Những âm hô hấp sinh lý.
- Âm thanh quản: khi gia súc thở, khí từ xoang mũi vào hầu rồi vào khí quản, cọ xát vào
khí quản và tạo nên âm này. Đặt ống nghe vào vùng hầu của gia súc thì nghe được khá rõ âm
“khờ”, đây chính là âm thanh quản.
- Âm khí quản: nghe rõ từ hầu đến ngực. Thực chất của nó chính là âm thanh quản vọng
vào.
- Âm phế quản: các loài gia súc đều nghe được âm phế quản ở khoảng sườn 3 - 4. Âm
phế quản là dư âm của âm khí quản vọng vào.
Riêng ngựa không nghe được âm phế quản, toàn bộ vùng phổi ngựa chỉ nghe được âm
phế nang. Nếu nghe được âm phế quản chứng tỏ ngựa bị bệnh đường hô hấp.
- Âm phế nang: nghe được trên mọi vị trí của phổi, âm này rất nhẹ, nghe như "phờ". Âm
này nghe rõ khi gia súc hít vào. Âm phế nang có thể do tiếng vọng của âm phế quản, có thể do
khí vào phế nang với tốc độ lớn gây nên.
Cường độ và tính chất của âm phế nang phụ thuộc vào yếu tố giống, độ béo, tuổi gia
súc, trạng thái thần kinh.
Gia súc gầy, gia súc trong trạng thái hưng phấn nghe âm phế nang rất rõ, đặc biệt là ở
chó; ở trâu bò nghe rõ hơn ở ngựa, nhất là vùng rốn phổi, ngay sau xương bả vai; lợn nghe rất
khó.
60 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Chẩn đoán bệnh thú y (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khu hô hấp bị hưng phấn, phổi
vẫn nguyên lành.
Âm phế nang tăng cục bộ: vùng tăng vùng giảm. Gặp khi viêm phổi- phế quản.
Âm phế nang tăng một bên, giảm một bên: gặp trong bệnh viêm phổi thuỳ.
Âm phế nang giảm: gia súc thở nông và yếu. Âm phế nang giảm có thể do tổ chức dưới
da bị thuỷ thũng, sưng dày; bệnh trong lồng ngực như viêm màng phổi, xoang ngực tích nước,
gia súc đau đớn làm ức chế hô hấp; một số bệnh làm hẹp đường hô hấp gây khó thở.
Âm phế nang thô: là do phế quản bị viêm sưng, lòng phế quản rộng hẹp không đều.
Không khí ra vào cọ sát và gây nên.
+ Âm phế nang mất: do phế nang hoặc phế quản bị tắc. Thường khi mất âm phế nang
thì gõ phổi có âm đục vì đã có sự xuất hiện của dịch rỉ viêm.
5. Những âm hô hấp bệnh lý
5.1. Âm phế quản bệnh lý.
Nếu nghe được âm phế quản ở ngựa là bệnh lý
Gia súc khác, nếu chỉ nghe thấy âm phế quản mà không nghe thấy âm phế nang thì cũng
là trường hợp bệnh lý.
Âm phế quản bệnh lý thường nghe được ở dìa sau của phổi (vì viêm phổi hay viêm
màng phổi thường xuất phát từ vùng đó). Các bệnh viêm phổi thuỳ, phó thương hàn bê nghé,
suyễn lợn, giun phổi, nghe được âm phế quản ở vùng rộng; các bệnh lao phổi, tỵ thư nghe
được âm phế quản ở vùng hẹp.
5.2. Âm ran (Rhonchi): bao gồm âm ran kho và âm ra ướt.
+ Âm ran khô (Rhonchi Sicca): nghe như tiếng rít. Nguyên nhân do dịch thẩm xuất
đọng lại trong lòng phế quản đã khô lại; hoặc do phế quản bị chèn ép, hẹp lại. Khi không khí
đi qua sẽ phát ra âm này.
+ Âm ra ướt (Rhonchi humidi): nghe khò khè. Nguyên nhân là không khí vào ra làm
chuyển dịch các dịch thể lẫn bọt khí trong đường hô hấp. Gặp tiếng ran ướt trong các bệnh
suy tim, phổi ứ máu, viêm phổi, khi con vật mê man. Nếu tiếng ran nghe được ở vùng nhỏ
thường do lao; nếu nghe được trên diện rộng thường do viêm phổi.
5.3. Tiếng vò tóc (Creptiatio).
Nghe như tiếng phát ra khi dùng tay xoa lên mái tóc, hay như tiếng bọt xà phòng bị vỡ.
Nguyên nhân có thể là do phế quản và phế nang nhỏ chứa nhiều dịch rỉ viêm, khi thở ra, phế
nang xẹp lại, khi hít vào, phế nang phồng lên, dịch rỉ viêm bị tách ra gây nên tiếng vò tóc.
Tiếng vò tóc là triệu chứng của bệnh viêm phổi, thuỷ thũng phổi, xung huyết phổi;
nhưng thường là lúc dịch thẩm xuất còn ít; khi dịch thẩm xuất nhiều sẽ gây lên tiếng ran.
Phân biệt giữa tiếng ran và tiếng vò tóc:
Tiếng vò tóc mịn, đều, phát ra trên diện rộng; tiếng ran thô, to nhỏ không đều, phát ra
trên diện hẹp.
Tiếng vò tóc là triệu chứng tạm thời, tiếng ran là triệu chứng trường diễn.
Tiếng vò tóc chỉ nghe được khi hít vào, tiếng ran nghe được cả khi hít vào và thở ra.
84
5.4. Tiếng thổi vò.
Nghe như gió thổi qua miệng vò. Thường do xuất hiện những hang. Những hang này
thông với phế quản nên khí lưu động trong phế quản, vào hang bệnh mà gây nên.
5.5. Tiếng cọ màng phổi.
Nghe như khi ta dùng tay chà sát nhẹ lên quả bóng bay được bơm căng. Do màng phổi
bị viêm, fibrin đọng lại, sần sùi. Khi phổi hoạt động sẽ phát ra tiếng này. Tiếng cọ màng phổi
là triệu chứng của bệnh viêm phổi. Nó thường chỉ xuất hiện ở giai đoạn ngắn. Khi dịch thẩm
xuất quá nhiều làm lá thành và lá tạng bị cách xa nhau; hoặc khi lá thành và lá tạng dính chặt
lại với nhau, tiếng cọ sẽ mất.
5.6. Tiếng vỗ nước (Succusio Hypocratis).
Nghe thấy óc ách như khi khua tay vào chậu nước. Nguyên nhân do dịch thẩm xuất,
thẩm lậu tích lại nhiều trong xoang ngực, khi thở hay lúc tim đập sẽ phát ra tiếng trên.
IV. Chọc dò xoang ngực và kiểm tra dịch chọc dò.
1. Phương pháp chọc dò
Thủ thuật chọc dò được áp dụng khi nghi trong xoang ngực có dịch thẩm xuất hay thẩm
lậu. Khi chọc dò phải tuyệt đối vô trùng.
a) Vị trí chọc dò.
Loài nhai lại chọc ở khe sườn 6 bên trái, khe sườn 5 bên phải, trên dưới đường ngang kẻ
từ khớp khuỷu.
Ngựa: gian sườn 7 bên trái, gian sườn 6 bên phải, trên dưới đường ngang kẻ từ khớp
khuỷu.
Lợn: gian sườn 8 bên trái, gian sườn 7 bên phải
Chó: gian sườn 8 bên trái, gian sườn 6 bên phải.
Nên chọc dò bên phải để tránh vùng tim.
b) Các bước chuẩn bị.
Cố định gia súc chắc chắn.
Làm sạch và vô trùng dụng cụ chọc dò.
Cắt lông, sát trùng vị trí chọc dò bằng cồn iod.
c) Tiến hành chọc dò.
Kéo lệch da trước khi chọc. Mục đích là để làm cho lỗ thủng da và thành ngực không
thông với nhau, làm cho vết thương kín, tránh nhiễm trùng.
Tay cầm kim chọc theo phương thẳng đứng. Khi kim đã qua da và thành ngực rồi thì
lực cản rất nhẹ. Nếu đúng vị trí xoang ngực thì dịch sẽ chảy ra, nếu chảy ra máu tươi là đã
đâm trúng phổi; khi đó cần phải lùi kim ra. Sau khi chọc dò xong phải kéo da lại vị trí cũ và
sát trùng.
2. Kiểm nghiệm dịch chọc dò.
Dịch chọc dò có thể là dịch thẩm xuất (Exudate) hoặc là dịch thẩm lậu (Transudate). Có
thể từ vài mililít đến hàng lít.
85
a) Kiểm tra qua mắt thường.
Dịch thẩm xuất đục, để ngoài không khí thì đông lại; dịch thẩm lậu thường trong, để
ngoài không khí không đông.
b) Hoá nghiệm dịch chọc dò.
- Phản ứng Rivalta.
Nguyên lý: nếu là dịch thẩm xuất thì có nhiều protein, đặc biệt là Serosamycin, trong
dung dịch axit axetic loãng sẽ kết tủa thành vẩn mây trắng.
Tiếng hành: cho vào ống đong 100 ml nước cất và hai giọt axit axetic đặc, lắc đều. Lấy
dịch chọc dò nhỏ vào 1- 2 giọt. Nếu trong ống đong vẩn đục như mây trắng là phản ứng
dương tính (dịch thẩm xuất). Nếu trong suốt là phản ứng âm tính (dịch thẩm lậu).
- Phản ứng Mopit (Mopitz).
Cho vào ống nghiệm 2 - 3 ml dung dịch kiểm nghiệm, rồi nhỏ vào 1 giọt dung dịch axit
axetic 5%. Nếu dung dịch đục, kết tủa là phản ứng dương tính; nếu đục mà không kết tủa là
phản ứng âm tính.
+ Kiểm tra qua kính hiển vi.
Dùng 10 ml dịch chọc dò mới lấy, đem ly tâm nhẹ. Lấy 1 giọt cặn ly tâm phiết kính, để
khô trong không khí, cố định bằng cồn methylic trong 5 phút, nhuộm bằng giemsa hoặc bằng
bleu methylen 1%. Kiểm tra qua vật kính dầu.
Nếu thấy một ít hồng cầu trên tiêu bản: có thể do xuất huyết từ vết chọc dò.
Nếu thấy rất nhiều hồng cầu: có thể xuất huyết trong xoang ngực.
Nếu thấy nhiều bạch cầu, bạch cầu trung tính: có thể viêm màng phổi.
Nếu rất nhiều lâm ba cầu: có thể do lao phổi
Nếu dịch chọc dò toàn máu: có thể bị ung thư. Vì vậy cần chú ý các tế bào ung thư.
V. Khám đờm.
Đờm là chất tiết của đường hô hấp khi có bệnh, có khi lẫn cả mảnh thức ăn.
1. Cách lấy đờm.
Chuẩn bị khẩu trang, áo blue, găng tay cho người lấy đờm.
Cố định gia súc.
Chuẩn bị một que bông có cán dài, vô trùng; một cái chậu cũng đã vô trùng.
Một người cầm chậu để trước mồm gia súc để hứng. Người thứ hai một tay kéo lưỡi,
một tay ấn mạnh vào vùng thanh quản gia súc để gây ho. đờm sẽ bắn ra khi con vật ho. Nếu
không gây ho được thì dùng que bông cho trực tiếp vào miệng, ngoáy để lấy đờm.
Đờm lấy xong cho vào hộp lồng đã sát trùng, đậy kín và đưa kiểm nghiệm ngay. Nếu
không kiểm nghiệm ngay được thì cho thêm vào vài giọt thymol 2% và bảo quan trong tủ
lạnh.
2. Kiểm nghiệm đờm.
a) Số lượng
86
Đờm nhiều: có thể viêm phổi hoại thư hoá mủ, lao, viêm phế quản mãn.
b) Màu sắc.
Đờm màu đỏ: có thể xuất huyết phổi.
Đờm màu nâu xám: có thể tổ chức phổi bị thối rữa (trong bệnh hoại thư phổi).
Đờm có màu rỉ sắt: có thể gặp trong bênh viêm phổi thuỳ, giun phổi.
c) Kiểm tra qua kính hiển vi.
Nhờ kính hiển vi có thể phát hiện ra hồng cầu, tế bào tổ chức, vi trùng.
Làm tiêu bản, nhuộm bằng giemsa hoặc bleu methylen 1%. Soi kính.
Nếu thấy nhiều bạch cầu trung tính và lâm ba cầu: có thể do bệnh lao
Nếu thấy nhiều hồng cầu: có thể do xuất huyết phổi (bệnh lao).
Nếu thấy nhiều tế bào thượng bì: có thể viêm đường hô hấp.
Kiểm tra dây chun: lấy cục đờm cho vào cốc, cho thêm 3 - 5 ml dung dịch KOH 10%,
đun sôi trên ngon lửa đèn cồn, đem ly tâm; lấy cặn đem soi kính với vật kính 8. Nếu có giây
chun thì thấy từng bó, từng chùm trên vi trường.
Nếu thấy giây chun thì chứng tỏ bệnh phổi rất nặng.
Câu hỏi ôn tập
- Tần số hô hấp là gì, cách kiểm tra?
- Các thể thở và những rối loạn hô hấp?
- Kiểm tra nước mũi, Kiểm tra ho?
- Khám ngực bằng cách nhìn và sờ nắn?
- Xác định và gõ vùng phổi trâu bò, ngựa?
- Các âm bệnh lý có thể có khi gõ và nghe phổi?
- Chọc dò xoang ngực, hóa nghiệm dịch chọc dò?
Tài liệu tham khảo
- Respiratory system- Wikipedia:
- Introductory Anatomy: Respiratory System:
Dr
D.R.Johnson, Centre for Human Biology
- Hồ Văn Nam (1979), Chẩn đoán bệnh không lây, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
87
CHƯƠNG IX
KHÁM HỆ TIÊU HOÁ
Tóm tắt chương
Chương này được trình bày trong 23 trang tương đương 9 tiết giảng. Nội dung của
chương bao gồm:
Kiểm tra nhai, nuốt, ợ hơi, nôn mửa.
Khám miệng, khám họng và thực quản, khám diều (gia cầm)
Khám dạ dày loài nhai lại: khám dạ dày đơn, kiểm tra chất chứa trong dạ dày, khám
ruột
Kiểm tra phân, chọc dò xoang bụng, khám gan
Mục tiêu của chương
Sau khi học xong chương này, người học sẽ được cung cấp những kiến thức về vai trò
của bộ máy tiêu hóa; những bệnh thường gặp của bộ máy tiêu hóa ở gia súc và cách chẩn
đoán bệnh dựa trên các kỹ năng khám lâm sàng cơ bản và khám chuyên biệt.
Nội dung của chương
Bộ máy tiêu hoá là một cái ống rỗng bắt đầu từ miệng tới hậu môn, gồm ống tiêu hoá và
các tuyến tiêu hoá: tuyến nước bọt, gan, tuỵ. Ngoài hai phần miệng và hậu môn ta có thể thăm
khám trực tiếp được, còn lại phần lớn bộ máy tiêu hoá đầu nắm trong ổ bụng, muốn thăm
khám đòi hỏi phải kết hợp nhiều phương pháp: hỏi bệnh, khám lâm sàng và cận lâm sang
(chọc dò, thông thực quản, dạ dày, ruột, X - quang, soi ổ bụng, xét nghiệm phân và chất chứa
trong dạ dày).
Những bệnh về tiêu hoá chiếm một tỷ lệ khá quan trọng trong các bệnh nội khoa ở
Việt Nam, (ở người, theo thống kê của bệnh viện Bạch Mai từ 1959 – 1968 bệnh tiêu hoá
chiếm 20% và tỷ lệ tử vong chiếm gần 20% tổng số các bệnh nội khoa nói chung).
Hệ tiêu hoá đảm nhận chức năng quan trọng là thu nạp các chất dinh dưỡng có từ thức
ăn và bài thải những chất cặn bã. Hàng ngày nó phải tiếp nhận đủ thứ hỗn hợp thức ăn. Nên
nó chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Quá trình tiêu hoá là một quá trình cơ học, hoá học sinh
vật học, những thay đổi bệnh lý cũng sẽ biểu hiện cả trên các mặt: những triệu chứng chức
năng, triệu chứng thực thể và triệu chứng cận lâm sàng.
Những bệnh của bộ máy tiêu hoá có liên quan mật thiết đến toàn thân và ngược lại
những bệnh của toàn thân cũng có những biểu hiện trên tiêu hoá. Do đó khi khám bộ máy
tiêu hoá phải chú ý tới toàn thân và các bộ phận khác. Việc phát hiện kịp thời bệnh ở đường
tiêu hóa để có biện pháp phòng trị là rất cần thiết.
Có nhiều nguyên nhân gây rối loạn hoạt động của hệ tiêu hoá. Nhưng chủ yếu là chế độ
ăn, khẩu phần ăn, chế độ nuôi dưỡng và sử dụng gia súc. Lúc đầu thường chỉ là những rối
loạn chức năng, nhưng khi kéo dài sẽ trở thành những biến đổi bệnh lý.
Rối loạn ở đường tiêu hoá có thể do bệnh trực tiếp ở đường tiêu hóa, cũng có thể do ảnh
hưởng của các khí quan khác bên trong cơ thể như phổi, tim.
I. Kiểm tra ăn uống.
1. Cách lấy thức ăn và nước uống.
88
Ngựa: lấy thức ăn bằng môi; trâu, bò: dùng lưỡi; lợn: dùng cả mõm
Nếu miệng, lợi, răng lưỡi bị bệnh có thể làm động tác lấy thức ăn thay đổi.
- Kém ăn: do sốt cao, bệnh ở đường tiêu hoá
- Kén ăn: con vật có thể thích thức ăn tinh khác thường do pH dạ dày tăng; thích ăn thức
ăn thô xanh do pH dạ dày giảm.
- Ăn nhiều: do đói lâu ngày, con vật mới hồi phục sau khi bị bệnh, đái tháo đường.
- Ăn bậy (vớ gì ăn nấy): do thiếu chất, thường là một số nguyên tố can xi, phốt pho,
đồng, kẽm... hoặc do dịch vị quá chua, do thần kinh rối loạn (bệnh dại).
- Uống nhiều nước: do thức ăn khô, do trời nóng, do bị đái tháo đường, nôn mửa, ỉa
chảy; hoặc trong một số bệnh truyền nhiễm.
- Uống nước giảm: do tắc ruột, liệt thần kinh mặt.
II. Kiểm tra nhai
Ngựa: đầu ngẩng hoặc cúi khi nhai, miệng ngậm
Trâu bò: thường ngẩng đầu khi nhai, há miệng
Rối loạn khi nhai
- Nhai chậm, thỉnh thoảng ngừng nhai: do sốt cao, bệnh dạ dày.
- Nhai nhẹ, nhai đau: bệnh ở răng, viêm lợi.
- Hàm răng khép chặt lại: gặp trong bệnh viêm não tuỷ truyền nhiễm, chó dại (có khi là
nhai không hay còn gọi là nghiến răng).
Nhai lại: đây là một đặc điểm sinh lý bình thường của loài nhai lại, nó liên hệ mật thiết
với hoạt động bình thường của dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Kiểm tra nhai lại
không chỉ có ý nghĩa chẩn đoán bệnh mà còn có thể đánh giá được tiên lượng.
Nhai lại là một phản xạ phức tạp: đầu tiên thức ăn chứa trong dạ tổ ong kích thích cơ
quan thụ cảm ở rãnh thực quản và dạ tổ ong. Những xung động theo thần kinh hướng tâm của
thần kinh giao cảm truyền đến trung khu nhai lại, đến hạch thần kinh mê tẩu, phản xạ tiếp tục
theo dây li tâm của thần kinh mê tẩu truyền đến rãnh thực quản, dạ tổ ong, cơ vân của thực
quản và hầu. Các cơ co bóp đẩy thức ăn ngược trở lại miệng, để nhai lại và nuốt thẳng xuống
dạ lá sách, rồi dạ múi khế. Thức ăn trong dạ tổ ong ít dần, áp lực trong dạ lá sách, dạ múi khế
tăng dần làm mất hưng phấn ở trung khu nhai lại, dẫn đến con vật thôi không nhai lại. Quá
trình trên lại được lặp lại khi con vật tiếp tục ăn vào.
Bò khoẻ: sau khi ăn 30 - 90 phút bắt đầu nhai lại, mỗi lần nhai kéo dài 50 - 60 - phút,
mỗi miếng nhai lại 40 - 80 lần, một ngày đêm nhai lại 6 - 8 lần.
Dê, cừu nhai lại nhanh hơn bò và khi gặp những kích thích lạ thì ngừng lại, rồi lại nhai
tiếp.
Nhai lại thay đổi là dấu hiệu bệnh lý ở dạ dày trước, các bệnh gây sốt cao và nhiều bệnh
khác.
- Nhai lại chậm và yếu: sau khi ăn, nhai lại xuất hiện chậm, động tác kéo dài và yếu.
- Số lần nhai lại ít và ngắn: có khi 1 - 3 lần/ngày đêm, mỗi lần nhai lại không quá nửa
giờ.
89
- Nhai lại đau lúc đẩy thức ăn lên: trong bệnh viêm dạ tổ ong do ngoại vật.
- Mất phản xạ nhai lại: bội thực dạ cỏ, đầy hơi dạ cỏ, liệt dạ cỏ, viêm dạ múi khế, nghẽn
dạ lá sách, liệt sau khi đẻ, xeton huyết, trúng độc...
III. Nuốt
Rối loạn thường thấy ở ngựa, trâu, bò. Khi nuốt bị rối loạn có thể làm cho thức ăn, nước
uống, nước bọt... lọt vào trong khí quản gây viêm phổi, phế quản do ngoại vật.
1. Rối loạn nuốt nhẹ: đầu vươn ra, lắc lư, chân trước cào đất, nuốt được ít. Thường thấy
trong bệnh viêm họng, có u bướu hay do ngoại vật ở họng.
2. Rối loạn nuốt nặng: biểu hiện bằng chảy dãi, thức ăn trào ngược lên thực quản, ra
mũi; thức ăn rơi ra ngoài từ miệng. Gặp trong viêm họng, viêm hạch truyền nhiễm của ngựa,
bệnh chó dại, liệt giây thần kinh mê tẩu, liệt thần kinh mặt.
IV. Ợ hơi
Ợ hơi là một đặc điểm sinh lý của gia súc nhai lại, nhờ ợ hơi mà các khí sinh ra do quá
trình lên men trong dạ cỏ được tống ra ngoài.
1. Rối loạn ợ hơi
1.1. Ợ hơi tăng: do trong dạ cỏ sinh nhiều hơi. Gặp trong các trường hợp gia súc ăn các
thức ăn dễ lên men sinh hơi, thời kỳ đầu của bệnh chướng hơi dạ cỏ.
1.2. Ợ hơi giảm: do chức năng co bóp của dạ cỏ yếu. Gặp trong các bệnh liệt dạ cỏ, tích
thức ăn dạ cỏ, chướng hơi dạ cỏ, tắc rãnh thực quản và trong hầu hết các bệnh truyền nhiễm
gây sốt cao, ợ hơi mùi thối trong bệnh liệt dạ cỏ mãn tính.
1.3. Ợ hơi ngừng hẳn: do tắc rãnh thực quản, chướng hơi dạ cỏ nặng. Trường hợp này
cần có biện pháp cấp cứu ngay, nếu không hơi chèn ép cơ hoành gây nghẹt thở làm gia súc
chết.
Các gia súc không phải nhai lại nếu ợ hơi là hiện tượng bệnh lý.
V. Nôn mửa.
Bất cứ loài nào nếu thấy nôn mửa là hiện tượng bệnh lý, đặc biệt là loài ăn thịt. Nôn
mửa có thể là do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích.
1. Nôn mửa do phản xạ: có thể do ngoại vật kích thích vào vòm khẩu cái, cuống lưỡi, ở
hầu hoặc do chướng hơi dạ dày, viêm loét, ký sinh trùng (ở dạ dày hay ở não). Rối ruột, viêm
phúc mạc, viêm tử cung...
2. Nôn do trung khu nôn bị kích thích: gặp trong bệnh viêm màng não, u não, độc tố vi
trùng trong các bệnh truyền nhiễm, các trường hợp trúng độc. Đặc điểm nôn do trung khu nôn
bị kích thích là sau khi nôn hết thức ăn trong dạ dày thì phản xạ nôn vẫn còn, con vật nôn
khan.
Do cấu tạo giải phẫu hệ tiêu hoá của các loài gia súc khác nhau. Loài ăn thịt rất dễ nôn,
loài nhai lại nôn khó khăn; ngựa nôn rất khó khăn (do van thượng vị đóng rất chặt, do vậy khi
buồn nôn có thể gây đến vỡ dạ dày, ruột).
Kiểm tra nôn cần chú ý số lần nôn, thời gian xuất hiện, tính chất, mùi, phản ứng và
thành phần chất nôn.
Nếu nôn một lần mà sau đó không nôn lại thì do ăn quá nhiều.
90
Một ngày nôn vài lần: thường là do trúng độc.
Nôn ngay sau khi ăn: thường do bệnh ở dạ dày
Nôn sau khi ăn một thời gian: có thể do tắc ruột.
Độ toan trong dạ dày quá cao, chất nôn toan tính và ngược lại. Ruột non bị tắc thì chất
nôn kiềm tính.
Chất nôn lẫn máu: do viêm dạ dày xuất huyết, loét dạ dày trong các bệnh truyền nhiễm
hoặc trúng độc.
Chất nôn lẫn phân: do ruột già bị tắc.
Ngoài ra chất nôn có thể lẫn cả kí sinh trùng và dị vật.
VI. Khám miệng
Khám miệng rất có ý nghĩa. Các bệnh viêm miệng, viêm hầu, lở mồm long móng, bệnh
đậu... qua khám miệng có thể chẩn đoán được.
Khám miệng thường dùng phương pháp nhìn, sờ, ngửi. Nhìn có thể bằng ánh sáng tự
nhiên hoặc dùng đèn chiếu.
Khi khám cần chú ý độ khít của môi trên và môi dưới, ôn độ, độ ẩm, mùi trong miệng,
những mụn nước, màu sắc niêm mạc, răng, lưỡi...
1. Chảy dãi: do trở ngại nuốt, do viêm tuyến nước bọt, hoặc do thức ăn kích thích.
2. Môi: gia súc khoẻ, lúc đứng hai môi ngậm chặt. Môi ngậm chặt, không mỏ ra được
gặp trong bệnh viêm màng não hay uốn ván. Môi sưng có thể do trấn thương cơ học, hoặc do
viêm cục bộ.
3. Mùi trong miệng: phản ánh quá trình bệnh lý. Ở bò, miệng có mùi xetol thường do
chứng xetol huyết (cetonic). Mùi thối do viêm chân răng, do loét miệng, viêm họng, hoặc do
thức ăn tích lại lâu ngày thối rữa.
4. Ôn độ miệng.
Ôn độ miệng tăng cao khi con vật sốt, viêm miệng, viêm hầu.
Ôn độ miệng thấp: khi con vật thiếu máu, suy nhược, sắp chết.
5. Độ ẩm: miệng khô trong các trường hợp ỉa chảy lâu ngày, sốt, đau bụng.
6. Niêm mạc miệng: có mụn nước trong bệnh lở mồm long móng; ở vịt, niêm mạc có
màng giả gặp trong bệnh dịch tả vịt; ở gà, niêm mạc có mụn trong bệnh đậu gà.
7. Khám lưỡi
Gia súc khoẻ bựa lưỡi rất ít. Nếu bựa lưỡi xuất hiện nhiều chứng tỏ gia súc có bệnh: sốt
cao, tắc ruột, viêm dạ dày, ruột...
Lưỡi sưng: có thể do nấm xạ khuẩn (actyomyces), hoặc do các nguyên nhân cơ học như
đinh, gai...
Lưỡi bị tróc ra từng mảng hoặc có mụn: trong bệnh lở mồm long móng.
Lưỡi thò ra ngoài: có thể con vật bị khó thở nặng. Gặp trong bệnh tụ huyết trùng, nấm
xạ khuẩn, khi con vật sắp chết.
8. Khám răng
91
Chú ý độ mòn của răng, tình trạng của chân răng.
VII. Khám họng và thực quản
1. Khám họng.
1.1. Khám bên ngoài: nếu thấy cổ vươn về trước, khó nuốt thức ăn, thức ăn trào ra
miệng, mũi thì có thể con vật bị viêm họng.
Sờ nắn họng thấy sưng, nóng, gia súc có cảm giác đau là con vật bị viêm họng, viêm
hạch lâm ba vùng hầu họng. Có thể do bệnh lao hạch, tụ huyết trùng hoặc nấm xạ khuẩn.
1.2. Khám trong: thực hiện khi có dụng cụ mở miệng.
2. Khám thực quản.
2.1. Nhìn thực quản: nếu nhu động của thực quản bất thường, thực quản nổi cục là bệnh
lý, có thể bị tắc hoặc liệt thực quản.
2.2. Sờ nắn thực quản: nếu viêm thực quản, tắc thực quản thì sờ nắn có thể phát hiện ra.
2.3. Thông thực quản: dùng để chẩn đoán tắc thực quản và để điều trị bệnh.
Cách thông:
Trâu, bò, ngựa: dùng ống thông bằng cao su dài khoảng 2 - 3 mét, đường kính trong
khoảng 8 milimét, đường kính ngoài khoảng 18 milimét.
Lợn: dùng ống thông dài khoảng 95 cm, đường kính ngoài khoảng 12 milimét.
Các loại gia súc ta cho ống thông vào miệng; riêng ngựa cho ống thông qua mũi. Để
biết ống thông có đúng thực quản hay không cần chú ý: khi ống thông vào đến hầu sẽ có động
tác nuốt, không ho, có hằn ống thông ở thực quản, không có khí ra theo ống (nhúng đầu ngoài
ống thông vào một chậu nước, nếu không có bong bóng sùi ra là được).
Trong trường hợp hẹp, tắc thực quản thì đẩy ông thông khó khăn, khi viêm thực quản
thì con vật kêu la dữ dội.
VIII. Khám diều (gia cầm)
Diều gia cầm là chỗ phình ra của thực quản, nằm hơi lệch về phía phải.
Diều phình to: gặp trong bệnh truyền nhiễm Newcastle; hoặc do kí sinh trùng ở diều.
IX. Khám vùng bụng.
Dùng phương pháp nhìn, sờ nắn, gõ và nghe để khám từ bên ngoài tới các khí quan bên
trong xoang bụng để chẩn đoán bệnh.
1. Quan sát vùng bụng.
Chú ý thể tích, hình thái, độ đầy của hõm hông và những chỗ lồi lõm khác trên mặt
bụng. Trạng thái vùng bụng khác nhau ở các loài gia súc và còn phụ thuộc vào thức ăn, độ
béo, gầy của từng cá thể.
a) Thể tích vùng bụng to:
- Do tích thức ăn đầy dạ dày, ruột. Ở trâu, bò thường bị bội thực dạ cỏ; ngựa tích thức
ăn ở manh tràng (gõ có âm đục).
- Do tích khí trong dạ dày, ruột (bụng căng và có âm trống).
92
- Do tích nước: vì một nguyên nhân nào đó mà nước hay dịch rỉ viêm tích lại nhiều
trong xoang bụng gây bụng to; cũng có khi do ký sinh trùng, báng nước. Khi chọc dò sẽ có
dịch chảy ra.
Bùng phình to còn gặp khi con vật có chửa, tắc bàng quang.
b) Vùng bụng bé lại:
- Do bị ỉa chảy lâu ngày, con vật bị bỏ đói
- Do mắc các bệnh truyền nhiễm mãn tính.
2. Sờ nắn vùng bụng.
Trâu, bò: sờ nắn để khám dạ cỏ; sờ nắn bên ngoài hoặc qua trực tràng.
ngựa: sờ nắn qua trực tràng.
Tiểu gia súc: thành bụng nhỏ nên sờ bên ngoài dễ hơn.
X. Khám dạ dày loài nhai lại.
Gồm dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế
Khi mới sinh dạ múi khế to nhất, sau đó dạ cỏ phát triển mạnh và to hơn dạ múi khế gấp
nhiều lần.
Dạ cỏ không có tuyến tiêu hoá nhưng nhờ hệ vi sinh vật và nhờ quá trình nhu động, kết
hợp với dạ tổ ong đẩy thức ăn lên nhai lại, mà quá trình tiêu hoá thức ăn ở dạ cỏ rất phong
phú.
1. Khám dạ cỏ.
Chức năng vận động, tiêu hoá của dạ cỏ liên quan mật thiết đến toàn thân và đến các túi
dạ dày còn lại và ngược lại. Bệnh ở toàn thân, sốt cao, bệnh ở dạ múi khế, lá sách, tổ ong
cũng phần nào ảnh hưởng đến dạ cỏ.
1.1. Nhìn: nhìn có thể phát hiện được triệu chứng con vật bị chướng hơi, thể hiện bằng
hõm hông trái căng to. Ngược lại nếu hõm hông trái lõm xuống là do con vật bị đói, bị ỉa chảy
mãn tính.
1.2. Sờ nắn dạ cỏ: biết được nhu động, tính chất và số lượng thức ăn chứa trong dạ cỏ.
Đứng bên trái gia súc, dùng đầu ngón tay ấn vào hõm hông từ nhẹ đến mạnh. Nếu dạ cỏ
đầy hơi thì hõm hông căng cứng, ấn tay không để lại vết lõm; nếu vừa ăn xong hoặc bội thực
dạ cỏ thì ấn tay để lại vết lõm.
1.3. Nghe nhu động dạ cỏ: dạ cỏ co bóp và thức ăn chuyển động tạo thành tiếng như
sấm dội từ xa, nghe to dần, rồi lại nhỏ dần.
Lúc đói nhu động dạ cỏ yếu, sau khi ăn 2 giờ thì nhu động mạnh nhất và kéo dài 4 - 6
giờ.
Gia súc khoẻ, số lần nhu động trong 2 phút như sau:
Trâu, bò: 2 - 5 lần; dê: 2 - 4 lần; cừu: 3 - 6 lần.
Thường phải tính nhu động trong 5 phút, sau đó lấy kết quả trung bình.
- Nhu động dạ cỏ giảm: gặp trong các bệnh liệt dạ cỏ, dạ cỏ tích thực, các bệnh truyền
nhiễm nặng, đầy hơi cấp tính, viêm màng bụng, lúc con vật sắp chết.
93
- Nhu động dạ cỏ tăng: gặp ở giai đoạn đầu của bệnh chướng hơi dạ cỏ, con vật bị trúng
độc, bị tiêm thuốc kích thích nhu động dạ cỏ.
1.4. Gõ dạ cỏ: gõ vào hõm hông bên trái. Bình thường gõ có âm bùng hơi ở phía trên,
âm đục tương đối ở giữa, âm đục tuyệt đối ở dưới.
- Gõ chỉ thấy âm bùng hơi: do dạ cỏ bị chướng hơi; trường hợp nặng thậm chí có âm
kim thuộc.
- Gõ chỉ thấy âm đục: do bội thực dạ cỏ
Ngoài những phương pháp trên, còn dùng áp kế để đo áp lực trong dạ cỏ, tức là để kiểm
tra chức năng co bóp của dạ cỏ.
Dùng ống thông dạ dày 1 đầu có gắn bóng cao su luồn vào dạ cỏ theo đường miệng, đầu
còn lại nối với một áp kế. Bơm đầy khí vào hệ thống trên, sau đó quan sát sự chuyển động và
thời gian chuyển động của kim. ở gia súc khoẻ, lực co bóp của dạ cỏ đo được là 40 - 60
mmHg.
1.5. Kiểm tra chất chứa trong dạ cỏ.
Lấy chất chứa trong dạ cỏ qua ống thông dạ dày sau lúc ăn từ 2 - 2,5 giờ. Nếu gia súc
bỏ ăn thì không kiểm tra chất chứa trong dạ dày. Mỗi lần kiểm tra lấy khoảng 10 ml chất
chứa.
- Màu sắc chất chứa: nếu chất chứa có màu cà phê, màu gạch thì có thể bị xuất huyết dạ
cỏ; chất chứa màu xanh thường chỉ do thức ăn.
- Mùi chất chứa chua, thối: do thức ăn bị tích lại lâu ngày trong bệnh liệt dạ cỏ.
- Độ axít: bình thường pH dạ cỏ vào khoảng 6,8 - 7,4; độ axit tổng số khoảng 0,6 - 9,2
đơn vị. Lúc dạ dày có bệnh, độ axit nghiêng về toan, độ axit tổng số có thể lên tới 30 - 40 đơn
vị.
Khi cần thiết có thể kiểm tra chất chứa qua kính hiển vi: ở bò số lượng thảo phúc trùng
vào khoảng 200.000 - 500.000/ml chất chứa, hình thái to nhỏ không đều, trên một vi trường
có thể thấy 15 - 20 thảo phúc trùng. Nếu thức ăn không cân đối, dạ cỏ có bệnh, độ pH giảm
xuống 6,6 hoặc tăng cao hơn 7,6 thì số lượng thảo phúc trùng giảm hẳn, thậm chí biến mất.
2. Khám dạ tổ ong.
Khám dạ tổ ong chủ yếu là kiểm tra cảm giác đau của gia súc.
Bệnh chủ yếu ở dạ tổ ong là đầy hơi do kế phát từ chướng hơi dạ cỏ, viêm dạ tổ ong do
ngoại vật.
đặc điểm của gia súc nhai lại là dùng lưỡi vơ thức ăn, lưỡi lại bị sừng hoá nên cảm giác
với dị vật rất kém. Do vậy mà chúng ăn luôn cả dị vật vào chứa trong dạ cỏ, sau đó dạ cỏ co
bóp, nếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_chan_doan_benh_thu_y_phan_2.pdf