Hai kính thiên văn vô tuyến tại Đài thiên văn Parkes, Úc.
Kính viễn vọng vô tuyến là các kính viễn vọng hoạt động với cơ chế như
kính viễn vọng giao thoa hoặc kính viễn vọng phản xạ, trong dải sóng vô
tuyến.
Kính viễn vọng vô tuyến được ứng dụng chủ yếu trong quan sát thiên văn
và trong liên lạc thông tin trong công nghệ vũ trụ.
Đối với quan sát thiên văn, các kính viễn vọng quang học, trong ứng
dụng quan sát bầu trời từ Trái Đất, chỉ dùng được trong những đêm bầu
trời không có mây và ban ngày không quan sát được vì Mặt Trời chiếu
sáng. Các kính viễn vọng vô tuyến có thể giúp vượt qua trở ngại này, dotín hiệu vô tuyến ít bị nhiễu hơn vào ban ngày và đi xuyên qua các đám
mây.
Trở ngại chính của các kính viễn vọng vô tuyến là do bước sóng của sóng
vô tuyến thường dài cỡ mét, để đạt độ phân giải cao, cần xây dựng các
gương có đường kính khổng lồ. Cách giải quyết là dùng kỹ thuật của kính
viễn vọng giao thoa, sử dụng những tín hiệu đồng bộ thu được từ những
kính viễn vọng phản xạ nằm xa nhau. Khoảng cách lớn giữa từng kính
viễn vọng phản xạ đơn lẻ có thể coi tương đương với "đường kính" của
hệ các kính.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 693 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Vật lí Lớp 9 - Bài: Kính viễn vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kính viễn vọng 
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 
(đổi hướng từ Kính thiên văn) 
Bước tới: menu, tìm kiếm 
Kính viễn vọng hay kiếng viễn vọng là một dụng cụ giúp quan sát các 
vật thể nằm ở khoảng cách xa so với kích thước của con người. Kính viễn 
vọng được ứng dụng trong quan sát thiên văn học, hay trong công tác hoa 
tiêu của ngành hàng hải, hàng không hay công nghệ vũ trụ, cũng như 
trong quan sát và do thám quân sự. Trong các ứng dụng thiên văn, chúng 
còn được gọi là kính thiên văn. 
Trong lịch sử, kính viễn vọng đầu tiên được chế tạo sử dụng các dụng cụ 
quang học, để thu nhận ánh sáng đến từ vật thể ở xa và tạo ra hình ảnh 
phóng đại dễ dàng quan sát bởi mắt người. Chúng là các kính viễn vọng 
quang học. Sau này, các loại kính viễn vọng khác được chế tạo, sử dụng 
bức xạ điện từ nằm ở bước sóng khác, đến từ vật thể ở xa, như radio, 
hồng ngoại, tử ngoại, tia X, gamma, ... 
Phân loại theo cơ chế 
Kính viễn vọng khúc xạ 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng khúc xạ 
Sơ đồ một kĩnh viễn vọng khúc xạ.[1] 
Kính viễn vọng khúc xạ là loại kính viễn vọng dùng các thấu kính để thay 
đổi đường truyền của các bức xạ điện từ, thông qua hiện tượng khúc xạ, 
tạo ra ảnh rõ nét của vật thể ở xa. 
Một trong các kính viễn vọng khúc xạ đầu tiên do Galileo (1564–1642) 
chế tạo, sử dụng một vật kính, là thấu kính hội tụ để gom các tia sáng vào 
một mặt phẳng cách thấu kính hội tụ một khoảng được gọi là tiêu cự. Ánh 
sáng bị khúc xạ tạo ra một ảnh rất nhỏ của một vì sao hay hành tinh. Kế 
tiếp, ảnh đi qua thị kính, trong kính của Galileo là thấu kính phân kì. Hiện 
nay, ảnh đi qua vật kính còn được phóng đại qua thị kính là một thấu kính 
hội tụ. 
Kính viễn vọng khúc xạ có trở ngại chính là sự tán sắc. Vì thủy tinh hay 
các vật liệu làm thấu kính có chiết suất khác nhau cho các bước sóng bức 
xạ điện từ khác nhau. Ví dụ, trong kính thiên văn quang học hoạt động 
với cơ chế khúc xạ, điều này khiến hình ảnh vật ở xa, ví dụ một vì sao 
hoặc một hành tinh, được bao quanh bởi những vòng tròn có màu sắc 
khác nhau. 
Kính viễn vọng phản xạ 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng phản xạ 
Sơ đồ một kiểu kĩnh viễn vọng phản xạ quang học 
Kính viễn vọng phản xạ hoạt động dựa trên sự tảo ảnh của vật ở xa bằng 
các gương, thông qua hiện tượng phản xạ các bức xạ điện từ. 
Một trong các kính viễn vọng phản xạ đầu tiên do nhà thiên văn người 
Scotland James Gregory phát minh năm 1663, dùng một mặt gương lõm 
hội tụ thay vì thấu kính hội tụ để thu gom ánh sáng tới tạo ảnh. Ảnh có 
thể được thu thập hay được phóng đại thêm qua các gương phụ trợ. 
Kính viễn vọng phản xạ có ưu điểm lớn là tránh hiện tượng tán sắc. 
Với mọi kính viễn vọng, số photon thu được tỷ lệ thuận với diện tích 
phần thu (gương đối với kính viễn vọng phản xạ và thấu kính với kính 
viễn vọng khúc xạ). Đồng thời độ phân giải tỷ lệ với đường kính của 
phần thu. Ví dụ, khi dùng gương có bán kính gấp đôi, khả năng thu gom 
ánh sáng lên gấp bốn lần và độ phân giải tăng hai lần. Việc tăng kích 
thước gương có thể được thực hiện dễ dàng hơn so với tăng kích thước 
thấu kính. Đây cũng là ưu điểm của kính viễn vọng phản xạ. 
Đa số các kính viễn vọng ngày nay, có đường kính cỡ từ vài chục 
xentimét trở lên, phục vụ cho quan sát thiên văn, đều là kĩnh viễn vọng 
phản xạ. 
Kính viễn vọng giao thoa 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng giao thoa 
Kính viễn vọng tổng hợp 
Kính viễn vọng quang phổ 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng quang phổ 
Quang phổ học (spectroscopy) là môn nghiên cứu các phổ (spectrum, số 
nhiều spectra) của vật chất, dựa trên cơ sở là mỗi nguyên tố hóa học có 
một phổ đặc trưng. Điều này có thể quan sát được qua hệ thống kính 
quang phổ, trong đó các tia sáng đi qua một khe hẹp, đến thấu kính chuẩn 
trực (collimating lens) được chỉnh thành những tia sáng song song, đi qua 
một lăng kính (prism), sau đó được phân tích và qua một kính lấy nét 
(focusing lens) ở thị kính. Qua kính quang phổ, có thể thấy một chuỗi 
những hình ảnh, mỗi hình ảnh có một màu khác nhau, vì ánh sáng đã 
được phân tích qua những phổ màu khác nhau. 
Kính quang phổ thường tách ánh sáng thành những dải màu tiếp nối nhau, 
với nhiều đường sậm chạy ngang được gọi là đường Fraunhofer. Mỗi tổ 
hợp các đường sậm tương ứng với một nguyên tố của vì sao đã hấp thụ 
những màu bị mất đi. Ví dụ: nguyên tố H cho một đường đỏ sậm, Na cho 
một cặp đường vàng sậm, Fe cho những đường của hầu hết các màu. Mỗi 
nguyên tố trong tầng khí quanh vì sao tạo nên những đường phổ đậm đặc 
trưng, tùy thuộc vào nhiệt độ và áp suất của khí. Vì thế, có thể quan sát 
những phổ của hàng trăm ngàn vì sao. 
Phân tích quang phổ của ánh sáng chiếu từ một vì sao cho phép phân tích 
thành phần hóa học của vì sao này. Ví dụ: nguyên tố helium được khám 
phá trên Mặt Trời nhiều năm trước khi được tìm thấy trên Trái Đất. Gần 
đây, nghiên cứu quang phổ của Mặt Trời cho thấy chứng cứ vững chắc về 
sự hiện diện của ion hydrogen âm. Vì thế, nghiên cứu quang phổ của các 
vì sao đã cung cấp nhiều tư liệu quý giá. Ví dụ, các tinh vân (nebula) cho 
thấy một nguyên tố mới, tạm thời được đặt tên là nebulium, không có trên 
Trái Đất. Cũng nhờ nghiên cứu quang phổ các vòng quanh Sao Thổ, được 
biết các vòng này chủ yếu tạo thành bởi những mảnh băng ammonia. 
Quang phổ học cũng đã được ứng dụng để phân tích thành phần hóa học 
khí quyển của Mộc Tinh sau khi sao chổi Shoemaker-Levy 9 va đập vào. 
Quang phổ học cũng giúp khám phá những thiên thể ở rất xa. Ví dụ: các 
phổ của một vài vì sao ở xa thỉnh thoảng bị tách rời nhau, rồi sau đó hợp 
lại. Hiệu ứng này là do sự hiện diện của vì sao đôi, quay gần nhau đến đỗi 
một kính viễn vọng thông thường không thể phân biệt được. 
Các đường phổ dịch chuyển vị trí khi nguồn ánh sáng di chuyển tiến gần 
hoặc rời xa thiết bị quan sát. Sự dịch chuyển này giúp tính toán khá chính 
xác vận tốc tương đối của bất kỳ nguồn phát xạ nào. Nói chung, nếu mọi 
đường phổ của một vì sao dịch chuyển về phía màu đỏ, vì sao đó đang rời 
xa Trái Đất, và vận tốc có thể được tính toán từ mức độ dịch chuyển. 
Ngược lại, khi vì sao đang tiến gần Trái Đất, phổ dịch chuyển về phía 
màu tím. Qua cách này, có kết luận dẫn đến thuyết vũ trụ giãn nở. 
Phân loại theo bước sóng 
Kính viễn vọng quang học 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng quang học 
Kính viễn vọng quang học chủ yếu dựa trên sự thu thập và xử lý ánh 
sáng. 
Kính viễn vọng vô tuyến 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng vô tuyến 
Hai kính thiên văn vô tuyến tại Đài thiên văn Parkes, Úc. 
Kính viễn vọng vô tuyến là các kính viễn vọng hoạt động với cơ chế như 
kính viễn vọng giao thoa hoặc kính viễn vọng phản xạ, trong dải sóng vô 
tuyến. 
Kính viễn vọng vô tuyến được ứng dụng chủ yếu trong quan sát thiên văn 
và trong liên lạc thông tin trong công nghệ vũ trụ. 
Đối với quan sát thiên văn, các kính viễn vọng quang học, trong ứng 
dụng quan sát bầu trời từ Trái Đất, chỉ dùng được trong những đêm bầu 
trời không có mây và ban ngày không quan sát được vì Mặt Trời chiếu 
sáng. Các kính viễn vọng vô tuyến có thể giúp vượt qua trở ngại này, do 
tín hiệu vô tuyến ít bị nhiễu hơn vào ban ngày và đi xuyên qua các đám 
mây. 
Trở ngại chính của các kính viễn vọng vô tuyến là do bước sóng của sóng 
vô tuyến thường dài cỡ mét, để đạt độ phân giải cao, cần xây dựng các 
gương có đường kính khổng lồ. Cách giải quyết là dùng kỹ thuật của kính 
viễn vọng giao thoa, sử dụng những tín hiệu đồng bộ thu được từ những 
kính viễn vọng phản xạ nằm xa nhau. Khoảng cách lớn giữa từng kính 
viễn vọng phản xạ đơn lẻ có thể coi tương đương với "đường kính" của 
hệ các kính. 
Ví dụ, một mạng lưới gồm 25 đĩa thu tín hiệu có đường kính chỉ 25 m, 
trải dài từ đảo Hawaii đến quần đảo Virgin, tương đương với một kính 
viễn vọng vô tuyến duy nhất có đường kính gần 8.000 km. 
Một hạn chế khác của kính viễn vọng vô tuyến là sự nhiễu loạn do từ hoạt 
động của con người, kể cả việc sử dụng điện thoại di động. Một số kính 
được xây trong lòng một thung lũng để tránh nhiễu sóng, ví dụ như kính 
viễn vọng vô tuyến ở thung lũng Arecibo, Puerto Rico, có đĩa an-ten với 
đường kính 305 m. 
Kính viễn vọng hồng ngoại 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng hồng ngoại 
Kính viễn vọng hồng ngoại thường áp dụng thiết kế cơ bản của kính viễn 
vọng phản xạ, nhưng có một bộ phận ở tiêu điểm để chỉ ghi nhận tia hồng 
ngoại. 
Các vật thể có nhiệt độ khoảng vài trăm độ K có bức xạ vật đen với cực 
đại thường nằm trong dải hồng ngoại. Do vậy kính viễn vọng hồng ngoại 
giúp quan sát các vật thể nóng ấm ở xa, đặc biệt là trong đêm tối, khi 
không có bức xạ hồng ngoại của Mặt Trời gây nhiễu. Kính viễn vọng 
hồng ngoại được ứng dụng trong quan sát trong ban đêm các sinh vật, 
người hay vật thể có nhiệt độ cao hơn hay thấp hơn môi trường; đặc biệt 
trong do thám quân sự. 
Đối với quán sát thiên văn học, loại kính này có ít ứng dụng trên Trái Đất 
do, ngay cả vào ban đêm, tín hiệu đến từ không gian vũ trụ bên ngoài bị 
hấp thụ mạnh bởi khí quyển Trái Đất. Ngoài ra, tín hiệu còn có thể bị 
nhiễu do các nguồn nhiệt trên Trái Đất. Chúng được dùng nhiều hơn cho 
quan sát thiên văn từ không gian; thường kèm theo kỹ thuật loại bỏ bức 
xạ hồng ngoại nền của môi trường xung quanh. Bức xạ nền được thu 
riêng và ghi nhớ lại; sau đó hình ảnh không gian sẽ được trừ đi phần bức 
xạ nền. Kính viễn vọng hồng ngoại thường được giữ ở nhiệt độ rất thấp 
khi vận hành, để hạn chế bức xạ nền phát ra từ chính nó. 
Kính viễn vọng tử ngoại 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng tử ngoại 
Kính viễn vọng tử ngoại cũng tương tự như kính viễn vọng phản xạ, 
nhưng các mặt gương được tráng thêm những lớp đặc biệt để phản chiếu 
tốt tia tử ngoại, đồng thời có các đầu thu nhạy với tia tử ngoại đặt tại phặt 
phẳng tạo ảnh của hệ gương. 
Trong ứng dụng thiên văn học, do bầu khí quyển Trái Đất, đặc biệt là 
tầng ozon, hấp thụ mạnh tia tử ngoại, kính viễn vọng tử ngoại chỉ được 
ứng dụng với các trạm quan sát bên ngoài khí quyển Trái Đất. Các vật thể 
nóng khoảng trên 10.000 độ K trong vũ trụ thường phát ra bức xạ vật đen 
có cực đại tại vùng tử ngoại. Do vậy, kính viễn vọng tử ngoại cung cấp 
nhiều thông tin về các vì sao nóng (thường là sao còn trẻ). Tia tử ngoại 
cũng hay được phát ra từ những vùng khí xung quanh các thiên hà hay 
các thiên thể đang hoạt động mạnh. 
Kính viễn vọng Hubble là một ví dụ về kính viễn vọng tử ngoại đã được 
phóng lên không gian, trở thành đài quan sát quay chung quanh Trái Đất. 
Kính viễn vọng tia X 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng tia X 
Kính viễn vọng tia X được đặt trên những vệ tinh phóng vào không gian 
để bắt lấy tia X phát ra từ những vật thể trong không gian. Năm 1999, hai 
kính viễn vọng tia X quan trọng được phóng, Chandra X-ray của NASA 
và XMM của Cơ quan Không gian Châu Âu (ESA). 
Vài kính viễn vọng quang tuyến X có thiết kế tương tự như kính viễn 
vọng phản xạ, có điều khác biệt là gương phản chiếu có hình thể gần như 
hình trụ thay vì là mặt thấu kính. Các tia X từ vật thể cần quan sát phóng 
đến gương và được phản hồi đến bộ phận thu thập tia X. Để ngăn chặn 
các tia X không xuất phát từ vật thể cần quan sát (do đó gây nhiễu), các 
bộ phận thu tia X được bao bọc bằng một ống chì có đặc tính thu hút tia 
X. 
Kính viễn vọng tia gamma 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng tia gamma 
Tia gamma là bức xạ điện từ với độ dài sóng ngắn hơn cả tia X. Vì tia 
gamma không thể thâm nhập bầu khí quyển của Trái Đất, phải đưa kính 
viễn vọng tia gamma vào không gian. 
Vài hiện tượng phá hủy to tát nhất trong vũ trụ, như khi các vì sao trung 
tính va đập nhau hoặc lỗ đen, phóng ra không gian những tia gamma có 
năng lượng cao. Vào đầu thập niên 1990s, kính viễn vọng tia gamma 
Compton phát hiện những luồng tia gamma được phân bố đồng đều trong 
không gian. Vì sự phân bố này, có ý kiến cho rằng đó là kết quả của 
những hiện tượng lớn trong không gian, như việc va đập giữa hai vì sao 
trung tính, hoặc giữa một định vì sao trung tính và một lỗ đen. 
Kính viễn vọng tia gamma gồm có 2 hoặc nhiều hơn bộ phận phát hiện tia 
gamma đặt thẳng hàng. Một bộ phận sẽ được kích động khi có một tia 
gamma chiếu đến cho dù theo góc độ nào. Để có thể quan sát những tia 
gamma chiếu từ một vật thể, cần có ít nhất 2 bộ phận phát hiện đặt theo 
một đường thẳng hướng đến vật thể này. Chỉ những tia gamma phát ra từ 
vật thể cần quan sát có thể đi xuyên qua các bộ phận phát hiện. 
Trong không gian 
Với các quan sát thiên văn học, các kính viễn vọng quang học trên Trái 
Đất thường bị ảnh hưởng xấu của nhiễu loạn chiết suất khí quyển, chưa 
kể đến các hiện tượng khí tượng như mây, mưa, bụi. Với các kính thiên 
văn vô tuyến trên Trái Đất, sự nhiễu sóng vô tuyến do con người tạo ra là 
một trở ngại đáng kể. Thêm nữa, bầu khí quyển Trái Đất hấp thụ mạnh 
các tia hồng ngoại (do hơi nước), tử ngoại (do tầng ozon), tia X đến từ 
ngoài vũ trụ; khiến quan sát thiên văn tại các bước sóng này khó khăn. 
Các trạm quan sát đặt trong không gian có thể giúp thoát khỏi ảnh hưởng 
trực tiếp của khí quyển Trái Đất. Nếu được đặt xa Trái Đất, như ở trên bề 
mặt Mặt Trăng nơi không bao giờ hướng về Trái Đất, các kính thiên văn 
vô tuyến còn được Mặt Trăng che chắn khỏi các nhiễu loạn vô tuyến đến 
từ Trái Đất. 
Kĩnh viễn vọng Hubble 
Bài chi tiết: Kính viễn vọng Hubble 
Ảnh chụp kính viễn vọng không gian Hubble. 
Kính viễn vọng Hubble, được nghiên cứu từ thập niên 1970 và phóng lên 
không gian năm 1990, là một bước đột phá quan trọng trong quan sát 
thiên văn trong phổ quang học, tử ngoại và hồng ngoại. 
Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng. Nó lần 
đầu tiên sử dụng công nghệ Multi-Anode Microchannel Array (MAMA) 
để ghi nhận tia tử ngoại nhưng loại trừ ánh sáng. Nó có sai số trong định 
hướng nhỏ tương đương với việc chiếu một tia laser đến đúng vào một 
đồng xu cách đó 320 km và giữ yên như thế. 
Việc thiết kế kính này theo dạng mô-đun cho phép các phi hành gia tháo 
gỡ, thay thế hoặc sửa chữa từng mảng bộ phận dù họ không có chuyên 
môn sâu về các thiết bị. Trong một lần sửa, độ phân giải của Hubble đã 
được tăng lên gấp 10. 
Hubble cung cấp khoảng 5-10 GB dữ liệu một ngày. Vài khám phá quan 
trọng do Hubble mang lại gồm có:* chi tiết sự va đập của sao chổi 
Shoemaker-Levy 9 vào Sao Mộc; 
 chi tiết những cơn bão rộng hàng ngàn km trên Sao Thiên Vương; 
 xác định và tính toán sự giãn nở của vũ trụ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_an_vat_li_lop_9_bai_kinh_vien_vong.pdf giao_an_vat_li_lop_9_bai_kinh_vien_vong.pdf