Có nhiều phương pháp phân loại khác nhau:
- Phân loại theo dạng thuốc: Thuốc bộthuốc viên, thuốc nước, thuốc mỡ.
- Phân loại theo tác dụng:T sát trùng,kháng sinh, điều trịký sinh trùng, hạnhiệt,
thuốc bồi dưỡng cơthể.
- Phân loại theo độ độc: thuốc độc bảng A, thuốc độc bảng B, thuốc thường.
Nói chung, các loại thuốc khí dùng quá liều chỉ định của bác sỹ đều gây độc cho
cơthể. Tuỳtheo độ độc nhiều hay ít mà người ta chia ra các loại:
+ Thuốc độc bảng A: độ độc hại cao nhất, tuyệt đối không được dùng quá liều.
+ Thuốc độbảng B: ít độc hơn.
+ Thuốc thường: Ít gây tai biến cho cơthể
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5400 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Dược lý thú y, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mạnh bao nhiêu thì sự biến đổi càng chậm bấy nhiêu, tích luỹ càng lâu
trong cơ thể. Một số bị men esteraza phá huỷ:
Ví dụ:
8.2.3.3. Vào đến tổ chức
Tổ chức nào có nhiều mạch máu, thuốc sẽ tới nhiều hơn, phần lớn thuốc đều qua
gan, thận. Sự biến đổi của thuốc ở tổ chức xảy ra bằng nhiều cách: oxy hoá, oxy hoá
khử, metyl hoá, axetyl hoá...
8.2.3.4. Thời gian tác dụng của thuốc trong cơ thể
Có loại thuốc chỉ tác dụng vài giờ rồi thải trừ như iodua, có loại tới vài ngày. Khi
đưa thuốc vào cơ thể với tốc độ nhanh thì thời gian tác dụng khác với đưa thuốc vào
với tốc độ chậm.
Ví dụ: Đưa amonichlorua vào cơ thể mà tiêm từ từ thì không việc gì nhưng nếu
tiêm nhanh thì con vật sẽ bị vật vã, thậm chí bị chết (đặc biệt là tiêm tĩnh mạch).
8.2.3.5. Đường thải trừ
- Qua thận: Các loại thuốc tan trong nước đều thải trừ qua thận và tuyến mồ hôi.
Hầu hết các loại thuốc sau 24 giờ thải từ tới 80%.
- Qua đường tiêu hoá: Morphine thải trừ qua dịch vị nên khi ngộ độc thường phải
rửa dạ dày; một số loại muối kim loại nặng, sắt, tetacycine thải trừ theo con đường
gan, ruột và đẩy ra ngoài theo phân. Kể cả các loại thuốc không tan như cao lanh hoặc
ít hấp thụ như MgSO4 , streptomicine.
- Qua hô hấp: Chủ yếu là các loại thuốc bay hơi như ete, rượu, tinh dầu, các chất
khí...
- Thải trừ qua các tuyến khác: Niêm mạc mắt thải trừ iodua, Hg..., mồ hôi thải trừ
bromua, muối kim loại..., khí quản bài tiết các chất nhầy như long não, tuyến sữa thải
trừ kháng sinhấm, thuốc bay hơi và nhiều thuốc khác.
Ý nghĩa: Nghiên cứu đường thải trừ của thuốc sẽ có biện pháp xử lý các trường
hợp ngộ độc thuốc.
Ví dụ: Ngộ độc qua đường hô hấp cần tăng cường hô hấp nhân tạo.
Ngộ độc qua đường bài tiết thì phải tăng cường bài tiết nước tiểu.
Ngộ độc qua đường tiêu hoá cần tăng nhu động ruột, rửa dạ dày, ruột.
Ngộ độc qua da thì tăng cường tiết mồ hôi.
ht
tp
:/
/c
nt
y.
ru
me
na
si
a.
or
g,
T
L
th
am
k
ha
o,
P
.V
.
Ha
i
183
8.3. PHÂN LOẠI THUỐC VÀ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG
8 3.1. Phân loại
Có nhiều phương pháp phân loại khác nhau:
- Phân loại theo dạng thuốc: Thuốc bộ thuốc viên, thuốc nước, thuốc mỡ...
- Phân loại theo tác dụng:T sát trùng, kháng sinh, điều trị ký sinh trùng, hạ nhiệt,
thuốc bồi dưỡng cơ thể.
- Phân loại theo độ độc: thuốc độc bảng A, thuốc độc bảng B, thuốc thường.
Nói chung, các loại thuốc khí dùng quá liều chỉ định của bác sỹ đều gây độc cho
cơ thể. Tuỳ theo độ độc nhiều hay ít mà người ta chia ra các loại:
+ Thuốc độc bảng A: độ độc hại cao nhất, tuyệt đối không được dùng quá liều.
+ Thuốc độ bảng B: ít độc hơn.
+ Thuốc thường: Ít gây tai biến cho cơ thể.
8.3.2. Các loại thuốc và phương pháp sử dụng
Cho đến nay, các loại thuốc được dùng trong thú y rất nhiều loại nhưng điều kiện
thời gian có hạn nên chỉ giới thiệu một số loại thường dùng nhiều nhất trong thực hành
thú y.
8.3.2.1. Thuốc hạ sốt
Trước khi nghiên cứu về cơ chế và tác dụng của thuốc, chúng ta cần tủn hiểu
khái niệm về thân nhiệt và sự cân bằng nhiệt trong cơ thể. Chúng ta biết rằng năng
lượng không ngừng được tạo ra trong quá trình trao đổi chất trong cơ thể nên sự ổn
định thân nhiệt là điều kiện vô cùng quan trọng trong hoạt động bình thường của các
men sinh học tham gia quá trình trao đổi chất ấy. Dựa vào khả năng duy trì thân nhiệt
với sự thay đổi nhiệt của môi trường ngoài mà người ta chia động vật làm 2 loại:
- Động vật máu lạnh: Còn gọi là động vật biến nhiệt, bao gồm các loài động vật
không xương sống, có xương sống bậc thấp như cá, ếch, bò sát. Thân nhiệt của các
loài động vật này hoàn toàn thay đổi theo nhiệt độ môi trường, chúng không có khả
năng điều hoà thân nhiệt.
- Động vật máu nóng: Còn gọi là động vật hằng nhiệt, gồm lớp chim và lớp thú.
Thân nhiệt của các loài động vật này luôn ổn định và độc lập với nhiệt độ của môi
trường nhờ 2 quá trình điều hoà trong
+ Quá trình sản nhiệt: Còn gọi là điều hoà hoá học, là quá trình ôxy hoá các chất
dinh dưỡng trong cơ thể nhằm cung cấp năng lượng cho hoạt động sống và phát triển
cơ thể.
+ Quá trình thải nhiệt: Còn gọi là quá trình điều hoà vật lý, được thực hiện theo 3
phương thức: truyền nhiệt vào môi trường, khuếch tán nhiệt, bốc nhiệt. Cả 3 quá trình
này đều phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ bên ngoài. Nếu nhiệt độ môi trường thấp thì quá
trình thải nhiệt thuận lợi, nếu nhiệt độ môi trường cao thì quá trình thải nhiệt bị cản
184
trở.
Người ta đo được cứ 1 g H2O bốc hơ; Sẽ lấy đi 0,6kcalo nhiệt. Quá trình trả nhiệt
xảy ra qua mồ hôi, nước tiểu, phân, hơi thở... Quá trình thải nhiệt này là chủ yếu, đông
thời nhiệt còn khuếch tán và tỏa ra môi trường qua bề mặt cơ thể.
Hai quá trình điều hoà hoá học và lý học đối lập nhau nhưng liên quan chặt chẽ
với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, cân bằng nhau dưới sự điều khiển của hệ thống thần
kinh trung ương, đảm bảo cho nhiệt độ cơ thể không thay đổi và hằng định ở mỗi loài,
giống vật nuôi. Ví dụ: ngựa 37-380C, bò 38-390C; lợn 38-390C; chó 37,5-390C; gà,
ngỗng 40-420C...
Nếu bất kỳ lý do nào đó gây rối loạn sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt thì
thân nhiệt cơ thể cũng rối loạn theo.
* Cơ chế tác dụng của thuốc hạ sốt
Theo nghiên cứu của Zavadovsk (1887) đã tiến hành gây sốt cho khỉ và cho uống
entipyrin để hạ nhiệt cho khỉ. Khi khỉ khỏi sốt, ông lại gây sốt cho khỉ và phá huỷ
vùng dưới đồi. Sau đó cho uống thuốc hạ sốt entipyrin nhưng thuốc mất tác dụng. Từ
đó ông kết luận: Thuốc hạ sốt đã có tác dụng ức chế vùng dưới đồi làm giãn mạch
ngoại biên, mồ hôi tiết ra làm tăng thải nhiệt, làm thân nhiệt giảm xuống. Nhưng vùng
dưới đồi chỉ cảm ứng với thuốc khi cơ thể bị sốt, bình thường thì ít tác dụng. Đồng
thời, sốt là phản ứng tổng hợp của cơ thể và thuốc giảm sốt chỉ có tác dụng chữa triệu
chứng sốt chứ không có tác dụng chữa nguyên nhân, do đó không nên dùng bừa bãi
mà chỉ dùng khi cơ thể sốt cao có nguy cơ làm biến tính albumin, làm rối loạn hoạt
động của một số men, một số enzím sinh học trong cơ thể. Người ta xác định được khi
thân nhiệt tăng lên 10C thì hoạt tính của men sinh học trong cơ thể có thể tăng lên 1000
lần. Trong khi ở ngoài có thể hoạt tính của men chỉ tăng lên 20 lần. Ngoài tác dụng
giảm sốt, thuốc còn có tác dụng tới trung khu cám giác đau nên còn được dùng chữa
bệnh đau khớp, nhức lãng...
* Các loại thuốc thường dùng:
- Entipyrine: có công thức cấu tạo
Được tổng hợp từ cây cỏ thực vật.
Hiện nay, người ta đã tổng hợp được bằng phương pháp hoá học. Đây là loại
thuốc dạng tinh thể, không màu, không mùi vị đắng, tan trong nước, trong cồn.
chloroform. ít tan trong ether. tương kỵ với calomen, hoà tan với calomen tạo thành
hợp chất rất độc cho cơ thể.
+ Tác dụng dược lý: Giống như tác dụng của thuốc hạ sốt, entipynne ức chế
trung tâm điều tiết thân nhiệt, chuyển xung động thần kinh đến trung khu hô hấp và
185
vận mạch làm giãn mạch ngoại biên, co mạch nội tạng, do đó hô hấp được cải thiện,
mồ hôi toát ra nhiều, quá trình thải nhiệt tăng làm thân nhiệt giảm.
+ Ứng dụng: Chủ yếu chữa giảm sốt trong các bệnh cảm nóng, sốt cao do nhiễm
trùng, cầm máu, chữa viêm khớp...
+ Liều dùng: Ngựa và đại gia súc: l0-30g; lợn và tiểu gia súc: 2-5g; chó: 0,2-2g.
gia cầm: 0,1g.
- Pyramydon:
+ Công thức: C13H17ON3 do Knoer và Stolz tìm ra năm 1896, được tổng hợp từ
entipyrine. Có tác dụng tương tự entypyrine.
+ Liều dùng: Đại gia súc: 2-5g; chó, lợn: 0,2-2g.
Trong một số trường hợp có thể gây xung huyết não, giảm hồng cầu nước tiểu đỏ
vàng. Vì vậy khi dùng phải hết sức cẩn thận.
- Aspyrine (APC: Aspyrin + phenacitin +cafein):
+ Công thức cấu tạo: HOOC – C6H4O – CO – CH3là tinh thể hình tim, có mùi
nhẹ khó tan trong nước lạnh, dễ tan trong cồn và các dung dịch kiềm. Trong dạ dày,
thuốc không bị biến chất; trong ruột non (hành tá tràng), thuốc phân huỷ thành axit
axetic và axit salisilic, do đó ảnh hưởng tới niêm mạc đường tiêu hoá vùng hành tá
tràng, nhất là những có thể bị viêm dạ dày-hành tá tràng.
+ Tác dụng dược lý: Sau khi uống 15 phút cơ thể toát mồ hôi và hạ sốt kéo dài, làm
giảm sốt, giảm đau. Cơ chế tác dụng giống như các loại thuốc hạ sốt khác.
+ Liều dùng: Ngựa: 25-50g/ngày chia 3 lần.
Lợn, tiểu gia súc: 3-7g/ngày.
Tai biến nhẹ gây vật vã, thở nông nhanh, nặng bị hôn mê do nhiễm độc axit hoặc
có thể gây dị ứng, tương kỵ với calomen, urolropin.
Chống chỉ định: Trong các trường hợp viêm dạ dày, viêm tá tràng. chí được uống
sau khi đã ăn no.
Ngày nay, người ta đã sản xuất được nhiều loại thuốc hạ sốt như seda,
paracetamon. tipphi. decolgen... về bản chất không có gr thay đổi chỉ thêm những tác
dụng phụ khác có lợi.
8.3.2.2. Thuộc kháng sinh
Thuốc kháng sinh bắt nguồn từ chữ antibios (anti: chống, bios: sự sống). Kháng
sinh là những chất do vi sinh vật tiết ra hoặc tổng hợp hoá học mà thành, có khả năng
ức chế sinh trưởng và phát triển hoặc tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh.
Tuỳ theo nguồn gốc mà người ta chia kháng sinh thành 2 nhóm lớn là kháng sinh
tổng hợp và kháng sinh sinh vật.
186
8.3.2.2.l. Kháng sinh tổng hợp hoá học
Đại diện là sunphamid và các dẫn xuất của nó.
Tính chất chung:.sunphamid là tên chung chỉ những chất kháng sinh do tổng hợp
hoá học từ dẫn xuất của sunphanilamid hay amino phenyl sunphamid.
Nhìn chung, sunphamid có một số đặc điểm sau:
Tính chất lý học: Đa số sunphamid đều là chất bột trắng, kết tinh nhỏ, không
mùi, hơi chat, rất ít tan trong nước, dễ tan trong kiềm, axeton (có loại có màu đỏ như
protosin của Đức sản xuất). Khi vào cơ thể, phần lớn được hấp thụ qua vách ruột vào
máu và gắn chặt vào protit huyết tương theo tỷ lệ nhất định rồi đi vào khắp các mô
trong cơ thể trừ mô mỡ và mô xương. Đậm độ sau khi uống tử 3-4 giờ là cao nhất ở
trong máu. Ở gia súc có thai, sunphamid được hấp thụ qua nhau thai, ảnh hưởng đến
bào thai và cuối cùng được thải trừ qua thận. Tuỳ theo từng loại sunphamid mà sau 24
giờ. trong cơ thể có từ 33%-83% thuốc được thải ra ngoài qua thận theo nước tiểu.
Trong môi trường axit ở bể thận hoặc niệu đạo thì sunphamid sẽ kết tinh tạo thành sỏi.
Đây là một trong những nguyên nhân gây bệnh sỏi thận ở người.
Cơ chế tác dụng: Cấu tạo của sunphamid gần giống như cấu tạo của phía amino
benzoicaxit (viết tắt là PABA). là một chất rất cần thiết cho sự phân bao của tế bào vi
khuẩn. Là thành phần của một loại enzym của vi khuẩn, là một proenzym trong axit
folic, là yêu tố sinh trưởng quan trọng của vi khuẩn. Nhờ axit folic mà vi khuẩn tổng
hợp được phân, từ đó tổng hợp được axit nucleic (thành phần chính của nhân tế bào vi
khuẩn), vì thế nên nếu thiếu PABA thì vi khuẩn phải tự tổng hợp hoặc ôâsy từ môi
trường. Khi uống sunphamid với nồng độ cao trong cơ thể, do sunphamid có cấu tạo
giống như PABA nên vi khuẩn da hấp thụ nhầm tạo thành hợp chất mới. Hợp chất này
không phù hợp với sự phát triển của vi khuẩn làm cho hệ thống enzym của vi khuẩn bị
rối loạn dẫn đến quá trình tổng hợp nucleic bị ngừng trệ, vi khuẩn không sinh trưởng
và phát triển được, không phân chia tế bào nên vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt trước sức đề
kháng của cơ thể. Sơ đồ cấu trúc hoá học:
187
Vì vậy: Khi dùng sunphamid để điều trị phải dùng liều cao ngay từ đầu để đảm
bảo có nồng độ cao trong cơ thể, nếu liều lượng thấp sẽ làm cho cơ thể vi khuẩn quen
thuốc, vi khuẩn hấp thụ như một thành phần vô hại nên vẫn sinh trưởng phát triển bình
thường. Khả năng này có thể di truyền cho đời sau làm cho khả năng kháng thuốc của
vi khuẩn tăng lên. Đồng thời, chú ý khi điều trị bằng kháng sinh phải tăng cường bồi
dưỡng cơ thể để tăng sức đề kháng của cơ thể vật nuôi đối với vi khuẩn.
- Công dụng: Phạm vi công dụng của sunphamid rất lớn, trong thú y người ta
dùng một số sunphamid để điều trị các bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng như
sufaganidan chữa thương hàn cho trâu bò, sufanilamid chữa vết thương nhiễm trùng có
mủ, sunfathiazol chữa viêm phổi, sunfamerazin chữa tụ huyết trùng ra nhiệt thán.
- Liều dùng: Ngựa 5-20g/ngày, trâu bò lo-20g/ngày. lợn 15g/ngày. Tổng liều điều
trị từ 7-10 ngày. Nếu không khỏi phải thay thuốc khác.
- Những tai biến xảy ra khi dùng sunphamid:
+ Có thể gây chóng mặt, nhức đầu, dễ tạo thành dân chất acetyl hoá không tan
kết tinh trong ống thận làm tắc đường niệu gây sỏi thận, sỏi niệu quản... Vì vậy, khi
uống sunphamíd phải cho uống nhiều nước và dùng kèm với các chất kiềm hoá nước
tiểu như natri hydro cacbon. Tránh dùng chung với methionin và axit glutamic.
+ Có thể gây lở, mẩn ngứa. Ngoài ra, có khi gây tổn thương da kèm theo kiêm
gan, thận vì thế nếu mắc bệnh gan, thận thì không được dùng. Gia súc có chửa hay
đang nuôi con cũng không được dùng.
8.3.2.2.2. Kháng sinh nấm
Kháng sinh nấm là những chất do nấm bài tiết ra, ngày nay người ta đã tìm ra rất
nhiều loại khác nhau có tác dụng kìm hãm vi khuẩn phát triển nhưng chỉ có một số
không độc là dùng được.
* Penicillìne do nhà khoa học Fleming người Anh tìm ra năm 1928, có công thức
cấu tạo:
Tính chất: Penicilline được chia xuất từ một loại nấm mốc penixillumnotatum.
Có rất nhiều loại penicilline do sự khác nhau trong gốc hoá học R-. Những loại
peniciltine có tác dụng mạnh nhất là penicilline G tức benzyn penicilline. Các chế
phẩm muối matri và khu của penicilline G là những thứ đang dùng trong nhân y và thú
y. Penicilline ở dạng bột tinh thể trắng không mùi, vị đắng, tan trong nước, trong cồn,
đồng thời dễ bị phân huỷ ở nhiệt độ cao, độ ẩm không khí cao hoặc dưới tác dụng của
axit. kiềm. các chất oxy hoá và men penicillaza nên người ta dùng penicilline dưới
188
dạng muối nam, kim. Dung dịch để trong phòng sẽ bị phân huỷ dần.
Trong cơ thể, penicilline dễ bị dịch vị và các men tiêu hoá trong đường tiêu hoá
phá huỷ nên chỉ dùng để tiêm mới có tác dụng tốt (trừ penicilline V- còn gọi là
phenoxy metyl penicilline).
Penicilline dùng để tiêm bắp là tác dụng nhanh nhất, nồng độ tối đa trong máu
sau khi liếm 30-60 phút, sau đó giảm gần, có hiệu lực trong khoảng 4 giờ. Do đó, dùng
penicilline phải tiêm nhiêu lần trong ngày, cách nhau 4-6 giờ một lần. Để khắc phục
nhược điểm này người ta diều chế loại penicilline dầu hoặc tiêm với hỗn hợp novocain
để giữ penicilline lâu trong cơ thể.
- Cơ chế tác dụng: Penicilline ngăn cản sự hoạt động của men sinh học trong cơ
thể vi khuẩn, các men này rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển, sinh sản (phân
chia tế bào) vi khuẩn. Penicilline đã làm tê liệt các coenzym acely hoá (COASH) bằng
chất oxy hoá phong bế nhóm -SH và liên kết với - SH tạo thành một chất mới làm cho
men mất hoạt tính sinh học.
Theo Macheboeuk và Gros thì cho rằng: Penicilline đã ức chế sự chuyển hoá của
axit ribonucleic, do đó cản trở sự phân chia tế bào. Một số nhà bác học khác lại cho
rằng penicilline ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn do penicilline đã ức chế men
transapeptidaia là men tham gia tổng hợp glucopeptit, là nguyên liệu chính để tổng
hợp vách tế bào vi khuẩn thuộc nhóm Gr+. Do đó, vi khuẩn không phát triển được và
bị tiêu diệt vì bào tương không ngừng phát triển khi vách tế bào lại không phát triển
dẫn tới tế bào bị vỡ.
- Công dụng: Penicilline ngăn trở sự phát triển và tiêu diệt vi trùng, tác dụng
mạnh nhất trên vi khuẩn Gr+ và một số ít siêu vi trùng. Với các loại vi khuẩn Gr như
trực khuẩn lao, tụ huyết trùng do vách tế bào chỉ có 5-10% là glucopeptit. còn 80-90%
là các hợp chất khác như lipoprotit... nên vi khuẩn không bị Penicilline tiêu diệt.
Penicilline dùng chữa các bệnh viêm thận, viêm màng tim, màng não, bảng quang,
mụn nhọt, bệnh đóng dấu, nhiệt thán... các bệnh do vi khuẩn Gr+ gây nên. Khi điều trị
thường dùng phối hợp với các kháng sinh khác nhằm nâng cao hiệu lực điều trị.
- Dị ứng penicilline: Dùng penicilline ở động vật ít xảy ra tai biến nhưng nhưng
dùng ở người và một số loài gia súc khác như gia cầm, lợn thường gây hiện tượng dị
ứng, mẩn ngứa, sốt, viêm da hoặc sốc quá dẫn đến chết.
+ Nguyên nhân: Do penicilline có bản chất là protit, khi vào cơ thể và đi vào
máu có tác dụng như một loại protit lạ gây hiện tượng tăng tiết hislamin. Histamin có
công thức cấu tạo: R- CH2- NH2 Nếu quá trình tăng tiết histamin xảy ra mạnh, nhanh
sẽ gây những tai biến nghiêm trọng làm ngừng tim, ngạt hô hấp dẫn đến chết. Vì vậy,
phải thử phản ứng penicilline trước khi tiêm.
+ Xử trí: Nếu có phản ứng phải ngừng thuốc ngay và dùng kháng sinh khác để
điều trị. Nếu phản ứng dị ứng xảy ra phải dùng adrenaline, long não để kích thích tim
hoạt động và tiêm các chất kháng histamin để giải độc như dimedrol...
189
Các loại penicilline: Được điều chế dưới dạng muối natri và kali bao gồm nhiều
loại khác nhau:
+ Loại hấp thụ nhanh, thải trừ nhanh: gồm những loại điều chế với những loại
muối dễ tan trong nước như natri benzyl penicilline, kali benzyl penicilline, phenoxy
metyl Penicilline... thường đựng trong ống hay lọ thuỷ tinh với liều lượng từ 100000 -
500000 Ul. Khi pha với nước cất phải dùng ngay, để lâu sẽ mất tác dụng do thuốc sẽ bị
phân huỷ mạnh.
+ Loại hấp thụ chậm. thải trừ chậm: Thường là penicilline novocain khó tan
trong nước, tan trong dầu thảo mộc do đó khuếch tán chậm nên được giữ lại lâu trong
cơ thể. Thông thường cứ 100000UI penixilline pha với 0,04 mg nôvôcain. Nếu pha ở
dạng dung dịch thì cứ 1ml dung dịch dầu pha 300000UI penicilline. Khi dùng tiêm
dưới da hoặc tiêm bắp.
8.3.2.2.3. Kháng sinh do xạ khuẩn riết ra
Đại diện là streptomicine và tetracycline
- Streptomicine:
+ Tính chất: Streptomicine là loại kháng sinh được phân lập từ xạ khuẩn
streptomicesgriceus hay artynomyces globisporus. Streptomicine hoàn nguyên do
hydro xúc tác có màu trắng ngà, khó tan trong nước hoặc dung dịch muối đẳng trương.
Bột khô chịu được nhiệt độ cao, khó hỏng. Dung dịch pha bền vững hơn penicilline ở
370C, dung dịch bảo quản 15 ngày vẫn còn tác dụng. 11000C chỉ hỏng 50%.
Các chế phẩm thường dùng là streptomicine sunphat và dihydro streptomicin
sunphat. Streptomicíne có tính bazơ và dễ tạo thành muối với các axit khác nhau. Chế
phẩm dễ hút ẩm, dễ tan trong nước hơn, dễ bị phân huỷ khi đun sôi hoặc dưới tác dụng
của axit và kiềm.
Muối của nó bền vừng hơn, hoạt tính của strcptomicine tinh khiết tính theo đơn
vị tác dụng là l1gr streptomicine. Thuốc không hấp thụ qua đường ruột nên chỉ dùng
để tiêm. Chi uống khi dùng để điêu trị bệnh đường ruột.
+ Cơ chế tác dụng: Streptomicine ức chế vi khuẩn bằng cách ức chê một số men
diaminoxydaza do đó ức chế sự tổng hợp một số loại axit amin làm tổn thương màng
tế bào vi khuẩn, làm mất khả năng tổng hợp nucleic gây rối loạn tổng hợp protit.
Nhiều nhà bác học cho rằng streptomicine đã gắn vào đơn vị 30 S của riboxom làm mà
di truyền bị đọc sai. Phân mã UUU bị đọc là AUU thành ra izolơxin đã nhập mạch
thay phenylalanin, làm vi khuẩn không có khả năng tạo phản ứng với ARNt, do đó quá
trình tổng hợp protit của vi khuẩn bị rối loạn nên vi khuẩn không phát triển được.
+ Trong thú y, streptomicine dùng để tiêm dưới da, tiêm bắp.
Thuốc tồn tại trong cơ thể khoảng 12 giờ, thải trừ qua thận. mật và nước tiểu,
phân khoảng 2-3 giờ đầu thải 3-35%, một số còn lại được giữ lại và thải dần ra ngoài
sau 12 giờ. Nếu điều trị bằng streptomicine, mỗi ngày chỉ cần tiêm 1-2 lần, cách nhau
190
10 giờ.
+ Độc tính: Tác dụng gây độc cho cơ thể, phong bế dây thần kinh thính giác. gây
điếc, tổn thương mạnh ở ốc tai và dây thần kinh thị giác, sử dụng lâu ngày gây nhiều
phản ứng khác nhau cho cơ thể như ỉa chảy,viêm da toàn thân, choáng. Chỉ nên điều trì
7-10 ngày.
+ Công dụng: Trong thú y dùng chữa các bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng do vi
khuẩn Gr- gây nên như lụ huyết trùng, sẩy thai truyền nhiễm, lao, thương hàn.
+ Liều dùng: Trâu, bò, ngựa: 2000-4000 mg/1kg thể trọng.
Cừu lợn: 4000-6000 mg/1kg thể trọng.
Nhóm tetracycline:
+ Tính chất: Tetracycline là những kháng sinh được phân lập từ các loại xạ
khuẩn stretomices auregraciens bao gồm oureomycine, chlotetracyline teramicine...
oxytetracycline được phân lập từ streptomices rimosus. Tetracycline được phân lập từ
streptomices abboniger.
Phổ tác dụng của nhóm tetracycline rất rộng, có thể tác dụng hầu hết các loại vi
trùng Gr- và Gr+, ricketsia và một số loại siêu vi trùng, cả động vật nguyên sinh
prolozoa.
Tetracycline linh khiết là tinh thể màu vàng, vị đắng tan trong 77 phần nước, đơn
vị tác dụng tương đương 1 gµ (1 triệu đơn vị trong lgr). Tetracyclinc dễ bị hấp thụ và
thải trừ nhanh, trong đường tiêu hoá, nó không bị phá huỷ, khi vào cơ thể dễ tạo tổ hợp
với can xi photphat gây vàng xương.
+ Cơ chê tác dụng: Tetracycline ức chế một số men gắn với nhiều nhân tố hoá
học có hoá trị hai như Mn. Mg, Ca.. làm rối loạn quá trình tổng hợp B12 và protit. Đặc
biệt là axit nucleic làm vi khuẩn không sinh trưởng được và bị tiêu diệt.
+ Công dụng. liều dùng: Điều trị các bệnh phó thương hàn, rối loạn tiêu hoá ở
gia súc, liều 0,01 – 0,03g/kgp. Bệnh bạch lỵ ở gà con lg/100gà 10 ngày tuổi và nhiều
bệnh truyền nhiễm khác, có thể pha thuốc mỡ, nhỏ mắt, bôi ngoài da... nồng độ 1-2%
đối với dung dịch.
+ Độc tính: Tetracycline gây rối loạn tiêu hoá ở gia súc non, do đó nó diệt cả vi
khuẩn đường ruột nếu dùng để uống, gây bệnh nấm phổi dẫn tới phù phổi cấp, gây tai
biến rối loạn hoạt động gan thận...
8.3.2.2.4. Kháng sinh do vi khuẩn bài tiết ra
Phổ biến là loại vi khuẩn bacillus saptiles tiết ra kháng sinh baxitracine và
suptilis chữa bệnh lỵ, trực trùng amip, lao phổi, lao ruột.
8.3.2.2.5. Kháng sinh do động, thực vật, tiết ra
Đại diện như lyrozym trong dung dịch nước bọt, nước mắt, mũi, dịch phúc mạc,
có tác dụng dung giải tế bào vi khuẩn.
191
Ngoài ra, trong tự nhiên còn rất nhiều loại kháng sinh thảo mộc như alixin trong
củ tỏi, chất kháng sinh trong cây thảo mộc, cây xuyên tâm liên... nên việc nghiên cứu
các thuốc nam chữa bệnh rất cần thiết đối với nước ta vì kháng sinh thảo mộc dễ trồng,
rẻ tiền mà tiện lợi khi sử dụng.
8.3.2.2.6. Ứng dụng công nghệ gen trong sản xuấ thuốc kháng sinh
Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 2500 loại kháng sinh khác nhau. Kháng
sinh được sản suất bằng nuôi cấy vi sinh vật (chủ yếu là nấm), chiết suất lấy các dịch
tiết của chúng trong môi trường nuôi cấy và tinh chế để tạo ra kháng sinh.
Để tăng năng suất tạo kháng sinh. trước kia người ta dùng 2 biện pháp:
1. Gây tạo đột biến ngẫu nhiên và chọn lấy những dòng vi sinh vật cho năng suất
cao nhất.
2. Thử nghiệm các loại môi trường nuôi cấy để chọn môi trường thích hợp nhất.
Cả hai phương pháp này đều cho kết quả nhưng cần nhiều thời gian và công sức.
Ngày nay, ứng dụng công nghệ tiên để sản suất thuốc kháng sinh không chỉ giúp
tăng năng suất tổng hợp kháng sinh mà còn có khả năng tạo ra được các loại kháng
sinh mới. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi tình trạng nhờn thuốc, kháng
thuốc của vi khuẩn gây bệnh ngày càng tăng
8.3.2.3. Vacxin và huyết thanh
8.3.2.3.1. Vacxin:
Nguồn gốc từ chữ Vacination là chữ La tinh có gốc là vacina nghĩa là đậu mùa
bò, do nhà bác học người Anh tên là Jene phátminh, ông lấy những nốt đậu mùa trên
bò bị bệnh, nghiền nát rồi hoà với nước sinh lý và kháng sinh rồi chủng cho bò thì thấy
bò không bị mắc bệnh trong khi những con không được chủng thì bị mắc bệnh. Sau
đó. đã được nhà bác học Pasleu xây dựng thành một ngành khoa học rộng lớn và hoàn
chỉnh quy trình sản xuất vacxin.
* Khái niệm: Vacxin là thuốc sinh vật được chế từ vi trùng, siêu vi trùng đã bị
giết chết hay làm giảm độc lực dùng để phòng bệnh truyền nhiễm cho vật nuôi. Vacxin
gồm nhiều loại khác nhau, căn cứ vào trạng thái vi sinh vật chứa trong vacxin. Người
ta chia làm 2 loại: Vacxin nhược độc và vacxin vô hoạt.
- Vacxin nhược độc: Là những vacxin được chế từ vi trùng, siêu vi trùng còn
sống nhưng đã làm giảm độc lực, không còn khả năng gây bệnh cho vật nuôi.
Phương pháp chế tạo: Tiêm vi trùng, siêu vi trùng gây bệnh cho động vật khác
loài.
Ví dụ: Siêu vi trùng dịch tả lợn tiêm qua 150 đời thỏ cho đến khi siêu vi trùng
thích nghi với thỏ. Khi không còn thích nghi với lợn nữa thì người ta tiêm cho bê để
lấy phủ tạng những cơ quan mà siêu vi trùng khu trú, đem nghiền nát, hoà vào dung
dịch nước muối sinh lý 9% với tỷ lệ 1/200. Diệt tạp trùng bằng kháng sinh
streptomicine và peniciline rồi lọc qua 8 lớp vải màn hoặc qua 4 lần vải phin thưa,
192
mỏng thu được huyết dịch có siêu vi trùng nhược độc dùng để tiêm phòng cho gia súc.
- Vacxìn vô hoạt: Là loại vacxin được chế từ vi trùng, siêu vi trùng cường độc
nhưng đã bị giết chết bởi nhiệt độ, formon hay hoá chất nhưng vẫn giữ được tính
kháng nguyên. Được pha chế trong dung dịch keo phèn và glyxerin làm chất hấp
ngưng. Loại vacxin này sử dụng an toàn nhưng thời gian miễn dịch ngắn.
Phương pháp pha chế: Lấy hạch lách, phú tạng của vật nuôi bị bệnh, nghiền nát.
hoà với nước muối sinh lý thu được huyết dịch rồi lọc kỹ qua 8 lớp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gt_co_so_chan_nuoi_177_2703.pdf