Bệnh truyền nhiễm có những đặc điểm sau:
- Mầm bệnh (nhân tốgây bệnh): Mầm bệnh có nhiều loại khác nhau bao gồm:
Siêu vi trùng, vi trùng, soạn trùng, nấm vi thể, ký sinh trùng đường máu. với nhiều
chủng loại khác nhau vềkích thước và hình dạng.
- Hiện tượng nhiễm bệnh: Xảy ra trong cơthểsúc vật sau khi mầm bệnh xâm
nhập cơthểvới các điều kiện gây bệnh sau:
+ Mầm bệnh phải phát triển được trong cơthểsúc vật, phải có độc lực đểcó thể
cản được sức đềkháng của cơthể.
+ Đường xâm nhập của mầm bệnh vào cơthểtheo các con đường tiêu hoá. hô
hấp, niêm mạc, máu, đường sinh dục và qua vết xước ởda.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3105 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Đại cương về bệnh truyền nhiễm và ký sinh trùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gáy ra viêm tại chỗ.
Quá trình đó thường xảy ra phán ứng mạnh của cơ thể như tăng thân nhiệt, biến đổi
một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá máu, tạo kháng thể... Nếu cơ thể không khoanh vùng
được mầm bệnh sẽ lan ra toàn thân gây nhiễm trùng toàn thân hoặc nhiễm trùng huyết.
9.1.3. Đặc điểm của bệnh truyền nhiễm
Bệnh truyền nhiễm có những đặc điểm sau:
- Mầm bệnh (nhân tố gây bệnh): Mầm bệnh có nhiều loại khác nhau bao gồm:
Siêu vi trùng, vi trùng, soạn trùng, nấm vi thể, ký sinh trùng đường máu... với nhiều
chủng loại khác nhau về kích thước và hình dạng.
- Hiện tượng nhiễm bệnh: Xảy ra trong cơ thể súc vật sau khi mầm bệnh xâm
nhập cơ thể với các điều kiện gây bệnh sau:
+ Mầm bệnh phải phát triển được trong cơ thể súc vật, phải có độc lực để có thể
cản được sức đề kháng của cơ thể.
+ Đường xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể theo các con đường tiêu hoá. hô
hấp, niêm mạc, máu, đường sinh dục và qua vết xước ở da.
+ Mầm bệnh phải có số lượng đủ để gây bệnh khi vào cơ thể nó phải phát triển
nhanh. Sức gây bệnh của vi trùng phụ thuộc vào sự biến đổi độc lực và sức đề kháng
của cơ thể vật nuôi. Mầm bệnh có thể bị cơ thể vật nuôi tiêu diệt, cũng có thể phát
triển và gây bệnh truyền nhiễm cho sát nuôi. Đó là cuộc đấu tranh giữa cơ thể bị nhiễm
ht
tp
:/
/c
nt
y.
ru
me
na
si
a.
or
g,
T
L
th
am
k
ha
o,
P
.V
.
Ha
i
203
trùng và vi trùng. Tuỳ theo khả năng chống đỡ của cơ thể mà vật nuôi có thể bị nhiễm
bệnh đơn thuần (chỉ do một loại vi trùng gây nên) hoặc bị nhiễm trùng kết hợp (do hai
hay nhiều vi trùng gây bệnh cùng một lúc) hoặc bị nhiễm trùng kế phát nhau.
Tuỳ theo tính chất, mức độ và thời gian của quá trình bệnh mà người ta chia ra
các thể bệnh:
+ Thể quá cấp: súc vật thường chết ngay khi chưa có triệu chứng điển hình.
+ Thể cấp tính: bệnh diễn biến nhanh có triệu chứng điển hình là thường bị chết
trong vòng 7-10 ngày.
+ Thể á cấp tính: bệnh diễn biến chậm hơn kéo dài vài tuần lễ thể hiện rõ triệu
chứng điển hình.
+ Thể mãn tính: bệnh lúc phát lúc khỏi, kéo dài hàng tháng đến hằng năm.
Một số trường hợp có thể có thể ẩn, đó là súc vật mang mầm bệnh nhưng không
phát bệnh rõ ràng nhưng lại thường xuyên thải mầm bệnh ra môi trường xung quanh.
Đây là nguồn bệnh rất nguy hiểm.
- Quá trình tiến triển của bệnh truyền nhiễm được chia thành các thời kỳ như sau:
+ Thời kỳ ủ bệnh: Dài hay ngắn tuỳ thuộc vào các loại bệnh khác nhau và khả
năng đề kháng của cơ thể vật nuôi, được tính từ khi vi trùng xâm nhập cho đến khi
xuất hiện triệu chứng đầu tiên.
+ Thời kỳ liềm phát: Từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên đến khi bệnh toàn
phát. Cơ thể phát sinh các rối loạn nhẹ như sốt, ủ rũ, kém ăn, sổ mũi, chảy nước mãi...
+ Thời kỳ toàn phát: Các triệu chứng xuất hiện rõ đầy đủ, cơ thể súc vật ở trạng
thái mới gọi là trạng thái bệnh lý, quá trình trao đổi chất cũng thay đổi theo.
+ Thời kỳ kết thúc: Cơ thể khỏi bệnh hoặc chết.
9.2. SỨC ĐỘ KHÁNG TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ VẬT NUÔI VỚI BỆNH
Sức đề kháng của cơ thể với bệnh truyền nhiễm có liên quan đến trạng thái sinh
lý của cơ thể vật nuôi, trạng thái sinh lý ấy phụ thuộc vào tuổi điêu kiện thức ăn dinh
dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng của con người.
Nhiêu nhà bác học đã nghiên cứu vai trò của cơ thể đối với bệnh truyền nhiễm.
Thuyết thực bào của J.J.Métnhicốp đã có ảnh hưởng dẫn đến việc phát triển học thuyết
về sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh. Song song với sự phát triển của học thuyết
miễn dịch của J.J.Métnhicốp, nhiều tài liệu về khả năng diệt vi trùng của máu và hệ
bạch huyết cung như khả năng trung hoà độc tố bằng kháng thể đã dược nêu ra. Trong
quá trình đó đã xuất hiện nhiều học thuyết miễn dịch thể dịch. Từ các hiện tượng
không bị nhiễm bệnh hoặc từ các chức năng bảo vệ cơ thể khác (khả năng trung hoà
độc tố, làm tan vỡ vi trùng...), các tác giả tổng hợp thành học thuyết để giải thích các
hiện tượng phức tạp thuộc phạm trù miễn dịch. Hệ thống phòng vệ hay sức đề kháng
tự nhiên của cơ thể bao gồm:
204
9.2.1. Da
Da là tổ chức thượng bì kép sừng hoá, có tác dụng bảo vệ cho cơ thể tránh được
những tác động của các nhân tố cơ học, hoá học và vi sinh vật gây bệnh. Da lành lặn là
bức tường bảo vệ vững chắc cho cơ thể. Chỉ có một số ít mầm bệnh truyền nhiễm có
thể xuyên qua da lành lặn. Ví dụ: Bruscelloz, tularemia, nấm lông, nấm da. Tế bào
chết ớ thượng bì luôn luôn bị rụng cuốn theo nhiều vi trùng, dịch tuyến mồ hôi trên da
rửa trôi và có chất lizozym làm dung giải nhiều vi trùng. Người ta thí nghiệm thả vi
khuẩn Salmonella sống trên da người. sau 20 phút kiểm tra chỉ có 1% sống, còn 99%
bị tiêu diệt. Sự bài tiết của da, rụng vảy, bụi đất... làm bề mặt da và lông, tóc bị bẩn. Vì
vậy trên lông, da và nhất là các nếp nhăn thường bị thấm nhiều mồ hôi và mỡ dễ bị
phân huỷ sẽ làm giảm độ axit của da và tăng độ thích ứng của vi trùng độc. Da thường
xuyên tiếp xúc với ngoại cảnh do đó tiếp xúc với nhiều loại vi trùng (trên lcm2 da bê bị
bẩn có chứa hàng triệu vi trùng các loại). Da sạch và lành lặn có chức năng bảo vệ cao:
dưới lớp giác mạc của thượng bì là mồ hôi liên kết có nhiều mạch máu và dây thần
kinh, các tuyến mồ hôi và tuyến mơ. Nếu vi trùng xuyên qua thượng bì là da liền bị
các tế bào mô liên kết và bạch cầu tiêu diệt. Tại nơi vi trùng xâm nhập. Xét nghiệm
cho thấy có rất nhiều bạch cầu, nếu bạch cầu không chống nổi thì vi trùng sẽ xâm nhập
vào các mô và cơ quan khác.
Trạng thái tự vệ của da phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, không phải ngẫu nhiên
mà người ta có thể đánh giá một phần sức khoẻ của gia súc qua trạng thái của lông và
da. Nếu da khô, lông dài khô và rối thì sức đề kháng của cơ thể thấp. Nếu da bóng
nuột, lông mềm và mượt thì sức đề kháng cao. Cho vật nuôi ăn đầy đủ, đúng mức, tắm
trải thường xuyên là những biện pháp tốt nhất phòng bệnh cho da, kích thích trao đổi
chất, làm tăng tính ngon miệng và tăng sức đề kháng. thức ăn thiếu vitamin và khoáng
sẽ làm da kém sức đề kháng.
9.2.2. Niêm mạc
Niêm mạc mắt, mũi, miệng, ruột và đường sinh dục so với da thì vi trùng dễ thích
ứng hơn, nhiều loại vi trùng xám nhập vào cơ thể theo đường niêm mạc. Song nếu
niêm mạc của cơ thể gia súc khoẻ mạnh có sức đề kháng cao. Niêm mạc đường hô hấp
bao bọc bởi lớp thượng bì có lông rung nhỏ cùng với chất nhầy có vai trò giữ bụi và vi
trùng rồi tống chúng ra ngoài qua đờm. Hoặc phàn xạ hắt hơi. Niêm mạc còn tiết ra
lizozym trong dịch nước bọt. nước mũi, nước mắt... dịch vị và dịch ruột có thể tiêu diệt
hầu hết các vi trùng xâm nhập.
9.2.3. Ổ viêm
Đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng, phản ứng
viêm càng mạnh ở điểm nhiễm trùng chứng tỏ khả năng kháng thề của cơ thể càng
cao. Trong ồ viêm có nhiều dịch thẩm xuất từ mạch quản thấm ra bao gồm:
- Dịch thể: Chủ yếu là đản bạch xơ xelluloalbumin, fibrinogen hình thành tổ chức
xơ trong ổ đêm, ngăn chặn không cho vi trùng lan sang bộ phận khác của các tế bào:
205
Chủ yếu là bạch cầu, theo J.J. Métnhicốp có hai loại chính:
+ Tiểu thực bào: Gồm bạch cầu đa nhân trung tính di động đến nơi có vi trùng,
tiêu diệt vi trùng theo kiểu amip.
+ Đại thực bào: Gồm bạch cầu đơn nhân và tế bào của hệ thống lưới nội mô sản
sinh ra men dung giải đản bạch có tác dụng làm tan vỡ vi trùng hỗ trợ cho tiểu thực
bào.
Nếu thành phần dịch rỉ viêm có thể gây chèn ép các cơ quan tổ chức, mạch máu,
dây thần kinh gây đau nhức và có biểu hiện đỏ, sưng, nóng, đau. Ngoài ra, trong quá
trình viêm còn sinh ra nhiều sản phẩm trung gian gây tăng tiết histamin, axetycholine
làm cường phó giao cảm gây giãn mạch, tăng tiết serotonin làm tăng axit lactic và các
dẫn xuất ADP, AMP...
9.2.4. Máu và bạch huyết
Súc vật khoẻ mạnh có thể ngăn cản sự xâm nhập của vi trùng vào máu, tiêu diệt
và trung hoà độc của vi trùng, ôpxônin và trôpin trong máu có tác dụng làm yếu vi
trùng giúp cho hệ thống thực bào hoạt động thuận lợi, các kháng thể tồn tại trong máu
và bạch huyết như yglôbuline, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân... có vai trò liêu
diệt và trung hoà độc tố của vi trùng.
Vì vậy các chỉ tiêu sinh hoá của máu cho phép đánh giá trạng thái cơ thể và khả
năng tự vệ của gia súc. Qua việc xét nghiệm hồng cầu, bạch cầu và công thức máu có
thể đánh giá được quá trình sinh lực trong các mô bào và các điều kiện chăm sóc nuôi
dưỡng khác nhau.
9.2.5. Gan, thận
Các chất cặn bã trong quá trình trao đổi chất của cơ thể bao gồm cả độc tố của vi
khuẩn đều được đưa về gan để giải độc. Gan đã giữ lại những kim loại nặng, một số
cặn bã và vi khuẩn để đưa xuống ruột theo chu trình gan -mật - ruột và được tống ra
ngoài theo phân. Một số chất cặn bã còn lại được đưa xuống thận và được thải ra ngoài
theo nước tiểu. Các tế bào Kypfe của gan, tế bào vỏ thượng thận và tuyến yên có khả
năng giữ lại và tiêu hoá vi trùng. Phản ứng chung của cơ thể khi vi trùng xâm nhập vào
là phản ứng thần kinh, thể hiện ở chỗ tăng hoặc giảm nhịp đập của tim, loạn nhu động
ruột, tăng hô hấp... Những điều đó gây nên sự biến đổi điều khiển của hệ thần kinh
trung ương dẫn đến rối loạn nội tiết và trao đổi chất nói chung của cơ thể.
Nếu như sức đề kháng của cơ thể tốt sẽ ngăn chặn được sự phá huỷ của vi trùng
đối với từng cơ quan bộ phận và toàn thân. Nếu sức đề kháng kém, vi trùng sẽ phát
triển mạnh. Hoạt động phá huỷ cơ quan nội tạng và gây bệnh cho súc vật.
* Biện pháp nâng cao sức đề kháng tự nhiên
Sức đề kháng tự nhiên của cơ thể vật nuôi đối với vi trùng gây bệnh xâm nhập
phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý sử dụng vật nuôi. Nếu cung
cấp đầy đủ chất dinh dưỡng với tỷ lệ thích hợp như protit, lipit, gluxil, khoáng, vitamin
206
và có chế độ chăm sóc huấn luyện, sử dụng hợp lý sẽ làm tăng sức đề kháng tự nhiên
của cơ thể. Ngoài ra, sức đề kháng tự nhiên còn phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh có
lợi hay bất lợi cho cơ thể vật nuôi và khả năng ngăn chặn vi trùng gây bệnh phát triển
ngoài môi trường như thế nào. Muốn vậy, chúng ta phải nghiên cứu rõ những nguyên
nhân phát sinh và phát triển bệnh truyền nhiễm để có biện pháp phòng trừ có hiệu quả
tốt nhất.
9.3. NGUYÊN NHĂN PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN BỆNH TRUYỀN NHIỄM
Nghiên cứu nguyên nhân phát sinh và phát triển bệnh truyền nhiễm, người ta
phân biệt:
- Những nguyên nhân quyết định: đó là bản thân những nhân tố gây bệnh sống và
tồn tại phát triển trong môi trường, quá trình lây truyền các nhân tố gây bệnh (virus, vi
khuẩn, nấm vi thể, ký sinh trùng... ) và sự cảm nhiễm với nhân tố gây bệnh của cơ thể
vật nuôi.
Nhưng nguyên nhân hỗ trợ: Thực chất là những phản ứng của con vật bằng nhiều
cách khác nhau, tuỳ theo trạng thái sinh lý và cơ thể của nó trước sức tấn công của
nhân tố gây bệnh, điều kiện sống thuận lợi hay trở ngại cho sự tồn tại của nhân tố gây
bệnh, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng vật nuôi tốt hay xấu.
9.3.1. Những nguyên nhân quyết định
9.3.1.1. Sự tồn tại và phát kiến của các nhân tố gây bệnh (mầm bệnh)
- Virus (còn gọi là siêu vi trùng): Là những phần tử nhỏ bé không nhìn thấy dưới
kính hiển vi quang học thường, chúng lọt qua màng lọc bằng sứ có cỡ lỗ nhỏ nhất, do
đó người ta còn gọi là virus qua lọc. Chúng không nuôi cấy được trong môi trường
nhân tạo, chỉ sống và nuôi cấy trên tế bào sống như phôi trứng gia cầm, cơ thề động
vật. Ví dụ: Siêu vi trùng dại, cúm gà H5N1, siêu vi trùng Newcastle...
Vi trùng (vi khuẩn): Là những thể đơn bào nhỏ, chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi có
độ phóng đại lớn sau khi được nhuộm tế bào, bao gồm các loại vi khuẩn, nấm vi thể,
các nguyên sinh động vật cỡ nhỏ...
+ Vi khuẩn là những thể đơn bào, kích thước vài micromet, sinh sản bằng cách
tự phân chia hoặc sinh nha bào, có sức đề kháng mạnh, có nhiều hình thái khác nhau:
Tròn như liên cầu trùng; tụ cầu trùng thường là loại Gr-; hình gậy thẳng gọi là trực
khuẩn; thuộc loại Gr+ như đóng dấu, uốn ván...; hình cong còn gọi là phảy khuẩn; hình
sợi còn gọi là xạ khuẩn.
+ Nấm vi thể: Là những thể thực vật không có khả năng biến đổi thán khí trong
không khí thành hydratcacbon, cơ thể sống bằng hình thức hoại sinh hoặc ký sinh. Một
số nấm gây bệnh gọi chung là bệnh nấm. Người ta phân biệt:
• Nấm ngoại khoa gây bệnh rụng lông như Blastomyces.
• Nấm nội khoa do Aspecgilus gây bệnh viêm mạch lâm ba truyền nhiễm.
+ Nguyên sinh động vật: Là những cơ thể đơn bào nhỏ, đặc trưng nhất là những
207
loại sống và gây bệnh trong bộ máy tiêu hoá như amip, trực trùng bệnh lỵ, cầu trùng
gây rối loạn tiêu hoá và bọn sống trong đường máu như dạng trùng piroplasma,
babesia, theileria, có loại ký sinh ở đường sinh dục như tiêm mao trùng trypHnosoma
evasi ký sinh đường sinh dục ngựa gây bệnh sảy thai truyền nhiễm.
- Các nhân tố gây bệnh trên luôn luôn tồn tại và phát triển ngoài môi trường nhất
là điều kiện kém vệ sinh, môi trường ô nhiễm, đồng thời chúng tồn tại trong cơ thể
động vật dưới dạng thể ẩn, thể mãn tính. Chúng được lây truyền từ con vật này sang
con vật khác theo các khâu sau:
+ Nguồn gốc gây bệnh chủ yếu do con vật ốm, con mang trùng bài xuất ra môi
trường, con vật khoẻ ở chung có thể bị cảm nhiễm. Nhân tố gây bệnh còn có thể tồn tại
trong những động vật hoang dã, súc vật bị chết khi mắc bệnh... Các nhân tố gây bệnh
được bài xuất ra môi trường theo phân, nước tiểu hoặc qua hô hấp.
Ví dụ: virus dịch tả, ký sinh trùng đường ruột, trực khuẩn lao đường ruột... bài
xuất qua phân, trực khuẩn lao bài xuất qua đường hô hấp; viêm phế quản, tụ huyết
trùng bài xuất qua đường hô hấp; bài xuất qua đường sinh dục như một số loại vi
trùng, ký sinh trùng ở đường sinh dục như Bruscella gây sảy thai truyền nhiễm, vi
trùng gây bệnh viêm âm đạo có hạt.
+ Một số do giao phối truyền từ con cái sang con đực và ngược lại như tiêm la,
ngựa; sảy thai truyền nhiễm viêm âm đạo... Vi trùng bài xuất qua đường tiêu hoá như
trực trùng E.coli xoắn trùng Spirocheta, ký sinh trùng sán máng...
+ Vi trùng bài xuất theo đường máu như các bệnh nhiệt thán, xoắn trùng
Leptospira... Đặc biệt, quá trình giết mổ súc vật ốm sẽ làm cho vi trùng lây lan mạnh.
Ngoài ra, có một số nhân tố gây bệnh bài xuất qua nước mắt, mũi, niêm mạc như dịch
tả trâu, bò, lợn...
- Các nhân tố gây bệnh xâm nhập cơ thể qua các con đường riêng, đặc biệt qua
da bị xây sát, vết thương, mũi kim tiêm, qua đường niêm mạc, hô hấp, tiêu hoá, sinh
dục.
- Quá trình lây truyền các nhân tố gây bệnh xảy ra nhanh chóng do súc vật ốm ở
chung với con khoẻ hoặc môi trường lưu giữ các nhân tố gây bệnh như nơi tối, thiếu
ánh sáng, đất ẩm, nước bẩn và các ký chủ trung gian truyền bệnh như ve mồng, ruồi,
muỗi, chuột, chim, dã thú... Đặc biệt chúng được lây truyền qua dụng cụ và người
công nhân chăn nuôi do không thực hiện nghiêm ngặt điều lệ thú y.
9.3.1.2. Cơ thể vật nuôi cảm nhiễm với nhân tố gây bệnh
Cơ thể cảm nhiễm là những môi trường lý tưởng cho nhân tố gây bệnh phát
triển, điều này tuỳ thuộc vào trạng thái sinh lý cơ thể, phụ thuộc vào loài. giống, tuổi
và cá thể cũng như trạng thái sức khoẻ, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu tăng cường
bồi dưỡng cơ thể, tăng sức đề kháng tự nhiên và nhân tạo sẽ góp phần ngăn chặn bệnh
truyền nhiễm phát triển.
208
9.3.2. Những nguyên nhân hỗ trợ
- Điều kiện ngoại cảnh thuận lợi hay trở ngại cho sự tồn tại của nhân tố gây bệnh
như điều kiện khí hậu, các yếu tố đất, nước, độ ẩm, ánh sáng, các tác nhân vật lý, hoá
học, sinh học, các điều kiện xã hội, ô nhiễm môi trường...
Sự tồn tại và phát triển của các ký chủ trung gian truyền bệnh như chim, chuột,
ve, mồng, côn trùng.
Chế độ nuôi dưỡng kém, chế độ sử dụng quá mức đều là những nguyên nhân hỗ
trợ làm giảm sức khoẻ, sức đề kháng, tạo điều kiện cho nhân tố gây bệnh phát triển.
9.4. BIỆN PHÁP PHÒNG TRƯ BỆNH TRUYỀN NHIỄM
Mục đích của việc phòng trừ bệnh truyền nhiễm là phải ngăn chặn tận gốc rễ, tức
là phải tiêu diệt sự tồn lại và phát triển của các nhân tố gây bệnh và nâng cao sức đề
kháng của cơ thể với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh bao gồm một số biện
pháp tổng hợp sau.
9.4.1. Vệ sinh vật nuôi
Đây là khái niệm rất rộng bao gồm việc vệ sinh thân thể, vệ sinh làm việc, vệ
sinh chuồng trại, vệ sinh thức ăn, nước uống nhằm chống lại tác nhân có hại của nhân
tố gây bệnh, hạn chế sự xâm nhập của nhân tố gây bệnh vào cơ thể, tăng cường rèn
luyện cơ thể, tăng sức đề kháng.
9.4.1.1. Tầm quan trọng của vệ sinh trong chăn nuôi
Trong chăn nuôi, dịch bệnh luôn luôn là một thảm hoạ gây nhiều thiệt hại cho
ngành chăn nuôi, đồng thời còn ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Khi dịch bệnh
lan tràn phải huy động sức người, tiền của để dập tắt dịch bệnh, sản phẩm chăn nuôi
giảm sút về số lượng và chất lượng, từ đó ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân. Ngoài
ra, còn có một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể lây lan từ vật nuôi sang người,
làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, đe doạ tính mạng con người như các bệnh: nhiệt thán,
bệnh dịch tả, bệnh xoắn trùng lepto, bệnh sảy thai truyền nhiễm...
Để giảm thiệt hại cho chăn nuôi phải ngăn chặn dịch bệnh, vệ sinh chăn nuôi
chính là để phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ vật nuôi và nâng cao được sức sản
xuất của vật nuôi. Vệ sinh trước hết là những biện pháp từ bên ngoài tác động đến
những nhân tố của môi trường có thể tạo nên mối đe doạ cho vật nuôi, có liên quan
trực tiếp đến trình độ của người chăn nuôi trong việc áp dụng những nguyên tắc vệ
sinh trong mọi hoạt động hằng ngày dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Chữ
"vệ sinh" từ tiếng Hy lạp Hugiainein có ý nghĩa là "giữ mình tốt" đó là một phần của
khoa y học và thú y học. Phương châm của vệ sinh trong chăn nuôi là: "phòng bệnh
hơn chữa bệnh" thực hiện tốt những quy định của vệ sinh trong chăn nuôi sẽ đem lại
hiệu quả kinh tế cao cho ngành chăn nuôi. Chẳng hạn: Tiêm chủng định kỳ các vacxin
phòng bệnh cho gia cầm sẽ làm cho gia cầm tăng thêm hàng chục triệu con mỗi năm.
Để hạn chế dến mức thấp nhất thiệt hại do dịch bệnh gây ra cho chăn nuôi, cần thực
hiện tốt các nguyên tắc sau:
209
- Thực hiện thường xuyên việc vệ sinh môi trường sống của vật nuôi.
- Vệ sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể vật nuôi.
- Tiêm chủng vacxin định kỳ cho các loại vật nuôi.
- Phát hiện kịp thời các ổ dịch để dập tắt ngay.
- Thực hiện tốt nội quy phòng ngừa dịch bệnh ở cơ sở.
9.4.1.2. Vệ sinh môi trường sống của vật nuôi
9.4.1.2.1. Thời tiết:
Trong các yếu tố ngoại cảnh thì thời tiết ảnh hưởng nhiều nhất tới vật nuôi. Ba
nhân tố chính của thời tiết có tác động nhiều nhất đến vật nuôi là nhiệt độ, độ ẩm và
gió.
- Nhiệt độ: Cơ thể vật nuôi luôn chịu tác động của nhiệt độ bên ngoài, nhiệt độ
môi trường quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng đến sự điều tiết thân nhiệt và có thể
làm cho vật nuôi bị cảm nóng hay cảm lạnh.
Để đề phòng vật nuôi bị cảm nóng phải tăng tốc độ lưu thông không khí trong
chuồng nuôi như mùa hè oi bức phải mở cửa thoáng, vật nuôi làm việc dưới trời nắng
phải có biện pháp che đang hoặc hạn chế làm việc khi trời nắng gay gắt. Cho vật nuôi
nghỉ ngơi ở nơi rộng rãi thoáng mát, yên tĩnh, cho uống nước mát, không chăn thả khi
trời quá nóng sẽ ảnh hưởng đến tiêu hoá và trao đổi chất của con vật. Để chống lạnh
cho vật nuôi cần cho ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, chăm sóc tốt như che chuồng
chống rét, lót ổ, chăn thả hay làm việc ngoài trời lạnh phải có áo chống rét bằng bao
tải, chăn chiến cũ...
Đặc biệt trong các ngày giá lạnh, có gió mùa đông bắc phải cho gia súc nghỉ việc,
tránh chăn thả ngoài đồng, chú ý bồi dưỡng cơ thể vật nuôi để có đủ dinh dưỡng cho
quá trình trao đổi chất, cung cấp năng lượng cho cơ thể điều hoà thân nhiệt.
- Độ ẩm không khí : Có ảnh hưởng đến sự bốc hơi nước và sự toả nhiệt của cơ
thể. Độ ẩm không khí quá cao sẽ cản trở đến sự bốc hơi nước và thải nhiệt ở nhiệt độ
không khí cao hay thấp quá, vật nuôi ở trong chuồng luôn ẩm ướt đều không tốt.
Khi nhiệt độ thấp, độ ẩm cao sẽ làm lăng sự tổn nhiệt. Vật nuôi bị cảm lạnh. Khi
nhiệt độ cao, độ ẩm cũng cao sẽ cản trở sự toả nhiệt làm vật nuôi mệt mỏi, trao đổi
chất bị cản trở.
Để chống ẩm trong chuồng nuôi phải thường xuyên quét dọn sạch phân, nước
tiểu, ổ lót phải khô làm cho chuồng thoáng khí.
- Gió : Trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến sự toả nhiệt của cơ thể vật nuôi.
Nếu bị tiếp xúc với gió thổi mạnh và lâu, nhất là gió mùa đông bắc sẽ làm tăng sự toả
nhiệt qua da, vật nuôi sẽ bị lạnh. Vì vậy cần phải có biện pháp chống gió lùa vào
chuồng nuôi về mùa đông.
9.4.1.2.2. Ánh sáng và không khí
-Ánh sáng mặt trời : Giúp tăng cường hoạt động sống và quá trình sinh lý của vật
210
nuôi. Dưới ánh sáng mặt trời có thể phát sinh những phản ứng bên ngoài và bên trong
có lợi, tăng cường quá trình sinh trưởng và trao đổi chất. Tia tử ngoại chiếu vào da sẽ
biến tiền vitamin D thành vitamin D cho cơ thể, làm tăng cường hấp thu can xi,
photpho chống bệnh còi xương, mềm xương, làm mau liền viết thương và có tác dụng
diệt khuẩn.
Ánh sáng còn ảnh hưởng đến chu kỳ sinh học của vật nuôi. Sống trong điều kiện
thiếu ánh sáng, vật nuôi sẽ bị giảm sức sống, ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và chức
năng sinh dục của vật nuôi.
Tuy nhiên, ánh sáng gay gắt còn làm mỡ vật nuôi béo bị ôxy hoá mạnh, ánh sáng
mặt trời chiếu thẳng lúc đứng bóng (buổi trưa từ 11- 13 giờ) có thể làm vật nuôi bị say
nắng. Khi trời nóng nực không nên cho vật nuôi làm việc nặng, đứng lâu ngoài trời
nắng, tránh ánh nắng chiếu thẳng vào đầu vật nuôi.
- Không khí : Trong các thành phần không khí của chuồng nuôi thì nồng độ khí
CH4, NH3, H2S. Có ảnh hưởng rất lớn đối với người và vật nuôi.
Chuồng nuôi có nhiều phân, rác ẩm ướt trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao
sẽ sinh nhiều khí độc nhất là NH3 và H2S làm cho vật nuôi bị nhiễm độc, đồng thời có
thể gây viêm nhiễm niêm mạc mắt, đường hô hấp, tiêu hoá và làm suy nhược cơ thể...
giữ chuồng nuôi sạch sẽ, khô ráo, thoáng khí, chăm sóc vật nuôi chu đáo có thể tránh
được sự nhiễm độc không khí.
9.4.1.3. Vệ sinh chuồng trại
Chuồng nuôi ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống của vật nuôi, chuồng nuôi hợp
lý, đúng hướng, đúng kiểu, phù hợp đặc tính sinh lý của cơ thể vật nuôi. Chuồng nuôi
sạch sẽ thoáng mát cao ráo thì vật nuôi sinh trưởng và phát dục tốt, nâng cao khả năng
sản xuất. Chuồng nuôi phải đảm bảo các nguyên tắc vệ sinh và yêu cầu kỹ thuật sau
đây :
- Địa điểm xây dựng : Cao ráo, xa đường quốc lộ, xa nhà máy, yên tĩnh, hạn chế
stress cho vật nuôi, không gây ô nhiễm khu dân cư, thuận tiện giao thông chuyên chở
thức ăn và xuất bán sản phẩm.
- Hướng chuồng : Đảm bảo mùa đông ám áp, mùa hè phải thoáng mát, đủ ánh
sáng nhưng tránh nắng quá gắt.
- Nền chuồng : Phải có độ dốc vừa phải, không đọng nước, kết cấu đơn giản
nhưng bền chắc, không trơn, khô ráo và ấm áp.
- Kiến trúc xây dựng : Phải phù hợp đặc tính sinh lý và chức năng sản xuất của
từng loại vật nuôi để vật nuôi sinh trưởng phát dục tốt. Ví dụ chuồng nuôi lợn đực
giống phải rộng thoáng mát, có sân vận động và cách ly khu chuồng cái giống. Tránh
mật độ quá đông trong một chuồng nuôi, thuận tiện chăm sóc, quản lý. Chuồng phải
đảm bảo vệ sinh phòng dịch, phải có hệ thống cống rãnh thoát nước và xử lý chất thải.
Khoảng cách các chuồng nuôi phải hợp lý. Phải có chuồng nuôi cách ly riêng đối với
vật nuôi bị ốm. Chuồng nuôi phải dễ dàng áp dụng các công cụ cải tiến hoặc cơ giới
211
hoá trong chăn nuôi như hệ thống cho ăn uống tự động, hệ thống vận chuyển thức ăn,
phân bón...
Các khu vực chăn nuôi thường bị các chất thải như phân, nước tiểu làm ô nhiễm
môi trường, nguồn nước, không khí, có hại cho sức khoẻ con người và tạo điều kiện để
bệnh lây lan thành dịch, ảnh hưởng đến sản xuất. hiện nay, vấn đề gìn giữ và bảo vệ
môi trường đang là vấn đề quan tâm lớn của toàn xã hội và cũng là một yêu cầu không
thể thiếu khi xây dựng chuồng trại chăn nuôi. Một trong những biện pháp xử lý chất
thải chăn nuôi tốt nhất hiện nay là dùng bể lên men vi sinh vật yếm khí sinh ga (hay
công nghệ bioga). Khí ga sinh ra khi xử lý chất thải có thể sử dụng làm nhiên liệu đun
nấu trong gia đình, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả nguồn phân
bón cho trồng trọt.
1.4. Vệ sinh nước dùng trong chăn nuôi
9.4.1.4 Yêu cầu của nước dùng trong chăn nuôi
Cho vật nuôi uống nước đầy đủ, hợp lý không kém phần quan trọng như đối với
thức ăn. Trong mùa khô, một con bò nặng 250kg nếu thường xuyên đến máng uống
nước thì tiêu thụ hết 40 lít nước mỗi ngày. Khi thiếu nước uống, vật nuôi dễ mắc
chứng bội thực dạ cỏ táo bón và giảm trọng lượng rất rõ do thiếu nước cho quá trình
trao đổi chất của tế bào và cơ thể nói chung (trong cơ thể vật nuôi có 70 - 80% nước).
Ngược lại, nếu con vật uống quá nhiều nước sẽ gây tình trạng thiếu dinh dưỡng, dễ gây
chứng ỉa lỏng. Như vậy, cho vật nuôi uống nước đủ, hợp lý và sạch có tác dụng bảo
vệ sức khoẻ và nâng cao sức sản xuất. Ngoài ra, nước còn dùng để tắm r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gt_co_so_chan_nuoi_197_9003.pdf