Giáo trình Đa dạng sinh học

Những mối de dọa lớn nhất hiện nay tới loài hổ là có thể kể là:

Nơi cư trú bị mất mát: để có thể sống được ngoài thiên nhiên hoang dã, các loài hổ cần phải có nước để uống, các loài động vật để ăn thịt và thực vật để ẩn náu. Khi mà các vùng núi, các bụi rậm, các khu rừng, đồng cỏ là nơi cư trú cho hổ bị biến mất, thì cũng đến lượt hổ bị mất đi. Mở rộng nông nghiệp, đốn gỗ, phát triển đường sá, mở rộng công nghiệp và các đập thuỷ điện đã thúc đẩy các loài hổ vào những vùng đất nhỏ hơn. Những cánh rừng bị chia cắt được bao bọc bởi bởi sự phát triển nhanh chóng cua cộng đồng tương đối nghèo khó, làm gia tăng việc săn bắn trái phép. Không có nơi hoang dã, các loài hổ sẽ không tồn tại.

Sự phát triển dân số: dân số Châu Á bùng nổ, đòi hỏi càng nhiều đất chuyển đổi cho phát triển nông nghiệp. Hầu hết các vùng đất thấp ở Châu Á đã bị khai hoang cho việc trồng lúa. Ví dụ như ở Ấn Độ, khoảng 60% các loài hổ vẫn còn lang thang, do dân số tăng 50% trong vòng 20 năm qua. Dân số Trung Quốc tăng gấp đôi trong 40 năm qua, và gần 99% các nơi cư trú nguyên thuỷ là rừng của Trung Quốc bị phá huỷ.

 

doc113 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 653 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Đa dạng sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ của con người trên thế giới. Các ví dụ phổ biến của các loại thuốc dựa vào thực vật bao gồm: Quinin dùng trị bệnh sốt rét, morphin làm giảm đau và thuốc trị ung thư. Các vi sinh vật ngoài ra rất quan trọng đối với sức khoẻ con người- như thuốc kháng sinh penicillin là rất phổ biến. Các sản phẩm tự nhiên còn có giá trị quan trọng như thuốc diệt côn trùng, góp phần cho sức khoẻ con người thông qua việc nâng cao năng suất nông nghiệp và trong kiểm soát các bệnh do con trùng gây ra.      Đa dạng sinh học có ý nghĩa quan trọng đối với bệnh tật và sự chết chóc ở vị thành niên và trẻ em. Ví dụ:                         + Hàng loạt các chất kháng sinh được lấy từ các vi sinh vật sống trong đất của vùng nhiệt đới như: tetracycline và erythromycin, chúng được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh dịch ở tuổi vị thành niên và trẻ em. Khi các vi khuẩn phát triển trở nên kháng thuốc mạnh với các kháng sinh đang dùng thì việc nghiên cứu tìm kiếm một loại mới là hết sức cấp bách.                         + Sự đau ốm lan tràn, bệnh hemolytic ở trẻ sơ sinh đã được chế ngự bởi sự hiểu biết về cơ chế  xung khắc của nhân tố rezut (Rh) trong máu giữa Rh âm tính của mẹ Rh dương tính trong bào thai - sự hiểu biết đó được lấy từ kinh nghiệm trong nghiên cứu ở khỉ Rhesus và các loài linh trưởng khác.             + Bệnh sán máng ký sinh đã trở thành dịch ở 74 nước đang phát triển, gây nhiễm hơn 200 triệu người ở vùng nông nghiệp nông thôn ven đô thị. Sán máng xuất hiện trong nước ngọt qua vật chủ trung gian là ốc. Con người bị nhiễm bởi việc tiếp xúc với nước nơi có ốc bị nhiễm sinh sống. Các cây thuốc và động vật làm thuốc truyền thống góp phần bảo vệ sức khỏe cho hơn 80% dân số trên thế giới, ước tính khoảng 4,5 tỷ người. 57% của hơn 150 phương thuốc điều trị có nguồn gốc từ sinh vật trong tự nhiên. Nếu đa dạng sinh học của các hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp lương thực thực phẩm, nước hay vệ sinh sẽ làm giảm khả năng đề kháng và gây nguy cơ dịch bệnh cho con người.  4.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng và đa dạng sinh học             Hệ thống giao thông thường có phạm vi phân bố rộng hoặc hình thành mạng lưới rộng khắp, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của địa phương hoặc vùng. Những tác động trực tiếp bao gồm giết chết sinh vật trên đường (hầu hết là thú), làm xáo trộn (đốn ngã cây ven đường, tăng tiếng ồn,...). Hầu hết các tác động như vậy xuất hiện trong giai đoạn xây dựng hoặc kết quả từ hoạt động giao thông. Những tác động gián tiếp thông thường trầm trọng hơn đối với đa dạng sinh học, như tăng cường khai thác ở những vùng hẻo lánh thường dẫn đến khai thác tài nguyên không bền vững, thay đổi quần thể và sử dụng đất.             Xây dựng cơ sở hạ tầng thường có những tác động lớn đến đa dạng sinh học như sau:             + Nơi ở bị mất và xáo trộn: Hầu hết các dự án giao thông là làm giảm diện tích nơi ở tự nhiên. Mất nơi ở xuất hiện trong vùng sử dụng lâu dài cho cơ sở hạ tầng và trong những vùng khai thác cho xây dựng hoặc   chứa đựng vật liệu. Nơi ở bị mất thường xuất hiện trong thời gian xây dựng, còn sự xáo trộn xuất hiện cả trong thời gian xây dựng và hoạt động. Các cấp độ xáo trộn nguyên nhân từ tiếng ồn trong giao thông cao và có xu hướng tăng lên theo thời gian, ngăn cản động vật hoang dã xuất hiện trong những vùng xáo động mạnh (ở những con đường có cường độ hoạt động giao thông cao, thường các loài động vật hoang dã xuất hiện cách đường xa hơn 400mét).             + Tác động ngăn cách: xuất hiện khi các loài không có khả năng hoặc bất đắt dĩ phải băng qua đường giao thông, sự ngăn cách như vậy làm cản trở dòng di truyền trong một quần thể. Đường bộ, đường sắt và đường thuỷ đều có tác động ngăn cách, vì vậy cầu cống, đường hầm và đường đi của động vật hoang dã là quan trọng.             + Nơi ở bị chia cắt hoặc cô lập: xuất hiện khi nơi ở tự nhiên bị chia cắt, nơi ở chật hơn và bị vây quanh bởi một nơi không thể trú ngụ được. Thông thường, các khối liên tục tạo nên nơi ở ổn định hơn, nuôi dưỡng nhiều loài hơn một vùng tương đương mà nơi ở bị chia cắt thành từng phần. Nơi ở bị chia cắt tỷ lệ với sự xáo trộn, ô nhiễm và sự xâm chiếm của loài ngoại lai.             + Tỷ lệ tử vong có lẽ do nhiều nguyên nhân: Một số lớn thú đang bị săn bắt gần những nơi có công trình xây dựng hoặc dễ dàng bắt giữ, săn bắn, bẫy bất cứ ở đâu mà hệ thống giao thông được nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi để vào nơi ở của động vật hoang dã và thị trường. Ngoài ra, sự va chạm giữa động vật hoang dã với phương tiện giao thông cũng là nguyên nhân gây chết các loài động vật.             + Sự ô nhiễm: có thể ảnh hưởng đến không khí, đất, nước. Sự lắng đọng các chất ô nhiễm trong khí quyển và tích luỹ trong đất là nguyên nhân làm thay đổi các loài thực vật dọc theo các tuyến đường bộ, đường sắt và hàng không.             + Sự chiếm cứ của các loài ngoại lai: liên quan đến những nơi có hành lang giao thông, thường là không cố ý. Các loài cỏ dại phát tán dọc theo đường bộ đường sắt và các loài ký sinh, ăn thịt hoặc phá huỷ sinh vật dọc theo đường thuỷ. Sự định cư dọc theo các hành lang giao thông có thể là kết quả từ sự cạnh tranh giữa vật nuôi và vật hoang dại, sự phát tán dịch bệnh hay những thay đổi cục bộ trong các vụ mùa.  4.4. Du lịch và đa dạng sinh học             Chất lượng môi trường tự nhiên của chúng ta mang lại cho nhiều nước đang phát triển những lợi thế tương đối trong du lịch. Du lịch có thể thu nhận được một số sự chi trả của toàn cầu cho đa dạng sinh học bằng cách nâng cao quĩ đầu tư cho bảo tồn và sử dụng bền vững, có thể nâng cao nhận thức cho các nước đang phát triển về giá trị của đa dạng sinh học. Nhưng du lịch cũng có thể đe doạ đến tài nguyên sinh học do những hoạt động kinh tế kèm theo. Vì vậy, một thách thức lớn là nâng cao lợi ích kinh tế nhưng phải giới hạn những tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội.             Du lịch là một phần quan trọng của kinh tế toàn cầu. Theo Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới, du lịch và lữ hành toàn cầu trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra 11% GDP toàn cầu. Cung cấp 200 triệu việc làm, chiếm 8% tổng công việc trên thế giới; ước tính 5,5% triệu việc làm mới sẽ được tạo ra mỗi năm trong ngành du lịch tính đến năm 2010.             Các cơ hội phát triển du lịch tiếp tục được mở rộng khi số du khách đang tăng lên, nhưng các hoạt động du lịch không cân bằng giữa các vùng khác nhau và các lục địa khác nhau. Ở châu Phi, khoảng 50% du khách chỉ đến thăm phía Bắc và hầu hết nghỉ ngơi để đến phía Nam và Tây châu Phi.             Lợi ích của du lịch:             Các nước vùng nhiệt đới cần phải sử dụng lợi ích của du lịch để khuyến khích cộng đồng địa phương duy trì bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững. Đây là một trong những thách thức lớn nhất để phát triển, vấn đề này có thể được làm đặc biệt ở nơi mà:                         + tương đối an toàn hoặc có quyền nắm giữ toàn bộ tài nguyên đất đai và sinh học - đây là vấn đề cơ bản để các cộng đồng địa phương có khả năng tham gia vào quyết định và hưởng lợi từ du lịch;                         + các cộng đồng địa phương có các kỹ năng tham gia  quản lý và kinh doanh trong du lịch;                         + quan hệ trực tiếp đến kinh tế thông qua việc làm của lao động địa phương hoặc hưởng lợi từ hàng hoá và dịch vụ;             Mối liên hệ giữa cộng đồng địa phương và phát triển kinh tế có thể thay đổi mô hình khuyến khích cải thiện sử dụng đa dạng sinh học. Nơi mà cộng đồng địa phương kiếm được thu nhập đáng kể thông qua tham gia vào du lịch, du lịch có thể thay thé chiến lược sinh kế tránh khỏi sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học. Nhưng ở những mà lợi ích từ du lịch thấp hơn, họ có thể đầu tư cho những hoạt động không hổ trợ cho đa dạng sinh học hoặc đe doạ đến đa dạng sinh học.             Du lịch có thể làm giảm tài nguyên thiên nhiên của địa phương, ví dụ, nơi dùng để nhìn ngắm có xu hướng làm thu hẹp đến nghiêm ngặt ở những vùng mà dân cư địa phương có thể khai thác tài nguyên hoang dã.  Đây có thể là những tác động tiêu cực lên tài nguyên đa dạng sinh học do việc tập trung khai thác tài nguyên của địa phương trong một diện tích nhỏ hơn hoặc do sự yếu kém trong hệ thống quản lý của địa phương. Cơ hội nâng cao sinh kế thông qua du lịch vì vậy rất hay thay đổi cũng như tác động của nó.             Tác động của du lịch:             Du lịch số đông với điểm đến là đô thị hoặc vùng nghỉ dưỡng thường tác động nhỏ đến đa dạng sinh học, đặc biệt là những điểm đến hoàn toàn đã được phát triển. Nhưng tất cả các dạng du lịch số đông phụ thuộc một vài phạm vi của các quá trình môi trường và chức năng hệ sinh thái. Du lịch số đông có thể tác động đáng kể thông quả sử dụng tài nguyên quá mức, ô nhiễm và các công trình xây dựng             Du lịch dựa vào thiên nhiên: các du khách bị hấp dẫn bởi các hệ sinh thái mỏng manh và vì vậy phải chịu thương tổn đáng kể từ việc làm giảm hoặc xáo trộn nơi ở của sinh vật hoang dã. Số lượng du khách tăng lên tác động đến tập tính của động vật hoang dã chưa được nghiên cứu nhiều nhưng là bằng chứng cần thiết để lo lắng về vấn đề này.  4.5. Vật nuôi và đa dạng sinh học             Một khảo sát cho thấy rằng các vật nuôi góp phần vào sinh kế của ít nhất 70% người nghèo vùng nông thôn trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều giống vật nuôi đang trong tình trạng bị đe doạ về sự thoái hoá di truyền, vì vậy cần được quan tâm để đảm bảo không liên quan đến các mục tiêu phát triển trong tương lai. Hơn nữa, sự tác động của việc thay đổi cơ cấu năng suất vật nuôi lên môi trường cũng như những vấn đề liên quan cần được quan tâm.             Các loài động vật đã được thuần hoá từ 12 nghìn năm trước. trong số 40 nghìn loài có xương sống trên trái đất, có 40 loài đã được chọn sử dụng cho các mục đích khác nhau của con người trong nuôi dưỡng và thuần hoá. Trong đó chỉ có 14 loài cho năng suất hơn 90% năng suất vật nuôi toàn cầu.             Gần 1,96 tỷ người sống dựa vào sự cung cấp của các vật nuôi cho những nhu cầu cần thiết hàng ngày. Các vật nuôi và sản phẩm của nó cung cấp ít nhất 30% nhu cầu của con người làm thực phẩm và sản xuất nông nghiệp ở những dạng khác nhau như: thịt, sữa, các sản phầm từ sửa, trứng, lông,....Khoảng 250 triệu cá thể động vật cung cấp 60% năng lượng thô cho đất nông nghiệp, trong đó lớn nhất là ở châu Phi và Nam Mỹ, phân của vật nuôi bổ sung khoảng 70% dinh dưỡng cho đất ở các nước đang phát triển.             Các vật nuôi không chỉ cung cấp cho các tiểu nông nguồn thực phẩm mà còn thu nhập của họ. Ở Mali, 78% thu nhập nhận được từ các trang trại hỗn hợp nhỏ có nuôi động vật. Năng suất thịt toàn cầu cho thấy 54% là từ vật nuôi trong các đồng cỏ, 37% từ hệ thống nuôi công nghiệp và 9% từ hệ thống trang trại hỗn hợp. Các loài vật nuôi có thể thực hiện thành công ở những vùng đất khô hạn hoặc bán khô hạn, nơi mà không phù hợp cho nông nghiệp, năng suất vật nuôi liên tục tăng trong vùng đất khô hạn nhờ các chủ trang trại đã có các phương tiện và áp dụng tốt nhất cho hoạt động đó vừa làm phục hồi các hệ sinh thái.             Trong số 14 loài được thuần dưỡng có 3831 giống được tạo ra trong thế kỷ 20. Trong đó có 618 giống chiếm 16% đã bị tuyệt chủng và 15% xếp vào loại nguy cấp. Sự mất mát này là quan trọng. Nhóm gen của vật nuôi là nhỏ bởi vì chỉ có một ít có quan hệ với vật hoang dã, nghĩa là những nhóm bị mất đi có thể không được bù đắp từ các nguồn gen khác.             Sự suy thoái di truyền của vật nuôi có nguyên nhân từ việc thay thế các giống đang được nuôi với một sự chọn lọc nhỏ từ các giống có năng suất cao. Nguyên nhân này không chỉ từ sự thay thế mà còn từ sự tạp giao chéo, sự loại giống thông qua thay đổi hệ thống sản phấm. Sự hạn chế hoặc khuyến khích sử dụng các vật nuôi nào đó hoặc hệ thống sản xuất đã dẫn đến thay đổi giống vật nuôi có tính chiến lược đã làm mất đi các giống địa phương hoặc làm mất các đặc trưng thích nghi của chúng.             Các vật nuôi có thể tác động có lợi cho các đồng cỏ trong những điều kiện tối ưu như:                         + Các loài ăn cỏ có thể làm đa dạng lớp thực vật bề mặt của các vùng đất hoặc đồng cỏ.                         + Hoạt động của vật ăn cỏ thấp hoặc có mức độ ở những vùng bán khô hạn làm tăng khả năng thấm nước trong đất.             Tuy nhiên, chúng cũng có những tác động tiêu cực:                         + Ở những vùng bán khô hạn, cỏ bị suy giảm và đất bị xói mòn có nguyên nhân từ việc chăn thả và sử dụng cỏ quá mức do quần thể vật nuôi quá cao. Điều này có liên quan đến sự tăng định cư của con người đã gây nhiều ảnh hưởng như: tăng cường canh tác lên vùng đất sử dụng cho vật ăn cỏ, khai thác nhiên liệu gổ củi, khai thác quá mức lên vùng đất phục hồi và làm giảm hoạt động của các đàn gia súc.             Ở những nơi có mật độ dân số cao như Đông Á, ở đó mật đô dân số và vật nuôi đều cao và thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi cao, nguồn dinh dưỡng thu được từ năng suất nuôi công nghiệp và chất thải động vật đã vượt quá khả năng hấp thu của đất và nước, kết quả làm mất đa dạng sinh học, ô nhiễm nước ngầm, gây phú dưỡng hệ thống thuỷ vực và ô nhiễm đất. Ngược lại, số lượng vật nuôi cao trong hệ thống nuôi trồng của các tiểu nông ở Đông Phi và Đông Nam Á lại góp phần tích cực cho sự ổn định của nông nghiệp nhờ vào việc nâng cao dinh dưỡng cho đất và năng lượng thô thông qua sự cung cấp phân từ vật nuôi.             Kinh tế cấp độ lớn bị khủng hoảng trong thời gian từ 1970 đên 1980 đã dẫn đến mất một diện tích lớn của rừng từ sự thay đổi trong chăn nuôi. Ước tính 44% rừng bị tàn phá ở Trung Mỹ là kết quả từ các nông trại ở vùng giáp rừng.             Ở mức độ toàn cầu, hoạt động chăn nuôi góp phần đáng kể các khí CO2, NO2, và CH4, đó là những khí nhà kính gây hiện tượng ấm lên toàn cầu. 4.6. Nghề cá và đa dạng sinh học             Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng đối với các nước đang phát triển trên toàn cầu. Vai trò của nghề cá trong việc cung cấp sinh kế cho cộng đồng ở vùng nông thôn cũng không kém phần quan trọng. Khoảng 75% bề mặt trái đất được bao phủ bởi nước, có khoảng 28.000 loài cá được ghi nhận sống trong môi trường nước trong đó 40% sống ở nước ngọt. Khoảng 25% các loài cá biển sống trong các rạn san hô. Các loài thuỷ sản đã cung cấp cho con người các nguồn thực phẩm cốt yếu: protein, mỡ, dầu, vitamin và khoáng chất. Khoảng 60% protein động vật ở Indonesia và 50% ở Ghana được cung cấp từ cá. Hơn 13 triệu người trong vùng đồng bằng cửa sông ở Bangladesh có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nghề cá ở một vài thời điểm trong năm, ở đây hầu hết các loại cá đều được tiêu thụ, không kể nhỏ. Trong hai thập kỷ qua, năng suất đánh bắt thuỷ sản trên thế giới tương đối ổn định. Hiện nay, khoảng 44% năng suất của biển đã được khai thác, trong đó 25% là cá. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này đang bị đe doạ bởi sức ép từ sự khai thác quá mức đến ô nhiễm các thuỷ vực.              Việc khai thác quá mức đã tác động lớn đến đa dạng sinh học dẫn đến kiệt quệ nguồn cá khai thác. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của hệ sinh thái biển, bao gồm cả năng suất. Do đó cần phải có các qui tắc và khuyến khích về đạo đức nghề cá, duy trì năng suất, đa dạng sinh học và môi trường. Tuy nhiên, cá là một nguồn tài nguyên mở và di chuyển, do vậy việc xây dựng các khái niệm và áp chế là một vấn đề hạn chế. Đây là một vấn đề nghiêm trọng bởi thiếu các thông tin chính xác để thiết lập các quy tắc và thoả thuận nghề cá quốc tế, điều này đã góp phần tiếp tục khai thác quá mức. Những vấn đề đó đã bị bỏ qua do những thành tựu kinh tế đạt được từ nghề cá, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Những tác động lên năng suất cá và môi trường biển thường dẫn đến những xung đột với các sinh kế thủ công ở vùng ven bờ.             Vì vậy, quản lý đa dạng sinh học và nghề cá tự nó phải dựa vào sự sở hữu các thông tin chính xác, các nước đang phát triển cần phải chấp nhận các thể chế phù hợp nhất ở các mức độ: cộng đồng, quốc gia và vùng. Việc xây dựng năng lực về thông tin, giáo dục và khả năng nghiên cứu ở các nước đang phát triển là đặt biệt quan trọng.               4.7. Đa dạng sinh học và đa dạng văn hoá Suy thoái tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học không chỉ đơn thuần là do nhu cầu phát triển kinh tế, hay do áp lực dân số ngày càng tăng lên mà còn là vấn đế rất phức tạp liên quan đến lối sống của con người, phong tục tập quán, thái độ hành vi của từng cá nhân, của cộng đồng, dân tộc. Hay nói cách khác là truyền thống văn hoá. Truyền thống văn hoá được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, được hình thành dưới nhiều dạng khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Trong mối quan hệ giữa văn hoá với tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc thể hiện ở thế ứng xử của dân tộc ấy. Mỗi tộc người có một nền văn hoá riêng và quan niệm riêng về tài nguyên thiên nhiên; trong cách ứng xử cũng được thể hiện một cách khác nhau. Vì vậy, đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa thường liên quan với nhau. Những khu vực nhiệt đới rừng thiêng nước độc trên thế giới, nơi tập trung cao mật độ các loài cũng thường là những nơi con người có sự phong phú đa dạng nhất về ngôn ngữ và văn hóa. Những sự tách biệt về địa lý do núi, sông thường thuận lợi cho nhiều loài phát triển và cũng thuận lợi cho sự khác biệt giữa các nền văn hóa nhân loại. Sự đa dạng văn hóa tìm thấy được ở những nơi như Trung Phi, Amazôn, Niu Ghinê và Đông Nam Á đại diện cho một trong những di sản văn hóa của xã hội loài người, cung cấp cái nhìn toàn diện cho triết học, tôn giáo học, âm nhạc, nghệ thuật, quản lý tài nguyên và tâm lý học. Việc bảo vệ những nền văn hóa truyền thống đó trong môi trường tự nhiên của nó sẽ tạo cơ hội để đạt được cả hai mục đích: bảo vệ đa dạng sinh học và duy trì đa dạng văn hóa. Đa dạng văn hóa gắn bó chặt chẽ với đa dạng gen của nhiều loại cây trồng. Đặc biệt ở khu vực miền núi, những nền văn hóa bị cách biệt bởi nhân tố địa lý, cho phép phát triển nhiều giống cây bản địa; những cây trồng này thích ứng với khí hậu, đất và các loài sâu hại địa phương và rất phù hợp với khẩu vị của dân cư ở đây. Những quỹ gen của các cây này có một ý nghĩa to lớn cho nền nông nghiệp hiện đại trên toàn cầu bởi vì chúng chứa đựng những tiềm năng cho việc cải thiện những giống cây trồng mới. 4.8. Một số nguyên lý áp dụng ở các khu bảo tồn và dân địa phương. Nguyên lý 1. Dân địa phương có những mối liên kết lâu đời với thiên nhiên và có sự hiểu biết sâu rộng về thiên nhiên. Người dân bản địa truyền thống thường góp phần quan trọng vào việc duy trì nhiều hệ sinh thái nhạy cảm trên trái đất thông qua việc sử dụng bền vững tài nguyên theo truyền thống và nền văn hoá dựa vào sự tôn trọng thiên nhiên. Do vậy, sẽ không có những xung đột gắn liền với mục tiêu của khu vực bảo tồn và sự hiện diện của những người bản địa truyền thống trong và ngoài phạm vi khu vực. Hơn nữa, họ sẽ nhận thấy sự đúng đắn và công bằng của các bên tham gia trong việc phát triển và thực thi các chiến lược bảo tồn ảnh hưởng đến đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ và đặc biệt trong việc thiết lập và quản lý các khu bảo vệ. Nguyên lý 2. Những thoả thuận giữa các tổ chức bảo tồn (gồm các cơ quan quản lý khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống) đối với việc thành lập và quản lý khu bảo vệ sẽ dựa vào việc tôn trọng đầy đủ đối với quyền lợi của người dân bản địa truyền thống trong việc sử dụng truyền thống và bền vững đất đai, lãnh thổ, nguồn nước, vùng bờ và các nguồn tài nguyên khác của họ. Đồng thời, các thoả thuận như thế cũng sẽ thừa nhận trách nhiệm của dân bản địa họ trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, tính thống nhất sinh thái và các nguồn tài nguyên thiên nhiên chứa trong các khu bảo vệ đó. Nguyên lý 3. Các nguyên tắc của sự phân quyền, sự tham gia, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ được đề cập đến trong tất cả các nội dung đi đôi với lợi ích hai bên của khu bảo vệ và dân bản địa truyền thống. Nguyên lý 4. Dân bản địa truyền thống được phân chia đầy đủ và công bằng các lợi ích với khu bảo tồn dựa vào sự công nhận các quyền hạn của các đối tác hợp pháp. Nguyên lý 5. Quyền hạn của dân bản địa truyền thống trong mối liên hệ với khu bảo vệ thường chịu trách nhiệm quốc tế do nhiều vùng đất, lãnh thổ, nguồn nước, vùng ven biển và các tài nguyên khác mà họ sở hữu hay sử dụng vượt qua biên giới nhiều quốc gia. 5.2.5. Một số nghiên cứu điển hình Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất quan trọng đối với sự sống còn của các cộng đồng bản địa truyền thống. Trong vòng 15 năm qua, các cộng đồng truyền thống là những người đóng vai trò quan trọng trong việc sở hữu và quản lý các vùng cảnh quan tương đối ít bị xáo động. IUCN 2000 đã nêu ra 11 nghiên cứu điển hình được trình bày sau đây để minh hoạ các kinh nghiệm trên thế giới trong vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên trong các khu bảo vệ chồng lên vùng đất đai hay lãnh thổ của các cộng đồng bản địa. Đó là: ·          Vườn Quốc gia Kaa -Iya del Gran Chaco (KIGC, Bolivia) ·          Khu bảo tồn sinh học biển Cayos Miskitos và Fraja Costera (RBMCM, Nicaragua) ·          Vườn Quốc gia Sarstoon-Tomash (SINP, Belize) ·          Vườn Quốc gia Wood Buffalo (WBNP, Canada) ·          Khu bảo vệ Lapponian (LAPP, Thuỵ Điển) ·          Vườn Quốc Gia Simen Moutain (SMNP, Ethiopia) ·          Vườn Quốc gia Sagarmatha (SNP, Nepal) ·          Vườn Quốc gia Doi Inthanon (DINP, Thailand) ·          Khu bảo tồn thiên nhiên Xishuangbanna (XNR, Trung Quốc) ·          Khu dự trữ tài nguyên Kytalyk (KRR, Nga) ·          Vườn Quốc gia Kakadu (KNP, Úc) Các nghiên cứu điển hình này được chọn sau khi xem xét các thông tin về mối tương tác giữa cộng đồng bản địa và vườn quốc gia hay chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý khu bảo vệ trong mỗi quốc gia. Hầu hết các trường hợp được đưa ra ở đây đều có sự hợp tác quản lý, hay ở những nơi mà luật pháp hay các cơ chế chính thức được thiết lập để xúc tiến việc cùng quản lý. Tuy vậy, một ít trong các trường hợp mô tả tình trạng mà ở đấy mối liên hệ giữa cộng đồng truyền thống và nhà chức trách bảo tồn không được suông sẻ với những tác động tiêu cực trong việc thực hiện bảo tồn. 5.2.5.1. Các đặc điểm chung Các điểm được chọn rất đa dạng về nơi ở, từ các vùng ven viển và biển đến các vùng núi cao 5.000 m, từ vùng bắc cực đến môi trường nhiệt đới. Tổng diện tích các địa điểm 151.010 km2, trong đó lớn nhất là WBNP với 44.800 km2 và nhỏ nhất là SMNP 136 km2. Tất cả các địa điểm đều có độ đa dạng cao và quan trọng về mặt sinh thái với khu hệ động vật, thực vật cần bảo tồn như hổ, báo tuyết, cáo Simen, các loài rùa biển, nhiều loài chim và cá. Một số điểm là bãi đẻ của các loài hoang dã hay bán hoang dã có giá trị kinh tế như tuần lộc, bò bison, tôm sú, tôm hùm. Mục tiêu bảo vệ của các địa điểm này cũng khác nhau, từ các khu bảo vệ nghiêm ngặt (hạng I, II, III theo IUCN) đến các khu bảo tồn ở các mức độ sử dụng bền vững cho phép (hạng IV đến VI theo IUCN). Tuổi của các khu này cũng khác, được thành lập từ rất sớm như LAPP năm 1909 hay trẻ nhất là KIGC được hình thành năm 1995. Có hơn 32 cộng đồng truyền thống cùng với các nhóm dân thiểu số sống trong hay gần khu bảo vệ. Tổng số người cư ngụ (bao gồm cả nhân viên bảo vệ) thay đổi từ không đến 25.000 (RBMCM). Mật độ dân số thay đổi từ 0,3 người/km2 đến 73,5 người/km2. Tất cả các điểm bảo vệ trong các nghiên cứu điển hình đều cho phép dân bản địa truyền thống sử dụng bền vững tài nguyên ở các mức độ khác nhau. Săn bắt và đánh cá là hoạt động thường gặp, ngoài ra ở đây còn có trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp. Du lịch cho đến nay là hoạt động kinh tế nổi bật trong SNP và quan trong trong các địa điểm khác, săn bắt tôm hùm cũng là hoạt động kinh tế nổi trội ở RBMCM. 5.2.5.2. Các hoạt động liên quan đến quản lý Các tiếp cận quản lý trong các nghiên cứu điển hình gồm 3 loại: Đồng quản lý không hạn chế: có sự tham gia toàn diện của cộng đồng truyền thống trong các chương trình quản lý thuộc các địa điểm KIGC, RBMCM, KRR và KNP. Sự tham gia bao gồm tất cả mọi mặt của tiến trình quản lý bao gồm kế hoạch và thực hiện các qui hoạch và hoạt động quản lý. Đặc biệt dân bản địa truyền thống trở thành bộ phận trong hội đồng quản lý hay các tổ chức tương tự. Thường là các thành viên của cộng đồng địa phương có trách nhiệm thực hiện các biện pháp quản lý đặc thù. Đồng quản lý có hạn chế: cộng đồng truyền thống tham gia có giới hạn trong hoạt động quản lý (WBNP, LAPP và SNP). Trong trường hợp này, vấn đề hợp tác quản lý giới hạn trong một số hoạt động như nuôi Tuần Lộc ở LAPP, quản lý các đàn bò hoang Bison (WBNP) và du lịch (SNP). Trong XNR, sự tham gia của cộng đồng truyền thống trong qui hoạch và quản lý khu bảo vệ phụ thuộc vào việc dàn xếp của nhân viên trong khu bảo vệ và cộng đồng địa phương. Tuy vậy, không có luật lệ hay các cơ chế hợp pháp để bảo đảm cho điều đó, tiếp tục đươc hay không phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của nhân viên quản lý. Không có sự tham gia quản lý:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiao_trinh_da_dang_sinh_hoc.doc
Tài liệu liên quan