
căn bản và nâng lên về chất:
- Cung cấp những thông tin kinh tế tài chính toàn diện, đầy đủ, kịp
thời, tin cậy cho mọi đối tượng trong và ngoài đơn vị.
- Thỏa mãn yêu cầu quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính.
- Phân tích và dự báo kinh tế tài chính phục vụ điều hành và các
quyết định kinh tế - tài chính.
Đặc điểm và tính chất của kế toán và kiểm toán trong nền kinh
tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tính chất của kế toán và kiểm
toán đã có sự thay đổi căn bản, không chỉ thuần túy là tổ chức ghi
nhận, xử lý và tổng hợp các thông tin kinh tế - tài chính, không chỉ
là công cụ kiểm kê, kiểm soát và đo lường hoạt động và hiệu quả
kinh tế - tài chínhm, mà đã trở thành hoạt động dịch vụ tài chính,
một lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh, hỗ trợ hoạt
động quản lý. Đây là hoạt động dịch vụ có chất lượng cao, có giá
trị pháp lý nhất định và không được phép có sản phẩm hỏng, có
dịch vụ thiếu độ tin cậy. Tính độc lập, khách quan, những bằng
chứng pháp lý, phẩm chất nghề nghiệp và yêu cầu kiểm soát chất
lượng dịch vụ là đặc điểm nổi bật của loại hình dịch vụ này.
Những đòi hỏi và yêu cầu cụ thể đối với người hành nghề kế
toán, kiểm toán.
Xuất phát từ đặc điểm và tính chất của kế toán và kiểm toán,
những người hành nghề kế toán và kiểm toán trong cơ chế kinh
tế mới, trước hết phải có tính chuyên nghiệp cao, tâm huyết và
trách nhiệm với nghề. Chỉ có như vậy mới có thể cung cấp những
dịch vụ có chất lượng theo yêu cầu của các đối tượng sử dụng
dịch vụ trong nền kinh tế. Về năng lực chuyên môn, phải có sự
hiểu biết, có năng lực, trình độ tổ chức, điều hành công việc, có
kỹ năng và sự nhạy cảm, sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ, đặc biệt
là năng lực xử lí các nghiệp vụ kinh tế tài chính trong một nền
kinh tế năng động và hội nhập. Về phẩm chất và đạo đức nghề
nghiệp: trung thực, khách quan và bản lĩnh nghề nghiệp, thuộc
lĩnh vực công tác. Bản lĩnh nghề nghiệp của người làm kế toán và
kiểm toán rất cần thiết không chỉ cho nghề nghiệp mà còn rất cần
thiết cho nền kinh tế, cho xã hội, cho sự lành mạnh trong hoạt
động kinh tế tài chính của đất nước, của mọi nhà đầu tư, mọi nhà
kinh tế. Bản lĩnh nghề nghiệp đòi hỏi người làm kế toán phải tôn
trọng sự thực và tính khách quan của hoạt động kinh tế, các ý
kiến và thái độ trước thông tin kinh tế tài chính phải thể hiện trách
nhiệm và sự vững vàng về chuyên môn, sự tin cậy và xác thực
của bằng chứng, sự mềm mại trong ứng xử và thuyết phục.
Đối với năng lực nghề kế toán, kiểm toán, phải đạt được
những yêu cầucụ thể sau:
- Có hiểu biết cần thiết về pháp luật, đặc biệt là hiểu biết và khả
năng tuân thủ, giải thích các quy định pháp lí về kinh tế- tài chính.
- Có kiến thưc tốt về kinh tế, tài chính, hiểu biết sâu về các quy
định kế toán và kiểm toán.
- Có khả năng tổ chức công việc thu thập, xử lý và tổng hợp
thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản lý.
- Tham mưu về quản lý doanh nghiệp, trong các quyết định kinh
doanh, trong chiến lược đầu tư và kinh doanh.
- Có khả năng thích ứng trong môi trường kinh tế đa chiều, luôn
biến động.
Những khó khăn và thách thức đối với kế toán và kiểm
toán Việt Nam- Thực trạng đội ngũ kế toán và kiểm toán viên ở
Việt Nam.
Mặt mạnh:
- Đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý về kế toán và kiểm toán cho
sự vận hành và hoạt động nghề nghiệp. Hệ thống kế toán đã
được đổi mới và tiếp cận dần với nguyên tắc, thông lệ và chuẩn
mực kế toán thế giới và khu vực.
- Đội ngũ hành nghề kế toán được đào tạo có hệ thống và có kinh
nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp, dám vượt qua thử thách,
khó khăn, dễ thích nghi với hoàn cảnh mới.
- Đa số thực sự yêu nghề, tận tụy và say sưa nghề nghiệp, sẵn
sàng tiếp cận và tiếp thu cái mới. Ham học hỏi, có chí tiến thủ.
- Có ý thức tuân thủ, kỷ cương kỷ luật.
Hạn chế:
- Quen hoạt động trong môi trường tĩnh, thụ động, cam chịu.
- Nhận thức về kế toán, kiểm toán trong kinh tế thị trường còn
hạn chế, không ít trường hợp mới dừng lại ở công việc kế toán,
kiểm toán thuần tuý, chưa thấy hết vai trò tác dụng và chưa làm
cho công tác kế toán thực sự là công cụ quản lý, điều hành hoạt
động kinh tế tài chính, công cụ hữu hiệu quản trị kinh doanh,
tham gia tích cực kiểm kê, kiểm soát đo lường hiệu quả kinh tế tài
chính, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh.
- Vai trò và tác động của Hội nghề nghiệp chưa đủ mạnh.
Nâng tầm kế toán và kiểm toán Việt Nam lên vị thế
tương xứng trong nghề nghiệp ở khu vực và thế giới.
Yêu cầu khách quan phải sớm nâng cao vị thế và chất
lượng hoạt động nghề nghiệp kế toán và kiểm toán của Việt Nam.
Kế toán và kiểm toán Việt Nam phải là công cụ quản lý kinh tế tài
chính tin cậy, góp phần tạo lập môi trường đầu tư lành mạnh và
hội nhập thành công đem lại hiệu quả cao nhất cho đất nước
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Có nhiều việc phải làm, kể cả
trước mắt là lâu dài, kể cả những việc làm mang tính chiến lược
và những giải pháp tình thế, nhưng cần tập trung làm tốt một số
công việc sau:
Một là, thống nhất cao về nhận thức đối với hoạt động kế
toán và kiểm toán, coi trọng đúng mức kế toán và kiểm toán
không chỉ với tư cách là công cụ quản lý, mà tổ chức hệ thống
thông tin mà cả với tư cách là một ngành dịch vụ - dịch vụ tài
chính hỗ trợ kinh doanh, hỗ trợ vận hành nền tài chính quốc gia.
Cần nhận thức đúng và đánh giá tác động thiết thực của độ tin
cậy, tính hữu dụng của các thông tin kinh tế tài chính do kế toán
cung cấp, được kiểm toán xác nhận phục vụ yêu cầu quyết định
đầu tư, quyết định quản lý và bảo vệ an toàn tài sản, tiền của Nhà
nước, của nhân dân.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện quy định pháp lí về tài chính, về
kế toán và kiểm toán, trước hết là quy định pháp lí về tài chính
nhà nước, về kiểm toán độc lập, về kiểm soát và kiểm toán nội
bộ. Rà soát và bổ sung những quy định pháp lý về kế toán, về
kiểm toán nhà nước, về hành nghề kế toán, về hành nghề kiểm
toán đảm bảo một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho kế toán và
kiểm toán trong kinh tế thị trường phù hợp với Việt Nam và tiếp
thu có chọn lóc các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực quốc tế
về kế toán và kiểm toán. Nghiên cứu và điều chỉnh các quy định
pháp lý về tiêu chuẩn, chức danh, chức năng và quyền hạn của
chuyên gia kế toán, kế toán viên công chứng, kế toán viên có
chứng chỉ hành nghề, kiểm toán viên và kiểm toán viên có chứng
chỉ hành nghề, tránh sự nhầm lẫn và ngộ nhận như hiện nay.
Sớm có sự thống nhất trong các Hội viên AFA và phù hợp tiêu
chuẩn, tiêu chí của Việt Nam.
Ba là, đổi mới chương trình, nội dung, phương thức và
nâng cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán ở mọi trình độ,
mọi cấp độ; bồi dưỡng kế toán trưởng, thi tuyển chuyên gia kế
toán và kiểm toán viên. Tích cực tham gia và thúc đẩy các thành
viên của AFA sớm tạo lập quan hệ hợp tác trong đào tạo, huấn
luyện, cấp chứng chỉ hành nghề và quy chế công nhận chứng chỉ
hành nghề giữa các tổ chức thành viên. Sớm hình thành chương
trình và nội dung đào tạo, huấn luyện kế toán và kiểm toán dùng
chung cho các nước ASEAN.
Bốn là, tăng cường quản lý, kiểm soát đạo đức hành nghề
và chất lượng hành nghề kế toán, kiểm toán. Đây là công việc
mới nhưng rất cần thiết để nâng cao vị thế và chất lượng nghề
nghiệp.
Năm là, tăng cường vai trò và chất lượng hoạt động của tổ
chức nghề nghiệp. Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VÂ),
thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam,
thành viên của liên đoàn Kế toán các nước ASEAN (AFA). Hội đã
và đang tham gia tích vực vào các hoạt động, góp phần xứng
đáng và quan tọng vào sự phát triển nghề nghiệp trong khu vực
và nâng cao vị thế AFA trong khu vực cũng như trong nghề
nghiệp kế toán thế giới. Hội đã liên tiếp đưa ra các sáng kiến
nghề nghiệp, trong đó có sáng kiến về hợp tác đào tạo và huấn
luyện nghề nghiệp, thống nhất chương trình, nội dung đào tạo,
huấn luyện, cấp chứng chỉ hành nghề và thực nhận chứng chỉ
hành nghề kế toán và kiểm toán. Hội và các tổ chức thành viên
đang tích cực triển khai công việc quan rlý hành nghề kế toán và
kiểm toán do Bộ Tài chính chuyển giao. Trong thời gian tới, Hội
cần đổi mới mạnh hơn, nhiều hơn cả về tổ chức, phương thức
hoạt động và nội dung hoạt động để làm trọng chức năng là nơi
tập hợp và kiểm soát nghề nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_dua_ke_toan_va_kiem_toan_viet_nam_ngang_tam_khu_vuc_va_quoc_te_7642.pdf