Giải pháp phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ LUẬN 2

I-/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ BẢN CHẤT CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG

 NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI 2

1-/ Quá trình hình thành thị trường chứng khoán 2

2-/ Bản chất TTCK 4

II-/ VAI TRÒ CỦA TTCK TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 4

1-/ Tạo lập vốn cho nền kinh tế 4

2-/ TTCK tạo điều kiện cho các DN sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn 5

3-/ Cộng cụ đánh giá DN và dự đoán tương lai 6

III-/ NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA TTCK 6

1-/ Những mặt tích cực 7

2-/ Những mặt tiêu cực của TTCK 9

IV-/ PHÂN LOẠI TTTC 10

1-/ Thị trường tài chính bao gồm thị trường cấp 1 và thj trường cấp 2 10

2-/ TTTC gồm TT nợ và TT vốn cổ phần 11

3-/ TTTC gồm TT vốn và TT tiền tệ 12

V-/ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK 13

1-/ Nguyên tắc trung gian 13

2-/ Nguyên tắc đấu giá 13

3-/ Nguyên tắc công khai 14

VI-/ HÀNG HOÁ TRÊN TTCK 14

1-/ Cổ phiếu 14

2-/ Trái phiếu 16

VII-/ TÍNH TẤT YẾU PHẢI HÌNH THÀNH MỘT TTCK TẠI VIỆT NAM 18

CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG VỀ VIỆC CHUẨN BỊ HÀNG HOÁ CHO THỊ TRƯỜNG

 CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 20

I-/ THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM. 20

1-/ Thực trạng CPH: 21

2-/ Những khó khăn và nguyên nhân trong quá trình CPH. 23

II-/ TRÁI PHIẾU 27

1-/ Trái phiếu công ty: 27

2-/ Trái phiếu Chính phủ-NHTM. 28

 

 

 

CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HÀNG HOÁ CHO TTCK Ở VIỆT NAM. 34

I-/ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TIẾN TRÌNH CPH CÁC DNNN . 35

1-/ Nhóm giải pháp làm tăng tính hấp dẫn của CPH. 35

2-/ Nhóm giải pháp nhằm tạo môi trường thúc đẩy CPH DNNN. 39

II-/ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HÀNG HOÁ TRÁI PHIẾU CHO TTCK. 43

1-/ Trái phiếu NHTM quốc doanh (NHTMQD): 43

2-/ Trái phiếu Chính phủ: 44

3-/ Trái phiếu công ty: 47

4-/ Trái phiếu đô thị: 48

III-/ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN. 48

1-/ Đổi mới quy chế phát hành. 48

2-/ Mở rộng đối tượng đấu thầu: 49

3-/ Nhanh chóng đưa NĐ 48/CP và thông tư hướng dẫn vào thực hiện: 49

KẾT LUẬN 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO 52

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t được rất khiêm tốn chủ yuế tập trung vào TPCP , TP công ty chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Đối với DNNN, trái phiếu của hai doanh nghiệp ngành Xi măng chỉ dừng lại ở 330 tỷ và theo một báo cáo mới nhất tổng giá trị các khoản vay trong nước chỉ đạt xấp xỉ 5%GDP. Qua thực trạng trên, chúng ta có thể nhận định rằng nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong nền kinh tế đang còn tồn tại nhiều nghịch lý. Trong khi các tổ chức kinh doanh đang cần vốn thì trong các ngân hàng và một số doanh nghiệp khác vốn bị ứ đọng không giải ngân được. Bên cạnh đó, trong dân cư vẫn phổ biến tâm lý giữ tiền mặt, chưa mạnh dạn đầu tư. Các NHTM có xu hướng thắt chặt tín dụng nên chưa hạ được lãi suất. Xã hội cần các kênh giải ngân mà chúng ta chưa có. Như vậy, TTCK là một hướng khả dĩ để tích tụ, tập trung vốn, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH. Có nhiều nhà kinh tế cho rằng: "TTCK có thể tạo ra những CTCP mà cổ đông là những bà nội trợ tiết kiệm tiền đi chợ". chương II thực trạng về việc chuẩn bị hàng hoá cho thị trường chứng khoán ở Việt nam Từ những phân tích và tính tất yếu phải hình thành TTCK ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy TTCK ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết. Để chuẩn bị cho ra đời một TTCK hoàn chỉnh, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực tạo mọi điều kiện ban đầu. Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về điều kiện tiền đề để thành lập TTCK ở Việt Nam nhưng nhìn chung thống nhất ở những điểm sau: ổn định kinh tế-chính trị-xã hội; kiểm soát được lạm phát; chuẩn bị đầy đủ hàng hoá khả mại cho TTCK, đội ngũ nhân viên, khung pháp lý, cơ sở hạ tầng thông tin... Có thể nói hàng hóa chứng khoán là yếu tố quan trọng hàng đầu, nó quyết định cơ chế hoạt động và các chủ thể tham gia TTCK. Để hiểu thêm về hàng hoá trên TTCk, chúng ta đi sâu xem xét thực trạng hàng hoá chứng khoán ở VIệt Nam trong thời gian gần đây. I-/ thực trạng tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam. TTCK có rất nhiều loại hàng hoá như: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, thương phiếu, hối phiếu, công trái... Trong đó cổ phiếu và trái phiếu là 2 hàng hoá chính. Trong phần này, bài viết sẽ tiếp cận về thực trạng cổ phiếu. Có nhiều giải pháp tạo ra cổ phiếu trên thị trường, tạo điều kiện thành lập các công ty cổ phần tư nhân. Nhưng hiện nay giải pháp quan trọng nhất được Đảng và Nhà nước ta coi trọng là cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Chủ trương về CPH một bộ phận các DNNN được đặt ra từ cuối những năm 80 và chính thức đi vào thực hiện năm 1992 (Sau Đại hội Đảng VII). Trong 10 năm thực hiện CPH, DNNN đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vân tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt là tốc độ CPH. 1-/ Thực trạng CPH: Tiến trình CPH được chia làm 3 giai đoạn: 1.1- Giai đoạn thí điểm. Từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996: Qua 4 năm thực hiện thí điểm, cả nước chỉ CPH được 5 DNNN (3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương) theo QĐ 202/CT của chủ tịch HĐBT, và chỉ thị 84/TTG của thủ tướng CP. Tuy nhiên, diện cổ phần còn rất hẹp, quy mô doanh nghiệp CPH còn nhỏ. Trong số 5 doanh nghiệp trên, lớn nhất là công ty Cơ điện lạnh TP HCM chuyển vào ngày 1/10/1993 với 16 tỷ đồng. 1.2- Giai đoạn hai: Đây là giai đoạn mở rộng công tác CPH: từ 6/5/1996 đến 6/1998, thực hiện theo NĐ 28/CP của Chính phủ quy định một cách hệ thống từ mục tiêu, yêu cầu, đối tượng, của CPH đến phương thức tiến hành, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp thực hiện CPH. Trong 2 năm thực hiện, tốc độ CPH tăng lên rõ rệt. Cả nước có 27 doanh nghiệp hoàn thành CPH, gấp hơn 5 lần so với giai đoạn trước. Đến tháng 6/1998 cả nước có 32 DNNN hoàn thành CPH và đi vào hoạt động theo luật công ty. Tiến trình CPH không chỉ được mở rộng theo số lượng doanh nghiệp mà còn mở rộng cả về phạm vi địa lí: 3 bộ, 9 tỉnh, thành phố. Trong thời kì này quy mô doanh nghiệp CPH đã lớn hơn: có doanh nghiệp có số vốn lên tới trên 120 tỷ đồng; có 5 doanh nghiệp có vốn lớn hơn 10 tỷ đồng. Trong số 27 DNNN được CPH có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần (Công ty Đầu tư sản xuất và thương mại Hà nội). Số còn lại Nhà nước nắm ít nhất 10% và cao nhất là 50% vốn cổ phần. Ngoài Nhà nước nắm phần lớn số cổ phần còn một bộ phận khác cũng nắm giữ không ít là: người lao động, tư bản ( 42%-42,86%). Số cổ phần còn lại do những cổ đông ngoài xí nghiệp nắm giữ, tư bản chiếm từ 19%-20%. Điều này chứng tỏ hiệu quả huy động vốn trong dân của công tác CPH là đáng kể. Để hỗ trợ và giám sát công tác CPH, trong thời gian này các cấp, các ngành đã tăng cường bổ sung đội ngũ cán bộ vào ban chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập các ban chỉ đạo CPH ở địa phương. trong quá trình thực hiện CPH 31/61 địa phương đã thành lập ban chỉ đạo CPH, các địa phương còn lại do ban đổi mới doanh nghiệp kiểm nghiệm hoặc giao cho một số chuyên viên giúp việc. Về phía các bộ, ngành, các tổng công ty đã có 16 đơn vị thành lập ban chỉ đạo CPH DNNN. Mặc dù vậy, việc thành lập các ban chỉ đạo diễn ra còn rất chậm và chưa có kế hoạch triển khai cụ thể. Tiến hành song song với việc thành lập ban chỉ đạo, một số Bộ, ngành và địa phương đã chú trọng đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích cho các cán bộ và người lao động hiểu về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước. Thực tế tiến trình CPH đã cho thấy công tác tuyên truyền rất quan trọng. Song bên cạnh đó vẫn còn một số Bộ, ngành chưa quan tâm đến công tác tuyên truyền chủ trương này cho các cán bộ và người lao động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tốc độ của tiến trình CPH. 1.3- Giai đoạn 3: Trong giai đoạn này, rút kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện trong các giai đoạn trước, Chính phủ ban hành NĐ 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc CPH DNNN thay thế cho NĐ 28 CP trước đây. Trong NĐ này, những vấn đề về pháp lý, thủ tục triển khai CPH, đối tượng áp dụng, phân công trách nhiệm về cơ bản đã được tháo gỡ. Bên cạnh đó NĐ cũng mở rộng thêm đối tượng và hình thức CPH, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá thị trường, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và có những chính sách ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp CPH... Ngoài việc ban hành các văn bản quy định rõ hơn về công tác CPH, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập ban chỉ đạo mới quản lý DNNN, giúp cho các cấp, các ngành và các doanh nghiệp CPH trong công tác đổi mới quản lý và thực hiện CPH. Thêm vào đó, nhứng văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ đã được ban hành trong các hội nghị tổng kết công tác CPH để từ đó đánh giá thực trạng, rút kinh nghiệm và đưa ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH. Nhờ có những giải pháp trên, trong thời gian từ tháng 7/1998 đến tháng 5/1999, cả nước đã CPH được 136 DNNN. Riêng tháng 6/1998, CPH được 86 doanh nghiệp, gấp 3 lần 2 giai đoạn trước đây. Trong 5 tháng đầu năm 1999, theo số liệu của ban đổi mói Trung ương, toàn quốc đã CPH được 50 DNNN, đưa tổng số DNNN đã thực hiện CPH lên tới 170 . Trong thời gian tới thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt 434 DNNN thực hiện CPH trong năm 1999 và có thể sẽ tăng lên 504 doanh nghiệp do các Bộ, ngành bổ sung thêm. Trong số đó, theo các chuyên gia nhận xét tại Hà nội, TP HCM, Hải Phòng, Tuyên Quang, Nam Định sẽ là những đơn vị thực hiện CPH đầu tiện và chắc chắn. Ngược lại, đối với khối các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 thì việc thực hiện có khó khăn hơn do quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà và không chủ động. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 là đáng kể. Do vậy, nếu các đơn vị thuộc tổng công ty 91 thực hiện nhanh tiến độ CPH thì sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy tiến trình CPH trong cả nước. 2-/ Những khó khăn và nguyên nhân trong quá trình CPH. Phải khẳng định rằng, trong những năm thực hiện, tiến trình CPH các DNNN đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Một trong số những thành tựu đó là đẩy mạnh quá trình sản xuất kinh doanh trong DNNN và bước đầu tạo ra 1 loại hàng hoá cho TTCK. Để đạt được những kết quả đó không thể không kể đến những thuận lợi của tiến trình CPH. Thứ nhất, CPH các DNNN được coi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là vấn đề thu hút sự quan tâm lớn nhất của Chính phủ, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân trong những năm qua. Đây là thuận lợi lớn nhất và cũng là điều kiện tiên quyết để có thể CPH thành công. Thứ hai, trong việc thực hiện CPH Việt Nam là nước đi sau so với khu vực và Thế giới,vì vậy chúng ta có điều kiện để tiếp thu những kinh nghiệm và bài học rút ra từ những thành công cũng như thất bại của các nước đã CPH. Thứ ba, thực tiễn và hoạt động của các DNNN từ những năm 1992 đến nay đều làm tăng kết quả kinh doanh, tăng lao động và tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN). Bên cạnh những thuận lợi to lớn đã nêu trên, tiến trình CPH cồn tồn tại những mặt khó khăn nhất định trong công tác thực hiện. Biểu hiện rõ nhất là trong thời gian qua tiến trình CPH đã diễn ra quá chậm so với tiến trình đã đề ra. Trên thực tế, mặc dù đã qua 9 năm triển khai chủ trương CPH (1990-1999), nhưng cả nước mới CPH được 168 DNNN. Những văn bản Pháp luật về CPH đã được ban hành từ năm 1992 nhưng đến hết năm 1996 mới tiến hành được 11 DNNN, mục tiêu 2 năm 97-98 là 150 DNNN, nhưng đến hết năm 1997 mới CPH được thêm 4 doanh nghiệp, 6 tháng đầu năm 1998 là 14 doanh nghiệp. Như vậy thì con số 168/5756 DNNN so với mục tiêu chúng ta đặt ra: 20% DN CPH trước năm 2000 quả là còn rất ít ỏi. Vậy do đâu mà tiến trình CPH ở Việt Nam lại chậm trễ đến vậy? Có rất nhiều nguyên do nhưng tựu trung lại có 6 khó khăn cơ bản sau: 2.1- Về mặt nhận thức, tư tưởng còn nhiều hạn chế, các cấp các ngành quản lý, các doanh nghiệp và bản thân người lao động trong doanh còn có tâm lý e ngại CPH. Về phía các cấp lãnh đạo tâm lý e ngại này còn thể hiện ở chỗ các địa phương, cơ sở chưa sốt sắng làm hết công việc được giao, chưa chú ý đúng mức đến việc thành lập và đôn đốc các ban CPH. Nguyên do của những e ngại này xuất phát từ lợi ích cục bộ, cản trở tiến trình CPH. Họ sợ rằng sau khi CPH họ mất quyền quản lý và lợi ích. Đây là kiểu tư duy “chậm tiến” và thiển cận. Nếu cứ tồn tại những tư duy kiểu này sẽ không đạt được mục tiêu như đã định. Về phía doanh nghiệp, ban giám đốc doanh nghiệp đang quen với chế độ cũ nên ngại bước vào môi trường cạnh tranh nhiều rủi ro, e sợ sự giám sát chặt chẽ, đồng thời CPH đòi hỏi giám đốc phải có trình độ và trách nhiệm. Về phía người lao động, họ chưa nắm được lợi ích và mục tiêu của CPH nên tồn tại phổ biến tâm lý e sợ. Mặt khác, những biện pháp khuyến khích CPH thông qua việc phát hành cổ phiếu ưu đãi chưa xuất phát từ việc giải quyết lợi ích cho người lao động . Người lao động luôn luôn lo sợ bước vào cơ chế cạnh tranh, xoá bỏ sự bảo trợ của Nhà nước, nghĩa là rủi ro sẽ cao hơn đối với cả doanh nghiệp lẫn người lao động. 2.2- Thủ tục và bước đi của tiến trình CPH còn rườm rà và qua nhiều khâu, nhiêu tầng nấc, nhất là việc xử lý những vấn đề tài chính doanh nghiệp. Đây là một trong những vướng mắc mà hầu hết các doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành CPH. Quy trình CPH theo công văn 3395/VPCP-ĐMDN ngày 29/8/1998 tuy chỉ đề ra 4 bước song trong mỗi bước lại có nhiều công đoạn khác. Chính do những chậm trễ trong công đoạn khiến thời gian CPH trung bình là 27 tháng, chậm nhất lên tới 79 tháng. Thêm vào đó, thủ tục CPH vẫn còn nhiều vướng mắc là khâu xét giá trị doanh nghiệp. Mặc dù NĐ mới 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 đã đơn giản hoá nhiều nhưng để xác định giá trị thực tế cho người mua và người bán cổ phần chấp nhận không phải vấn đề đơn giản. 2.3- Công tác chỉ đạo của Nhà nước còn chậm chạp và lúng túng. Do chủ trương CPH là một vấn đề mới nên Chính phủ chưa có đủ những văn bản Pháp luật đủ tầm cỡ mà chỉ thực hiện theo những văn bản dưới luật. Vì vậy, những ách tắc, ngừng trệ trong tiến trình CPH là không thể tránh khỏi. Đơn cử trường hợp một công ty cổ phần và hoạt động thì khuôn khổ pháp luật của nó chỉ là NĐ 44 CP (trước đây là 28CP) còn luật công ty, luật DNNN lại chưa được hoàn chỉnh. Thiếu những văn bản đủ mạnh về pháp lý nhưng công tác chỉ đạo CPH vẫn thiếu thống nhất và ăn khớp. Thực trạng này xuất phát từ nguyên do công tác này mới được tái thiết lập, một phần do bộ máy tài chính các ban chưa được tổ chức độc lập, chuyên trách mà đa phần vẫn là kiêm nghiệm. Do vậy, hiệu quả thấp là đương nhiên. 2.4- Mức độ khuyến khích chưa đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp CPH. Có thể nói, các DNNN theo luật DNNN và các văn bản pháp quy khác có những ưu đãi nhất định mà các loại hình doanh nghiệp khác (Công ty tư nhân, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân...) không có, chẳng hạn về vốn, kĩ thuật... Chính vì vậy, khi chuyển sang loại hình công ty cổ phần, các DNNN sẽ mất đi những quyền lợi trước mắt nên tâm lý phổ biến là họ không muốn CPH. Sự ưu đãi rõ nhất đối với các DNNN được thể hiện trong mối quan hệ giữa DNNN với Ngân hàng Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH. 2.5- Mức độ khuyến khích đối với người lao động trong doanh nghiệp chưa thực sự hấp dẫn. Chế độ ưu đãi đối với người lao động khi thực hiện CPH vẫn được coi là vấn đề “nóng” nhất từ trước đến nay. Vậy mà chúng ta vẫn chưa thực sự quan tâm. Chính điều này đã dẫn đến sự không nhiệt tình ủng hộ CPH từ phía người lao động. Một lo ngại lớn nhất của người lao động là sau khi CPH sẽ có một lượng lao động bị dư ra. Mặc dù NĐ 44 đã chỉ ra rằng, sau 12 tháng kể từ ngày CPH doanh nghiệp có thể dư ra một lượng lao động nhất định nhưng trên thực tế con số này có thể lên tới 1/3 thậm chí 1//2 tổng số lượng lao động trong doanh nghiệp. Chính vì thế mà việc người lao động không thiết tha mấy với CPH cũng là điều dễ hiểu. 2.6- Việt Nam chưa có TTCK. Một trong những vấn đề không thể bỏ qua khi nói đến những khó khăn, vướng mắc của quá trình CPH là Việt Nam chưa có TTCK. Như vậy, một mặt các doanh nghiệp sẽ thiếu một công cụ huy động vốn hữu hiệu, mặt khác, khi mua cổ phiếu người lao động không có khả năng bán lại cổ phiếu đó khi cần tiền, nghĩa là cổ phiếu có tính lỏng kém và rủi ro cao hơn. Vì thế, bản thân người lao động trong doanh nghiệp cũng như nhân dân (nếu doanh nghiệp muốn huy động vốn nhàn rỗi trong toàn xã hội) sẽ không chú ý đến CPH. Trên đây là những vấn đề cơ bản về thực trạng cũng như những khó khăn trong tiến trình thực hiện CPH. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng, cổ phiếu của công ty trên TTCK không chỉ được tạo ra thông qua CPH các DNNN mà nó còn có thể được tạo ra từ những công ty cổ phần tư nhân. Tuy nhiên, thành phần này trong nền kinh tế VIệt Nam chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ nên giải pháp chủ yếu để phát triển hàng hoá trên TTCK Việt Nam trong tương lai là CPH các DNNN. II-/ trái phiếu: Trái phiếu là một trong 2 hàng hoá chính được giao dịch trên TTCK, là một hàng hoá quan trọng không kém gì cổ phiếu. Trên TTCK có rất nhiều loại cổ phiếu ( như đã trình bày ở phần cơ sở lý luận) Tuy nhiên ở Việt Nam trái phiếu gồm 2 loại chủ yếu: Trái phiếu công ty và tría phiếu Chính phủ (tín phiếu và trái phiếu trung, dài hạn) Trước tiên, chúng ta xem xét về thực trạng trái phiếu công ty. 1-/ Trái phiếu công ty: Từ phần cơ sở lý luận chúng ta có thể thấy trái phiếu công ty cũng là một loại dư nợ chủ yếu của doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp gọi vốn từ công chúng mà không thông qua trung gian là các NHTM. Mặc dù có lợi thế như vậy nhưng trên thị trường nợ Việt Nam phần lớn trái phiếu có tính chất ngắn hạn, việc phát hành trái phiếu công ty vẫn ở mức dè chừng, chưa đều đặn, với phương thức tự phát hành là chủ yếu. Lượng trái phiếu lưu hành trên thị trường còn rất ít ỏi. Loại trái phiếu DNNN chỉ mới do 2 nhà máy xi măng Hoàng Thạch và Anh Sơn phát hành với hơn 63 tỷ đồng. Các loại trái phiếu mà những NHTM đã phát hành chủ yếu có kỳ hạn ngắn ( từ 1-3 năm) với tổng số vốn khoảng 10 tỷ đồng tính đến năm 1997. Đó chỉ là những con số tổng hợp, nếu xét theo từng năm, các Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) chỉ phát hành kỳ phiếu vào những lúc thời vụ, nên tính chất thường xuyên của việc phát hành cũng rất hạn chế. Tương tự như trái phiếu, các hối phiếu và thương phiếu chưa được quan tâm sử dụng giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với Ngân hàng. Bên cạnh những tồn tại về thời hạn và giá trị, các trái phiếu phần lớn mới chỉ được phát hành ở phạm vi trong nước. Trên thị trường mới chỉ có trái phiếu của công ty Cơ điện lạnh Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm phát hành ra nước ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD vào tháng 6/1996, lãi suất 4,5%, kỳ hạn 2 năm. Tuy nhiên, đây là loại trái phiếu phát hành riêng ra nước ngoài mà không phải là loại phát hành ra công chúng. Do đó, trên thị trường loại trái phiếu được định giá bằng ngoại tệ còn rất ít. Như vậy, quang cảnh của việc mua bán trao đổi trái phiếu công ty trên thị trường vốn Việt Nam còn khá ảm đảm. Nếu tiếp tục duy trì tình trạng này mà không có những giải pháp khắc phục, trên TTCK Việt Nam sẽ thiếu một loại hàng hoá quan trọng và các doanh nghiệp sẽ mất đi một công cụ huy động vốn hiệu quả. 2-/ Trái phiếu Chính phủ-NHTM. Trong khi tiến trình CPH đang diễn ra rất chậm chạp và thị trường các trái phiếu công ty rất ảm thì thị trường mua bán trái phiếu Chính phủ lại rất sôi động. Trong thời gian tới, nếu thành lập TTCK, hàng hoá chủ yếu được giao dịch ở Việt Nam sẽ là các loại trái phiếu Chính phủ. Từ đầu năm 1999 đến nay, công cụ huy động vốn trung và dài hạn rất phổ biến tên thị trường vốn dưới dạng công trái với quy mô lớn hơn. Trái phiếu nào còn thời hạn đều có thể được mua bán trên thị trường nếu các trái chủ có nhu cầu. Trước tiên, phỉa nói đến trái phiếu do Kho bạc Nhà nước (KBNN) trực tiếp phát hành với kỳ hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm, trái phiếu sẽ được thanh toán một lần khi đáo hạn. Từ đầu năm 1999 đến 12/5/1999, KBNN đã phát hành 3.096 tỷ đồng trái phiếu. Tiếp đó, từ 19/5 đến 15/7/1999, KBNN đã phát hành công trái quốc gia với thời hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm và tối đa đến 50%/5 năm. Kết quả tổng số trái phiếu phát hành đợt này là 4.491,6 tỷ đồng (dự kiến là 4000 tỷ đồng) trong đó Ngân hàng và các tổ chức Bảo hiểm đã mua 2.550 tỷ đồng. Sau đợt phát hành này, trên thị trường đã xuất hiện nhu cầu mua bán công trái. Nắm bắt được nhu cầu đó, NHTM cổ phần và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ trong một thời gian ngắn đã chứng khoán hơn 10 tỷ đồng công trái. Tính từ đầu năm đến 3/9/1999 NHNN đã tổ chức được 30 phiên đấu thầu trái phiếu với 150 lượt thành viên, nâng tổng lượng đăng ký dự thầu lên gần 5000 tỷ đồng. Kết quả, khối lượng trúng thầu được phát hành là 1.950 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu là 9,1% cho đến 9,85%/năm. Dự kiến đến hết năm 1999 sẽ tổ chức thêm 15-16 đợt đấu thầu trái phiếu, nâng khối lượng trái phiếu dự kiến từ 3.500 đến 4.000 tỷ đồng. Để đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế, ngay từ đầu 1999, các NHTM đã chủ động phát hành trái phiếu có thời hạn lớn hơn 1 năm với lãi suất khá hấp dẫn. Ngân hàng Đầu tư & phát triển (NHĐT&PT) chỉ trong hơn 1 tháng từ 17/4/1999 đã phát hành được 1.900 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn từ 2 đến 5 năm. Trong đó kì hạn 2 năm chiếm 80% và lãi suất trả trước 12,5%/năm. Trong khi đó, cùng kỳ năm 1998, Ngân hàng chỉ phát hành được hơn 1000 tỷ đồng kỳ hạn 1-5 năm với lãi suất 13,236%/năm đến 16,2%/năm. Đặc biệt, công ty Tài chính Quốc tế ILC qua Ngân hàng Công thương VIệt Nam chỉ trong 2 giờ làm việc ngày 10/8/1999 đã phát hành được 10 tỷ đồng trái phiếu, thời hạn 2 năm, 6 tháng trả lãi một lần với lãi suất 12%. Xét tổng cộng các loại: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Ngân hàng và công trái Quốc gia có trên 13.500 tỷ đồng đã được phát hành trong năm 1999. Trong số đó, gần 4000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12-13%/năm do KBNN phát hành năm 1998, đến đầu năm 2000 mới hết hạn thanh toán đối với 1000 tỷ đồng của trái phiếu NHĐT&PT và 1000 tỷ đồng các loại trái phiếu khác. Như vậy, đến cuối năm 1999 và đầu năm 2000, tổng số có khoảng trên 19.000 tỷ đồng các loại trái phiếu, công trái còn thời hạn thanh toán. Lượng trái phiếu này sẽ là điều kiện cần thiết để đưa vào giao dich khi trung tâm giao dich chứng khoán (TTGDCK) đi vào hoạt động. Mặc dù việc phát hành trái phiếu Chính phủ trong năm qua vượt mức dự định nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập: *Một là, phương thức phát hành chưa phù hợp dẫn đến hạn chế khả năng huy động vốn. Hiện nay, có 2 phương thức phát hành chính. Đối với tín phiếu kho bạc phát hành bằng cách đấu thầu thông qua NHNN. Trong khi đó trái phiếu kho bạc chủ yếu được bán lẻ qua hệ thống phân phối kho bạc. Chính điều này đã tạo ra sự khác nhau trong việc quy định đối tượng mua trái phiếu. Trước kia QĐ 839/TC-QĐ/KBNN ngày 29/8/1996 quy định chỉ các cá nhân được mua trái phiếu. Đến nay QĐ 122/TC-QĐ/KBNN ngày 1/2/1997, công ty mua đã được mở rộng đến các tổ chức, cơ quan đoàn thể và các doanh nghiệp trừ những doanh nghiệp kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hệ quả tất yếu của quyết định này là các công ty làm ăn kém hiệu quả sẽ dồn vốn mua trái phiếu Chính phủ. Vì thế, Chính phủ sẽ không huy động được đủ nguồn vốn cần thiết. * Hai là, lãi suất trái phiếu Chính phủ (TPCP) chưa thực sự đóng vai trò là lãi suất chuẩn đối với các lãi suất khác. Tức là, lãi suất trái phiếu KBNN bán trực tiếp có xu hướng thoát li sự điều hành lãi suất chung của NHNN. Trên thực tế, điều đó được thể hiện bằng việc xây dựng lãi suất của trái phiếu Chính phủ tương đương với lãi suất cho vay của các NHTM. Do vậy, dẫn đến tình trạng tăng cầu giả tạo về trái phiếu Chính phủ bởi tâm lý muốn hưởng lãi suất cao, rủi ro thấp. Như vậy, đứng trên bình diện quản lý vĩ mô, trái phiếu Chính phủ không thực hiện được chức năng điều tiết quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. * Ba là, việc thanh toán lãi suất cho các trái chủ không linh hoạt, mềm dẻo và những thủ tục phiền hà khi sang tên làm trái phiếu Chính phủ mất đi tính thanh khoản và không hấp dẫn với nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều người có nhu cầu chuyển nhượng trái phiếu trước kì hạn phải chấp nhận không được hưởng lãi trong thời gian nắm giữ, kèm theo đó là những thủ tục phiền hà... Chính những bất cập này tất yếu dẫn đến hình thành “chợ đen” cho các loại trái phiếu chưa đáo hạn. Việc này sẽ có tác động không nhỏ cho tiến trình thành lập TTCK ở Việt Nam. Trên đây là một số bất cập nổi bật của thị trường trái phiếu Chính phủ, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu tình hình giá cả trái phiếu trong thời gian qua. Trên thực tế, lượng trái phiếu Chính phủ phát hành ra thị trường là điều kiện cần thiết để giao dich khi TTCK đi vào hoạt động. Trong trường hợp TTCK đã hình thành thì vấn đề tiếp theo là giá cả của hàng hoá trên TTCK, tỷ lệ chiết khấu của các loại trái phiếu, công trái. Điều này tuỳ thuộc vào lãi suất ghi trên mỗi loại trái phiếu, công trái và mối quan hệ với sự biến động của những công cụ huy động vốn khác trong cùng thời kỳ. Bắt đầu từ 1/6/1999, NHNN Việt Nam đã quy định mức lãi suất trần cho vay tối đa bằng VNĐ là 1,15%/tháng áp dụng cho mọi kì hạn, kèm theo là việc quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn 0,85%/tháng thay cho nhiều mức trần lãi suất như trước đây. Việc điều chỉnh này tác động trực tiếp đến lãi suất huy động vốn của các loại trái phiếu kể cả trái phiếu KBNN và trái phiếu NHTM. Tính từ ngày 1/7/1997 đến trung tuần tháng 9/1999 NHNN Việt Nam đã điều chỉnh 6 lần lãi suất cho vay. Riêng năm 1999 có 4 lần: 1/2/1999, 1/6/1999, 1/8/1999, 4/9/1999. Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay và lãi suất cho vay tái cấp vốn ở Việt Nam trong hai năm gần đây Đơn vị tính: % Thời điểm thực hiện Mức trần lãi suất cho vay các loại 1/7/97 21/1/98 1/2/99 1/6/99 1/8/99 4/9/99 1. Ngắn hạn 1,0 1,2 1,1 1,15 1,05 0,95 2. Trung hạn 1,1 1,25 1,15 1,15 1,05 0,95 3. Vùng nông thôn 1,2 1,25 1,25 1,15 1,15 1,15 4. Quỹ TDND và HTXTD 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 5. Lãi suất tái cấp vốn 1,1 1,1 1,0 0,85 0,85 0,7 Các loại trái phiếu, công trái có thể giao dịch tại trung tâm Giao dịch Chứng khoán đến cuối năm 1999 Loại trái phiếu, công trái Thời hạn (năm) Lãi suất (%/năm) Số lượng (tỷ đồng) 1. Trái phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ 1998 (ước tính) 2 12 - 13 4.000 2. Trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 1998 1 - 5 13 - 14 1.000 3. Trái phiếu Kho bạc Nhà nước bán lẻ 1999 2 13 3.096 4. Trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển năm 1999 2 - 5 12,5 1.900 5. Công trái Quốc gia 1999 2 - 5 10 4.491,6 6. Trái phiếu đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước (ước tính cả năm 1999) 1 9,5 4.000 7. Trái phiếu công ty tài chính quốc tế VILC 2 12 10 8. Các loại trái phiếu khác 1 - 2 11 - 13 1.000 Tổng cộng 19.587,2 Ngày 4/9/1999, thống đốc NHNN ra chỉ thị 05/1999/CT-NHNN quy định trần lãi suất cho vay tối đa đối với khu vực thành thị là 0,95%/tháng với mọi khoản vay, lãi suất cho NHTM cổ phần và vùng nông thôn là 1,13% và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng khác (Quỹ tín dụng và HTX tín dụng) vẫn là 1,5%/tháng. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng tác động của quy định này là NHTMQD, song để cạnh tranh giữ thị phần, các NHTM cổ phần cũng buộc phải đồng loạt hạ lãi suất cho vay xuống bằng mức lãi suất của các NHTMQD. Việc điều chỉnh lãi suất tiền vay tất yếu thay đổi lãi suất tiền gửi. Trong vòng hơn 2 năm (199

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0746.doc
Tài liệu liên quan