Thấy ở Phong quan là chứng Cam tích.
Thấy ở Khí quan là sẽ nôn mửa nhiều.
Thường thường, chỉ tay của trẻ khỏe mạnh, không thấy rõ, nếu có thấy
chỉ thấy ở gần hổ khẩu hoặc ở Phong quan thôi, tuy nhiên, chỉ thường nhỏ
ngắn và không uốn khúc 1 cách rõ ràng, nếu có rẽ nhánh cũng chỉ rẽ nhánh
đơn giản thành 2 nhánh mà thôi. Ở trẻ nhỏ, nếu chỉ tay thấy rõ, dù bất cứ ở
hình thức nào thường là trẻ đang bệnh.
Chỉ tay rẽ nhánh hoặc uốn khúc hay gặp trong trường hợp trúng độc
nghiêm trọng, đặc biệt có dấu hiệu rối loạn chức năng thần kinh hoặc hô
hấp. Trẻ lên cơn động kinh hoặc co giật thường thấy chỉ tay uốn khúc. Trẻ bị
sốt cao, chỉ tay xuất hiện càng rõ. Sốt càng cao, hình chỉ tay càng rẽ nhiều
nhánh hoặc càng uốn khúc nhiều.
Có thể tạm nhận rằng yếu tố chính tạo nên hình thái chỉ tay ở trẻ nhỏ
là do có sự rối loạn Trung tâm điều hòa thân nhiệt hoặc do có biến đổi trạng
thái sinh lý, bệnh lý của các hệ tuần hoàn, hô hấp và dinh dưỡng gây nên.
60 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Chẩn đoán học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EM LƯỠI (THIỆT CHẨN)
Lưỡi là 1 tổ chức cấu tạo bởi nhiều cơ trơn hợp thành. Các lớp niêm
mạc, nhất là phía trên lưỡi, tạo thành rêu lưỡi. Các dây thần kinh mạch máu
và các nhú dạng chỉ (Pulpilae Folifermis) của lưỡi rất nhậy, do đó các thay
đổi chức năng tiêu hóa, thể dịch tình trạng cơ thể... có thể phản ánh nhanh
chóng qua lưỡi. Vì vậy, quan sát lưỡi cũng có thể chẩn đoán bệnh khá
chính xác và độc đáo.
9.1.- Về hình thể
Lưỡi được phân chia như sau :
- Đầu lưỡi thuộc Tâm.
- Cuống lưỡi thuộc Thận.
- Giữa lưỡi thuộc Tỳ.
- 2 bên rìa lưỡi thuộc Can.
Thí dụ :
+ Thấy đầu lưỡi lở dộp, có thể nghĩ đến hỏa của tâm vượng.
+ Cuống lưỡi sưng, cuống lưỡi lở là dấu hiệu hỏa của thận vượng.
+ Giữa lưỡi xám đen là dấu hiệu thủy của Tỳ suy.
9.2.- Màu sắc và chất lưỡi
Xem lưỡi, thường tập trung vào chất lưỡi và rêu lưỡi.
a) Lưỡi bình thường :
- Chất lưỡi hồng nhạt do màng lưới các mạch máu vận chuyển trong
lớp cơ và trong lớp dưới niêm mạc lưỡi làm cho lưỡi đỏ hồng.
- Rêu lưỡi trắng mỏng : do lớp nhú dạng chỉ với lớp thượng bì bị sừng
hóa, thêm những vi khuẩn xen lẫn với thức ăn vụn nát, những mảnh tế bào bị
hủy hoại và nước miếng do tuyến nước miếng tiết ra, tạo thành chất lưỡi
trắng mỏng.
b) Các biến đổi :
b1.- Màu sắc :
- Trắng bệch : liên hệ đến hiện tượng thiếu máu, mao mạch máu bị co
lại, huyết dịch giảm sút, dòng máu lưu thông kém, gây phù... Thường có liên
hệ với hàn chứng, hư chứng, dương khí suy nhược, khí huyết không đủ.
- Xanh tím : liên hệ ứ máu tĩnh mạch hoặc thiếu oxy trong hồng cầu.
Nếu do nhiệt, chất lưỡi xanh tím nhiều, lưỡi khô, ít tân dịch. Nếu do hàn,
chất lưỡi xanh tím nhưng ướt tươi. Nếu ứ huyết thì có kèm theo các vết ban
hoặc điểm ứ huyết.
- Đỏ : Thuộc nhiệt, do thực nhiệt hoặc hư nhiệt gây nên. Nếu đỏ tím là
do nhiệt tà quá thịnh, đã vào phần dinh huyết và huyết, ở bệnh nhân mãn
tính là do âm hư hỏa vượng, tân dịch bị giảm nhiều.
- Khô ráo : do nước miếng bài tiết ra bị giảm sút. YHHĐ cho là do hệ
thần kinh giao cảm hoạt động mạnh hoặc do hoạt động của hệ Đối giao cảm
yếu làm cho tình trạng tiết nước miếng bị giảm sút gây ra chất lưỡi khô ráo.
YHCT cho là do nhiệt tà quá thịnh, đốt cháy làm khô tân dịch.
- Có vết nứt : do các nhú dạng chỉ của lưỡi chỗ thì dính, chỗ thì tách
rời nhau, gây ra kẽ nứt. Cũng có khi do niêm mạc lưỡi co rút lại gây ra nứt.
Thường gặp trong các chứng bệnh nhiệt thịnh đã vào phần lý, dinh, huyết.
b2.- Về hình dáng :
- Phù nề : thuộc Thực chứng, nhiệt chứng, nếu phù 2 bên thường do
hư hàn hoặc do đàm thấp kết lại tràn lên.
- Sưng tụ : màu trắng nhạt : do Tỳ và Thận dương hư, chất lưỡi hồng
đỏ, do thấp nhiệt bên trong, nhiệt độc mạnh.
b3.- Về cử động của lưỡi :
- Cứng không chuyển động được : do bệnh nhiệt, hôn mê, sốt cao làm
tổn thương tân dịch, trúng phong.
- Lệch : do trúng phong.
- Run : do Tâm Tỳ khí huyết hư.
- Rụt ngắn : dấu hiệu bệnh nguy hiểm.
- Lưỡi thè ra ngoài : do Tâm Tỳ có nhiệt hoặc bệnh bẩm sinh phát dục
kém ở trẻ em.
c) Xem rêu lưỡi :
- Màu sắc :
c1.- Rêu trắng : thuộc về hàn chứng và biểu chứng.
c2.- Rêu lưỡi vàng : thuộc nhiệt chứng, lý chứng. Do lưỡi bị viêm tại
chỗ, phản ứng tiết dịch do có sự tác động của cầu khuẩn vàng xuất hiện ở
lưỡi tạo nên.
c3.- Rêu lưỡi đen : thường là bệnh nặng. Nếu đen mà khô là do nhiệt
thịnh làm tổn thương tân dịch. Do vi khuẩn sinh sôi nẩy nở làm sừng hóa tế
bào. Thường gặp trong chứng sốt cao gây mất nước, bệnh viêm nhiễm lâu
ngày dùng kháng sinh lâu ngày làm tối loạn chức năng tiêu hóa ở bao tử,
ruột...
- Tính chất :
c4.- Rêu lưỡi dầy : Tà khí đã vào trong hoặc tích trệ ở trong. Đang
bệnh, ăn uống kém hoặc chỉ uống chất lỏng khiến tác động cọ sát kém, hoặc
do sốt cao mất nước, nước miếng tiết ra bị giảm sút.
c5.- Rêu lưỡi mỏng : hay gặp ở bệnh còn ở biểu, ngoại cảm. Rêu lưỡi
từ mỏng biến sang dầy là bệnh nặng lên, từ biểu đi vào lý.
c6.- Rêu lưỡi ướt : biểu hiện tân dịch chưa bị tổn thương, rêu lưỡi ướt
trơn là do thủy thấp ứ lại bên trong.
c7.- Rêu lưỡi khô : biểu hiện tân dịch bị hao tổn. Ngoài ra, nếu thấp tà
tụ lại bên trong không sinh ra tân dịch cũng gây khô lưỡi.
9.3.- Biểu Hiện Lâm Sàng Giữa Lưỡi Và Bệnh
Theo tạp chí Medical News (Anh), số 30/1980, bác sĩ Tống Nam
Đình, trường trung cấp y tế Thượng Hải I, qua quan sát kỹ lưỡng nhiều
người bệnh đã đưa ra quan hệ giữa lưỡi và bệnh tật như sau :
- Chất lưỡi đỏ sẫm hoặc xanh tím, rêu lưỡi vàng dầy hoặc xám tro :
bệnh nặng.
- Nơi người bị phỏng, diện tích phỏng càng rộng, mức phỏng càng
rộng thì chất lưỡi chuyển sang đỏ hồng càng nhanh càng rõ... Phỏng mà kèm
nhiễm khuẩn máu thì lưỡi đỏ sẫm và khô ráo.
- Chất lưỡi trắng bệch : gặp ở bệnh mãn tính, bệnh tiến triển chậm,
kéo dài.
- Rêu lưỡi vàng : hay gặp ở bệnh nhiễm khuẩn máu do tụ cầu và liên
cầu, do đó có thể chẩn đoán là chứng thực nhiệt (thổ vượng do hỏa vượng).
- Lưỡi sáng bóng, không rêu : bệnh nhiễm khuẩn do trực khuẩn mủ
xanh.
- Lưỡi đỏ, sáng bóng : gặp ở giai đoạn cuối của Ung thư.
- Lưỡi đỏ sáng bóng lại thêm vết loét ở mặt lưỡi : nguy kịch sắp chết.
- Lưỡi âm hư (chất lưỡi đỏ sẫm, thân lưỡi hao sút, lưỡi khô có vết nứt,
có trường hợp sáng bóng, có trường hợp 2 bên đầu lưỡi nổi gai đỏ, giai đoạn
cuối của bệnh (thường sáng bóng như gương toàn lưỡi) : bệnh cảm nhiễm
nặng, bệnh có khối u ác tính, cường tuyến giáp trạng (Bướu cổ lồi mắt),
bệnh tổn thương ở gan, phổi.
- Ruột dư viêm cấp : rêu lưỡi nhờn. (Trên thực tế lâm sàng, có thể dựa
dựa trên quan sát lưỡi để đánh giá mức phát triển của bệnh ruột dư viêm cấp)
:
+ Qua điều trị, nếu rêu lưỡi dầy, nhờn chuyển sang trắng mỏng là triệu
chứng tốt, bệnh thuyên giảm, chiều hướng thuận lợi.
+ Qua điều trị : dù các triệu chứng có lui bớt nhưng rêu lưỡi vẫn thấy
nhờn như cũ, không có gì thay đổi cả thường là bệnh không biến chuyển
hoặc có khi bệnh bên trong đang trên đà phát triển.
- Gan viêm nặng : lưỡi đỏ sẫm, khô, ít ướt, rêu lưỡi dầy nhờn hoặc
khô ráo, vàng hoặc đen. Viêm càng nặng, tiến triển càng xấu, càng thấy
trạng thái lưỡi rõ ràng đậm nét hơn. Có trường hợp chỉ thấy lưỡi láng bóng,
không rêu.
- Xơ gan : dù trước kia có chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng
nhưng bỗng thấy chuyển sang màu đỏ sẫm mà sáng bóng thường là nặng.
- Ung thư gan : Rêu lưỡi có 2 vùng xanh, bầm tím.
- Bệnh nhồi máu cơ tim : lưỡi trở nên bầm tím từng phần, các tĩnh
mạch dưới lưỡi biến đổi trạng thái dãn tĩnh mạch. Thường quan sát thấy lưỡi
bị trắng, sau 4-5 ngày lớp màng trắng đó sít lại và trở nên đen.
- Ung thư thực quản : lưỡi trở nên bầm tím và 67% trường hợp do tế
bào bị tróc ra nên dễ phát hiện được những thay đổi bệnh lý.
- Tiêu cầu thận viêm : trên lưỡi xuất hiện 1 lớp đen xám.
- Cũng theo tác giả, những bệnh thường làm lưỡi thay đổi là bệnh tim,
bao tử viêm, loét, phổi viêm, bướu cổ, lồi mắt, đái tháo đường, ruột dư viêm
cấp.
BẢNG TÓM TẮT VỀ CÁCH XEM LƯỠI (THIỆT CHẨN)
Trạng
thái Chất lưỡi
Lưỡi, rêu lưỡi Chứng
bệnh tương
ứng
Trắng
mỏng
Cảm phong hàn ở Biểu hoặc ở
người khỏe
Trắng
mỏng
Dương hư, khí huyết đều hư
Không
rêu
Dương suy ở bệnh mãn, khí
huyết suy
Trắng
và mỏng kèm
theo vết nứt
Khí huyết hư, Vị âm không đủ
Vàng và
nhờn
Tỳ vị hư nhược, Thấp nhiệt ứ
đọng
Xám tro
và trơn
Dương hư gây nội hàn, Đàm thấp
ứ đọng
Rêu Cảm phong nhiệt ở Biểu, Tâm
trắng, đầu lưỡi
hồng
hỏa vượng
Trắng
và nhờn
Đàm ẩm, Thấp trọc, Tích trệ về
ăn uống
Trắng
và cáu bẩn
Đàm ẩm ứ đọng bên trong, Uế
trọc trong vị sinh nhiệt
Trắng
dầy như đắp
phấn
Giai đoạn đầu của bệnh ôn dịch
hoặc có ung nhọt bên trong
Vàng
mà khô ráo
Bệnh lâu ngày, huyết ráo, khô
tân dịch
Vàng Thấp nhiệt ở trong, Đàm trọc ứ
mà nhờn đọng bên trong gây ra nhiệt
Trắng Nhiệt từ phần vệ chuyển vào
phần khí
Vàng và
mỏng
Nhiệt vượng ở phần khí
Vàng và
nhờn
Thấp nhiệt ở phần khí
Vàng
mà dầy và khô
Nhiệt tà xâm nhập sâu vào trong
gây ra chứng Lý thực
Không
có rêu
Phần khí và âm đều suy
Vàng
sẫm
Nhiệt uất kết ở trong trường Vị
Đen và
khô
Lý thực, cực nhiệt hại đến phần
âm
Không
có rêu
Nhiệt xâm nhập phần huyết, âm
hư, hỏa vượng
Vàng
mà ráo
Âm huyết khô ráo, hư hỏa nung
nấu bên trong
Trắng
mà nhuận
Khí huyết ngưng trệ, Nội hàn
trầm trọng
10. XEM MẶT (DIỆN CHẨN)
Mặt cũng là 1 trong số các vùng phản chiếu của cơ thể, do đó qua
khuôn mặt cũng có thể phần nào đoán biết được bệnh tật ở các cơ quan tạng
phủ tương ứng.
VÙNG PHẢN CHIẾU
TRÊN MẶT
BỘ PHẬN CƠ QUAN
TRONG CƠ THỂ
Trán Đầu não
Lông mày Cánh tay, vai
Sơn căn Cổ gáy
Sống mũi Cột sống
2 bên sống mũi Tuyến giáp, thận
Mi mắt trên Mắt, thận dương
Mi mắt dưới Thận âm
Gò má Tim, Nhũ hoa
Má Phổi, Gan, Bao Tử, Lách,
Mật, Amidal
Nếp nhăn 2 bên mũi (Pháp
lệnh)
Hoành cách mô, Sườn
Cánh mũi Mông, Thần kinh tọa
Nhân trung Ruột già, Tử cung, Bộ sinh
dục
Bờ môi trên Dịch hoàn, Buồng trứng,
Đùi, Háng
Bờ môi dưới (cằm) Ruột non, Bọng đái, Bụng
dưới, Cổ chân, Bàn chân
Mép miệng Nhượng chân, Đầu gối, Bắp
chân
2 bên cánh mũi đến giáp tai Cánh tay
Thí dụ : Thấy dùng hiệu báo bệnh xuất hiện ở vùng lông mày, có thể
chẩn đoán cánh tay có trục trặc. Phía trên Nhân trung có dấu hiệu báo bệnh,
là Ruột già hoặc bộ sinh dục có trục trặc...
11. XEM TAY CHÂN
Xem tay chân thường chú ý đến :
a) Hình dáng : Ngón tay dùi trống (dấu hiệu Hypocrate) thường gặp
nơi người Xơ gan cổ trướng, bệnh Tim...
b) Màu sắc : nhất là ở các móng tay; màu xanh tím thường gặp nơi
người suy hô hấp, suy tuần hoàn nặng...
c) Vân tay : Bình thường không thay đổi, tuy nhiên, có 1 vài sự cấu
tạo đáng chú ý.
+ Theo các nhà nghiên cứu Liên Xô, nơi người bệnh loét hành tá tràng
thường có sự thay đổi nơi vân tay ngón trỏ (ngón thứ 2).
+ Allan Park, dựa trên công trình nghiên cứu về di truyền học cho
thấy :
- Dạng vân thắt nút (noeud) thường thấy nơi người bị bệnh tim bẩm
sinh.
- Dạng xoáy ốc (volute) hay gặp nơi người có hội chứng Turner (vóc
người bé, ngực bé, cổ tử cung hẹp).
- Dạng cánh cung (Arche) hay gặp ở người mắc hội chứng Kleinfelter
(tinh hoàn kém phát triển, ngực có phần hơi đàn bà)...
12. CHỈ TAY Ở TRẺ EM
Chỉ tay ở đây là tĩnh mạch nhỏ tại ngón tay trỏ, chỗ
giáp thịt đỏ trắng, gần gốc xương ngón tay trỏ, gọi là cách
xem "Hổ khẩu" (vì có hình dáng giống miệng con cọp).
Xem hổ khẩu là xem xét hình dáng chỉ tay, tức hình
tĩnh mạch nông (Vense digitalis palmares) ở dưới da ngón trỏ của bàn tay.
Lớp da trẻ nhỏ còn non, mỏng, do đó tĩnh mạch nông dễ nổi và dễ nhận thấy.
Dựa vào sự biến đổi vị trí, màu sắc và hình thái của các chỉ tay này, có thể
chẩn đoán và tiên lượng bệnh của trẻ em.
Cách xem Hổ khẩu trẻ em : Để ngửa ngón tay trỏ lên, vuốt nhẹ vài lần
từ gốc ngón tay trỏ lên xuống, sẽ thấy hiện ra chỉ tay của trẻ, chỗ giáp ranh
thịt trắng đỏ của ngón tay trỏ.
Theo y học cổ truyền ngón tay trỏ được chia ra 3 phần : mỗi phần
tương ứng với 1 đốt lóng ngón tay :
- Lóng cuối cùng, giáp bàn tay, gọi là Phong Quan.
- Lóng thứ 2, lóng giữa gọi là Khí Quan.
- Lóng trên cùng gọi là Mệnh Quan.
Cũng theo Y gia cổ xưa thì :
- Chỉ tay xuất hiện Phong Quan là bệnh nhẹ.
- Ở Khí quan là bệnh nặng.
- Ở Mệnh quan là bệnh nặng, trầm trọng và nguy hiểm đến tính mạng.
Y học hiện đại, với phương pháp dùng kính soi mao quản
(Capillaroscopy) phát hiện được rất rõ màu sắc và hình thái các quai mao
quản ở vùng chân móng tay. Bình thường các quai mao quản ở vùng chân
móng tay có ít và đáy màu hồng, khi số lượng các quai mao quản tăng nhiều
lên, tĩnh mạch dãn to ra, máu lưu thông kém, trở thành ứ đọng, đáy đổi thành
màu xanh tím. Trong trường hợp tim suy kém quá, áp lực tĩnh mạch càng
cao, các quai mao mạch càng nhiều, tĩnh mạch càng dãn rộng, đáy trở thành
tím đen, 1 dấu hiệu thiếu oxy trầm trọng của cơ thể (hay gặp trong Suy tim
giai đoạn 3).
Phương pháp xem Hổ khẩu của YHCT cũng gần giống phương pháp
xem quai mao mạch của YHHĐ, nhất là trong trường hợp trẻ bị bệnh nặng.
Thường trẻ bị bệnh nặng, trong hội chứng suy tim và suy hô hấp đều
có chỉ tay hiện rõ suốt 3 đốt ngón tay (lên đến Mệnh quan) và đều có màu
xanh đen, tím tía là biểu hiện thiếu oxy trầm trọng trong máu. Nơi trẻ bệnh
nặng, máu ở các tĩnh mạch nông bị trì trệ nên nhìn rất rõ.
Lưu ý :
a) Khi trẻ vừa được chữa khỏi bệnh (như đang ngạt được cho thở oxy
nhân tạo), chỉ tay rút từ trên xuống dưới. Nhiều trẻ bệnh nguy kịch khó thở
trầm trọng, chỉ tay đã lên đến Mệnh quan, nguy cơ đến tính mạng, khi được
tích cực cứu chữa, vừa khỏi bệnh, chỉ tay từ Mệnh quan rút xuống Khí quan
hoặc Phong quan. Như vậy dấu hiệu RÚT XUỐNG là dấu hiệu rất quan
trọng trong việc theo dõi quá trình trị liệu.
b) Hiện tượng chỉ tay có dấu hiệu màu đen, xanh tím... dù đã lên đến
Mệnh quan cũng không phải là dấu hiệu xấu, báo trước cái chết không thể
tránh được như các y gia xưa quan niệm. Nên hiểu rằng đó là hiện tượng
bệnh trầm trọng, cần chú ý theo dõi và điều trị tích cực. Nếu được điều trị
tích cực và thích hợp, vẫn có khả năng cứu sống, nhất là đối với những
phương tiện cấp cứu hiện đại.
c) Phân loại và ý nghĩa các loại dạng chỉ tay :
Theo "Báo Cáo Tiểu Nhi Chỉ Văn Đích Nghiên Cứu" đăng trong
Trung y tạp chí số 6/1980 trang 43-47 và theo BS. Lê Nguyên Khánh, trong
cuốn "Kết hợp YHCT với YHHĐ trong lâm sàng" Nxb Y học 1984, trang
251-252, chỉ tay của trẻ em được phân thành 6 loại :
1.- Loại chỉ tay nhỏ và ngắn, không chia nhánh, không uốn khúc, chỉ
thấy ở Hổ khẩu và Phong quan.
2.- Loại chỉ tay chạy thẳng : không chia nhánh, không uốn khúc, chạy
thẳng lên Khí quan hoặc Mệnh quan; gồm loại hình "Mũi kim treo" và "hình
Giáo mác"
+ Hình Mũi kim treo : Thấy ở Khí quan biểu hiện Can nhiệt. Thấy ở
Mệnh quan biểu hiện "Mạn Tỳ, tức Tỳ khí" suy sụp, dễ lâm vào tình trạng
hiểm nghèo.
+ Chỉ tay Hình Giáo mác : biểu hiện "Đờm nhiệt" gây kinh phong, dễ
phát sinh co giật .
3.- Loại chỉ tay Rõ nhánh Đơn giản : Chỉ mới rẽ thành 2 nhánh giống
hình "xương cá" hoặc 2 "móc câu".
+ Hình Xương cá : ở Phong quan là dấu hiệu kinh phong. ở Khí quan
là dấu hiệu hư lao.
+ Hình 2 Móc câu : biểu hiện Tỳ hư, khí trệ, bị tích trệ do ăn phải đồ
ăn sống lạnh.
4.- Loại chỉ tay rẽ thành nhiều nhánh : rẽ quá 2 nhánh trở lên, gồm chỉ
tay hình chữ Thủy hoặc chữ Song.
+ Hình chữ Thủy : thấy ở Phong quan, dấu hiệu kinh phong, đờm
ngăn ở ngực, tích tụ.
+ Hình chữ Song : biểu hiện bị trướng tích do ăn nhằm đồ độc, dễ gây
kinh phong.
5.- Chỉ tay uốn khúc : uốn khúc nhiều hay ít, to hay nhỏ, có quy luật
hoặc không có quy luật, bao gồm các hình : "Trùng rối loạn" và " Rắn bò
đến".
- Chỉ tay hình trùng rối loạn : dấu hiệu bệnh Cam tích, giun sán.
- Chỉ tay hình rắn bò đến : biểu hiện tạng phủ có tích trệ về khí, dễ
sinh oẹ khan.
6.- Loại chỉ tay giáp vòng : rẽ nhiều nhánh và uốn khúc mạnh thành
khép vòng. Gồm các loại hình : "Hạt Châu Trôi" và hình "Vòng quanh".
+ Chỉ tay hình Hạt châu trôi : chỉ tay như chấm độ, biểu hiện Tam tiêu
nóng làm cho trẻ bứt rứt, kêu khóc.
+ Chỉ tay hình vòng quanh :
Thấy ở Phong quan là chứng Cam tích.
Thấy ở Khí quan là sẽ nôn mửa nhiều.
Thường thường, chỉ tay của trẻ khỏe mạnh, không thấy rõ, nếu có thấy
chỉ thấy ở gần hổ khẩu hoặc ở Phong quan thôi, tuy nhiên, chỉ thường nhỏ
ngắn và không uốn khúc 1 cách rõ ràng, nếu có rẽ nhánh cũng chỉ rẽ nhánh
đơn giản thành 2 nhánh mà thôi... Ở trẻ nhỏ, nếu chỉ tay thấy rõ, dù bất cứ ở
hình thức nào thường là trẻ đang bệnh.
Chỉ tay rẽ nhánh hoặc uốn khúc hay gặp trong trường hợp trúng độc
nghiêm trọng, đặc biệt có dấu hiệu rối loạn chức năng thần kinh hoặc hô
hấp. Trẻ lên cơn động kinh hoặc co giật thường thấy chỉ tay uốn khúc. Trẻ bị
sốt cao, chỉ tay xuất hiện càng rõ. Sốt càng cao, hình chỉ tay càng rẽ nhiều
nhánh hoặc càng uốn khúc nhiều.
Có thể tạm nhận rằng yếu tố chính tạo nên hình thái chỉ tay ở trẻ nhỏ
là do có sự rối loạn Trung tâm điều hòa thân nhiệt hoặc do có biến đổi trạng
thái sinh lý, bệnh lý của các hệ tuần hoàn, hô hấp và dinh dưỡng gây nên.
XEM Ở CHÂN
Theo các nhà nghiên cứu, chân cũng là 1 bộ phận phản chiếu của cơ
thể, nhất là lòng bàn chân. Theo BS, Cerney, Carter và Ingham cơ thể con
người được biểu hiện và phản chiếu toàn bộ trong lòng bàn chân. Đầu ở
ngón chân cái, tạng phủ chủ yếu ở lòng giữa bàn chân... (Về chi tiết, xin xem
thêm ở tập Túc châm)... do đó, có thể dựa vào những thay đổi về hình thái,
cường độ, điện trở... ở lòng bàn chân để có thể biết được trạng thái bệnh lý ở
cơ quan tạng phủ tương ứng.
- Các nhà nghiên cứu Mỹ cho biết : Những người mắc bệnh đái tháo
đường thường có vân hình tròn ở ngón chân thứ 2 và hình tam giác ở dưới
bụng ngón chân cái...
Tóm lại : phạm vi của vọng chẩn rất lớn, tuy nhiên trên lâm sàng,
không nhất thiết phải áp dụng cùng lúc tất cả mọi phương pháp vừa đề ra
nhưng nếu điều kiện có thể được, nên phối hợp vài phương pháp khác nhau
để việc chẩn đoán mang lại hiệu quả và chính xác hơn.
2.- VĂN (NGHE - NGỬI)
Nội dung của Văn chẩn (nghe) là để ý đến những tính chất của các âm
thanh tiếng thở, tiếng ho, tiếng rên, ngửi mùi bốc ra từ người bệnh...
a) Tiếng nói :
- Tiếng nói nhỏ, hụt hơi, không đủ sức... là dấu hiệu của hư chứng.
- Tiếng nói to, vang, mạnh... là dấu hiệu thực chứng.
- Nói ngọng, khó nói, hay gặp trong chứng trúng phong.
- Hay nói, nói 1 mình là dấu hiệu tâm và thận hư.
b) Tiếng thở :
- Thở nhanh, thở mạnh... là dấu hiệu thực chứng.
- Thở nông, yếu là dấu hiệu hư chứng.
c) Tiếng ho :
- Ho có đờm là Thấu, ho không đờm là Khái, ho khan là bệnh nội
thương...
- Ho kèm theo hắt hơi, sổ mũi... thường là do cảm phong hàn.
- Ho từng cơn, có tiếng rít... là ho gà.
d) Tiếng nấc :
- Nấc liên tục, tiếng to là thực nhiệt.
- Nấc thưa, tiếng nhỏ là hư hàn.
- Nơi người bệnh nặng, nếu nấc thường là bệnh nặng.
e) Ngửi mùi vị :
Cần theo dõi mùi buồng bệnh, giường bệnh, quần áo, da dẻ, hơi thở,
các chất thải (Đờm, nước tiểu, phân...).
- Phân tanh hôi, loãng do Tỳ hư.
- Nước tiểu khai, đục do thấp nhiệt.
- Đờm tanh hôi, màu vàng xanh hoặc đục là dấu hiệu Phế ung (áp xe
phổi).
- BS. Leisy Miser cho rằng : "Bằng khứu giác của mình, tôi có thể
phát hiện ra được người mắc bệnh đái đường đứng cách tôi 10 bước". Ông
đã tổng kết và đưa ra 1 bảng liệt kê hướng dẫn mùi vị của các loại bệnh.
+ Da của người mắc bệnh Thương hàn có mùi vị của bánh mì nướng,
mùi của bệnh hoại thư...
Ông cho rằng bệnh đái đường và bệnh gan hoàn toàn có thể căn cứ
vào hô hấp để phán đoán...
3.- VẤN (HỎI)
Hỏi người bệnh hoặc thân nhân người bệnh là 1 yếu tố hết sức quan
trọng để cung cấp thêm cho thầy thuốc những chi tiết không thể biết được về
tiền sử bệnh, diễn tiến bệnh từ lúc khởi bệnh đến lúc thăm khám. Hỏi sẽ giúp
thầy thuốc bổ sung những khái niệm đã có, làm sáng tỏ những nghi ngờ đã
có khi nhìn và nghe.
Những vấn đề cần hỏi :
- Quê quán và chỗ ở lâu nhất của người bệnh (để ý đến chi tiết địa lý
và phong thổ gây bệnh).
- Sinh hoạt, tập quán, nghề nghiệp.
- Tinh thần và hoàn cảnh sống.
- Tiền sử bệnh (trước đây đã mắc bệnh gì...).
- Diễn tiến của bệnh từ lúc phát đến khi đến khám.
Đi vào chi tiết cần hỏi :
a) Thân nhiệt :
Có sợ lạnh, phát sốt, gai rét gì không ?
+ Sợ lạnh :
- Mới mắc mà sợ lạnh thường là do cảm phong hàn.
- Bệnh lâu ngày, sợ lạnh, tay chân lạnh là dấu hiệu dương hư.
+ Phát sốt :
- Phát sốt có quy luật hoặc sốt càng ngày càng tăng gọi là Triều nhiệt.
- Nóng nhức trong xương gọi là "Cốt chưng lao nhiệt"
- Lòng bàn tay chân nóng, gò má đỏ là sốt do âm hư.
- Sốt gai rét thường do ngoại cảm.
- Lúc sốt lúc rét (sốt rét có cữ nhất định) là chứng bán biểu bán lý
thuộc thiếu dương chứng, sốt rét...
+ Mồ hôi :
- Sợ lạnh, phát sốt có mồ hôi là biểu thực, không có mồ hôi là biểu hư.
- Sốt cao, ra mồ hôi nhiều là lý nhiệt.
- Ngủ thì đổ mồ hôi (mồ hôi trộm - Đạo hãn) thường do âm hư.
- Lúc nào cũng ra mồ hôi (tự hãn), sau khi ra mồ hôi thấy lạnh là
dương hư khí hư.
- Toàn thân ra mồ hôi nhiều mà chân tay lạnh là dấu hiệu thoát dương
(vong dương), trụy mạch.
b- Đau :
- Đau vùng đỉnh đầu lan xuống gáy hoặc nửa bên đầu, liên hệ đến
kinh Thái dương và Thiếu dương...
- Ngực sườn đau, đầy tức, mắt đau, liên hệ đến Can và kinh Thiếu
dương.
- Vùng thượng vị đau, liên hệ đến Tỳ, bao tử đau...
Tùy vùng đau tương ứng với tạng phủ nào mà suy ra bệnh ở tạng phủ
đó.
- Bệnh mới, đau nhiều, ấn vào đau thêm, thuộc Thực chứng.
- Bệnh lâu, đau ê ẩm, ấn vào đỡ đau, thuộc hư chứng.
- Đau dữ dội 1 nơi là do huyết ứ ...
c- Ăn uống :
- Miệng khát, thích uống nước là thực nhiệt, khát nhưng không thích
uống nước là hư hàn, thấp.
- Bệnh mới, không thèm ăn là do tích trệ. Bệnh cũ lâu ngày mà biếng
ăn là do Tỳ vị suy kém.
- Ăn nhiều mau đói là Hỏa của Vị mạnh. Đói mà không muốn ăn là Vị
âm hư.
- Miệng đắng là Hỏa của Vị mạnh, thuộc nhiệt, miệng hôi là do hỏa
của vị đốt bên trong, miệng nhạt là do đàm trọc...
d- Ngủ :
- Mất ngủ, hồi hộp, ngủ hay mê là do tâm huyết không đủ.
- Ngủ hay vật vã, trằn trọc lâu không ngủ là do âm hư hỏa vượng.
e- Đại tiểu tiện :
- Đại tiện táo, khó, thường do thực nhiệt hoặc do khí hư, âm hư, huyết
hư (hay gặp nơi người phụ nữ mới sinh).
- Đại tiện lỏng :
+ Phân đặc mùi thối : lý nhiệt tích trệ.
+ Phân loãng, ít thối do Tỳ vị hư hàn.
+ Tiêu chảy lúc sáng sớm (ngũ canh tiết tả) do thận hư.
- Nước tiểu ít, nước tiểu màu vàng, nước tiểu màu đỏ do thực nhiệt,
tiểu nhiều, tiểu trong và dài, do hư hàn, tiểu luôn, tiểu gắt, tiểu đau là do
thấp nhiệt...
f- Kinh nguyệt - Khí hư (Huyết Trắng) :
- Kinh trước kỳ, màu kinh đỏ tươi, số lượng nhiều, do huyết nhiệt, sắc
lợt, lượng ít, bụng đau sau khi hành kinh thường do khí huyết thiếu.
- Kinh sau kỳ, sắc thẫm, có cục, bụng đau trước khi hành kinh, do ứ
huyết, hàn hoặc do huyết hư.
- Rong kinh, rong huyết, sắc tím đen, thành khối, do can thận hư hoặc
Tỳ hư.
- Khí hư lượng nhiều, loãng,do Tỳ thận hư hàn, khí hư nhiều, màu
vàng hôi, ngứa do thấp nhiệt.
4.- THIẾT
Thiết là cắt mổ xẻ để phân tích. Đây là khâu cuối cùng trong tứ chẩn,
nhằm tập hợp đầy đủ các triệu chứng, giúp cho việc chẩn đoán bệnh được
toàn diện. Gồm có 2 phần : sờ nắn (Án chẩn) và xem mạch (Mạch chẩn).
I.- SỜ NẮN (Án chẩn, Xúc chẩn)
Sờ nắn để tìm xem vị trí và tính chất của bệnh, thường xem tại da,
thịt, tay chân và bụng.
1.- Xem da thịt
Hàn nhiệt.
+ Sờ vào nóng ngay, càng lâu càng nóng là thực chứng, biểu nhiệt.
+ Sờ vào nóng, ấn sâu vào mát : trong hư ngoài thực.
+ Lòng bàn tay nóng, cảm thấy da nóng bừng nhưng không sốt, do hư
nhiệt.
+ Da khô táo : Tân dịch giảm, ứ huyết.
+ Phù : ấn mạnh vết lõm còn là thủy thũng, vết lõm nổi đầy ngay là
khí thũng.
- Da thuộc phế (phế chủ bì mao) do đó nếu lỗ chân lông thưa, hở dễ bị
ngoại cảm.
- Mô, cơ nhục, thuộc tỳ (tỳ chủ cơ nhục).
+ Da thịt săn chắc, vừa phải là khí huyết sung mãn.
+ Da thịt nhão là là tỳ vị hư hàn.
+ Da thịt quá dầy là hay bị chứng thấp (do tỳ vị tích nhiệt : Thấp
nhiệt).
- Gân cơ do can đởm phụ trách (can chủ cân), gân cơ cứng, căng chắc
như dây đàn do tà khí xâm nhập vào huyết mạch gây ứ huyết.
- Thận chủ xương, xem độ cứng mềm của xương để biết chức năng
của thận.
- Ấn tìm cảm giác đau :
+ Ấn mạnh vào đau tăng là thực chứng.
+ Ấn mạnh vào đau giảm là hư chứng.
- Đau chói là thực chứng hoặc ứ huyết.
- Đau ê ẩm do hư chứng hoặc hư hàn.
2.- Sờ tay chân :
- Tay chân lạnh, sợ lạnh là dương hư.
- Tay chân nóng là nhiệt thịnh.
- Nóng ở mu bàn tay là Biểu nhiệt, ngoại cảm. Nóng trong lòng bàn
tay là nội thương.
3.- Xem bụng (Phúc Chẩn)
Tùy vị trí liên hệ với tạng phủ để dễ chẩn đoán.
Bụng là 1 phần cơ thể chứa đựng nhiều cơ quan phức tạp. Muốn chẩn
đoán, cần biết qua vị trí các cơ quan trong bụng :
- Phần trên bụng, phía tay phải có gan, ống dẫn mật, túi mật.
- Phần trên bụng, phía tay trái có lách, bao tử, tụy tạng, kết tràng
ngang.
- Phần dưới bụng, phía tay trái là ruột già, trực tràng.
- Phần bụng dưới của phụ nữ là tử cung, buồng trứng, dây chằng, bộ
phận sinh dục.
- Phần dưới bụng : bọng đái, thận.
- Khi chẩn đoán cần lưu ý :
- Thích án (xoa bóp) thuộc hư, không thích xoa bóp (cự án) thuộc
thực.
- Bụng có khối, rắn, đau, không di chuyển thường là khối giun, ứ
huyết.
- Lúc có lúc tan, ấn vào không thấy hình thể, không ở 1 nơi nhất định
thường do khí trệ.
- Trong việc châm cứu, việc thăm khám bằng cách sờ nắn rất quan
trọng đặc biệt trong việc tìm các A thị huyệt hoặc các huyệt chẩn đoán để từ
đó chẩn đoán được các đường kinh bệnh và chọn huyệt châm cứu có kết quả.
II.- XEM MẠCH (Mạch chẩn)
1.- Đại Cương
- Xem mạch để biết được tình trạng thịnh suy của các tạng phủ, vị trí
nông sâu, tính chất hàn nhiệt của bệnh.
- Mạch là 1 thực thể của âm dương là gợn sóng của khí huyế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_chan_doan_hoc.pdf