Giáo trình Công thức của vận may
Latané cho rằng đối với Quỹ tương hỗ và Quỹ lương hưu
thì "rất khó để nhận diện được những hữu dụng còn tiềm
ẩn cũng như nói chính xác khi nào thì hữu dụng đạt mức
tối đa". Người thủ quỹ cũng giống như đầu bếp trong quân
đội. Quả là không thể biết được hết khẩu vị của từng người
đối với muối - và rủi ro cũng vậy.
Thorp làm công việc quản lý tài chính không chỉ cho các cá
nhân giàu có mà còn cho quỹ lương hưu của các công ty và
Quỹ hỗ trợ vốn cho Đại học Harvard. Đối với hầu hết
những nhà đầu tư, công ty Princeton-Newport chỉ là một
trong nhiều vụ đầu tư. Các nhà đầu tư có thể tự phân bố tài
sản của họ. Công việc của Thorp là cung cấp những giải
pháp tài chính hấp dẫn. Rõ ràng là các nhà đầu tư, đánh giá
nguồn quỹ của mình chủ yếu qua suất sinh lợi hiệu chỉnh
theo rủi ro.
Trong các bài báo đăng năm 1972 và 1976, Harry
Markowitz đã nêu ra lập luận này một cách thuyết phục
hơn. Markowitz cho rằng, nên gọi hàm hữu dụng của các
nhà đầu tư dài hạn là lợi nhuận kép chứ không phải là số
của cải thu được theo từng quý. Hãy tướng tượng bạn
đang lựa chọn giữa hai quỹ tương hỗ. Nếu là một nhà đầu
tư dài hạn, có thể bạn cũng không rõ mình sẽ đầu tư bao
lâu và mình sẽ làm gì với số tiền lời trong tương lai. Chắc
chắn bạn sẽ chọn quỹ nào mà bạn tin rằng có tỉ suất lợi
nhuận kép cao hơn. Chẳng có nhiều căn cứ để bạn tính
được rằng trong rất nhiều năm, mình sẽ có lượng tiền X từ
quỹ này hay một lượng tiền Y từ quỹ kia. Càng khó hơn để
quyết định xem bạn nên mua gì với số tiền đó và bạn thíchlượng tiền X hơn lượng tiền Y là bao nhiêu. Lãi suất kép là
tiêu chuẩn hợp lý duy nhất để quyết định một hình thức
đầu tư dài hạn này được ưa thích hơn hình thức kia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_cong_thuc_cua_van_may.pdf