Giáo trình Điểm huyệt liệu pháp (Phần 1)

Ứng dụng của bình nhụ

pháp

Bình nhụ pháp trên lâm sàng, không

kể là dùng thủ pháp bổ hoặc dùng thủ

pháp tả, hoặc bình bổ bình tảpháp, tất

cần phải kết hợp với sự nhẹ nặng của

thủ pháp, tốc độ nhanh chậm khi nhụ

xoay và kết hợp với thế bệnh nặng

nhẹ hoãn cấp, thể chất người bệnh

khoẻ yếu béo gầy, và cả quan hệ khác

nhau như nam nữ già trẻ, nắm chắc

tuỳ thời, gặp chứng ứng biến.

Bình nhụ pháp ứng dụng cực rỗng

rãi trên lâm sàng, bệnh tật nói chungđều có thể chọn dùng. Khi phối hợp

thủ pháp, thường sử dụng kết hợp với

áp phóng pháp, và các thủ pháp khác

đều có thể phối hợp. Khi tháo tác,

một ngón tay giữa cũng có thể lấy để

nhụ, hai ngón tay giữa cũng có thể lấy

để nhụ. Một hướng tả bình nhụ cũng

được, hướng hữu bình nhụ cũng

được, để cho thuận tay người thày là

được. Nếu như ở một loại bệnh khi

mà thấy không có hiệu quả hoặc thu

hiệu qủa không nhiều, thì có thể chọn

dùng phương pháp bổ tả của bình

nhụ. Giả như, đối với việc luyện tập

chưa thành thạo phương pháp bổ tả

của bình nhụ, thì binh nhụ đối với

một nam giới, ta lấy huuyệt ở cạnhbên trái trứơc, lấy huyệt ở cạnh bên

phải sau. Bình nhụ ở nữ giới ta lấy

huyệt cạnh bên phải trước, lấy huyệt

ở cạnh bên trái sau hoặc nhụ hai tay

nhằm vào nhau, thay đổi đều mỗi bên

một nửa số nhụ ( như nhụ đúng là 50

lần, nhụ quay lại là 50 lần, như thế

này cũng gây nên được tác dụng bình

bổ, bình tả ).

pdf128 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Điểm huyệt liệu pháp (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trí của người bệnh mà quyết định trái phải. Khi huyệt vị ở bên trái hoặc ở bên phải của người bệnh, không kể là huyệt ở dương kinh hay ở âm kinh, xoay nhụ từ phải qua trái hướng lên là hướng tả bình nhụ. Ngược lại, từ trái qua phải hướng lên mà xoay nhụ là hướng hữu bình nhụ. 1 – 2: Tả hữu bình nhụ và bổ tả Bản thân bình nhụ pháp vốn có đủ tác dụng điều tiết âm dương. phương pháp bổ tả của hướng tả bình nhụ và hướng hữu bình nhụ có thể tăng thêm mạch điều tiết bất túc. Đó là căn cứ vào bắt đầu và dứt ở 14 kinh tuần hành trên cơ thể ngừơi, và vấn đề thăng giáng của tả dương hữu âm, kết hợp cụ thể vào thủ pháp thao tác, tiến hành bổ tả nghênh tuỳ. Thủ tam dương kinh đi từ tay lên đầu bằng: Khi nhụ huyệt vị ở bên trái, hướng tả bình nhụ tứ là nhụ từ phải qua trái, hướng lên theo chiều đường kinh mà nhụ xoay là tả. Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải hướng bình nhụ tức là nhụ từ trái qua phải, hướng lên theo đường kinh mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đón ngược chiều đường kinh mà nhụ xoay là tả. ( Nếu dùng cả hai tay mà nhụ cho người bệnh đều lấy hướng lên mà bổ, hướng xuóng là tả ) Thủ tam âm kinh đi từ ngược ra tay bằng: Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái, hướng hữu bình nhụ tức là nhụ từ trái qua phải, hướng lên đón ngược chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ. Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng tả bình nhụ tức là nhụ từ phải qua trái, hướng lên đón ngược chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là tả, hướng xuống theo đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ. ( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng lên làm tả, hướng xuống là bổ ) Túc tam dương kinh đi từ đầu tới chân: Khi nhụ huyệt vị ở cạnh trái hướng tả bình nhụ – tức là nhụ ở phải qua trái hướng lên theo chiều đường kinh mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đón ngược chiều đường kinh là nhụ xoay là tả. Khi nhụ huyệt vị ở cạnh phải, hướng hữu bình nhụ - tức là nhụ từ trái qua phải, hướng lên theo đường kinh đi mà nhụ xoay là bổ, hướng xuống đóng ngược chiều đường kinh đi mà nhụ xoay là tả. ( Hai tay nhắm vào nhau mà nhụ, đều là lấy hướng lên làm bổ, hướng xuống là tả ) ( Phụ ) Hình vẽ bổ tả ở thủ tam dương kinh Hình vẽ và những ví dụ kể trên là bổ tả ở nam giới. Nếu khi dùng ở nữ giới thủ pháp bổ tả bình nhụ thì phải đổi ngược chiều tả hữu ( tức là ở nam giới hướng tả bình nhụ là bổ, thì ở nữ giới hướng hữu bình nhụ là bổ. Nam hướng bình nhụ là tả, thì ở nữ giới hướng tả bình nhụ là tả. Ghi chú: Bất luận là hướng tả bình nhụ hoặc hướng hữu bình nhụ đều có tác dụng điều tiết âm dương . Vì để tăng cường tác dụng điều tiết phải cần đến thủ pháp nghênh tuỳ trong bình nhụ. “ Nghênh” là nguyên tắc cổ nhân nhằm tiến hành tả, “ nghênh nhi đoạt chi” tức là đón kinh khí đến, ý tứ là đoạt lấy tà khí thực. “ Tuỳ” là nguyên tắc cổ nhân tiến hành bổ, “ tuỳ nhi tế chi” tức là theo điều kinh khí, ý tứ là giúp cho chính khí hư. Không rõ bổ tả, bàn hướng tả bình nhụ hoặc hướng hữu bình nhụ cũng được, không sao. Sự sai lạc giữa không dùng bổ tả và dùng bổ tả làm. nói chung các bệnh tật, không dùng thủ pháp bổ tả thì hiệu quả chữa cũng đã rất cao. Ở những bệnh tật nghiêm trọng có những biểu hiện đột xuất ở âm dương, biểu, lý, hư, thực, hàn, nhiệt, thì tiến hành thủ pháp bổ tả càng tốt. 1 – 3: Tác dụng của bình nhụ pháp Như đã nói ở phần trước, “ Nhụ” là sản vật của sự kết hợp hai loại án và ma, khái quát chủ yếu là án trú bất động làm cho ức chế, cần phải có cái nông dừng của ma để hưng phấn. Bình nhụ có thể làm cho ức chế và hưng phấn kết hợp giúp cho nhau và giúp nhau gây nên ngang bằng. Bình nhụ trên huyệt vị có thể gây nên tác dụng vì ở kinh huyệt và ở kinh lạc có quan hệ mật thiết, do đó sau khi bình nhụ ở huyệt vị, làm cho bản kinh ở thuộc ( dương kinh hoặc âm kinh có huyệt vừa làm thủ pháp ) được đến sự điều chỉnh. Như thế, sẽ làm cải biến hiện trạng tuần hành khí huyết trong kinh mạch. Vì vậy, làm cho công năng sinh lý trong cơ thể người nảy sinh ra một loại biến hoá mới, mà loại biến hoá này ảnh hưởng ngay đến mọi mặt của bản kinh và tạng phủ có quan hệ biểu lý. Nói tóm lại, bình nhụ là điều tiết âm dương và các hiện tượng không thăng bằng, nó có thể bổ hư, có thể tả thực, thăng được, giáng được, tiêu tích, trừ hãn, cũng có thể đẩy cái cũ đến tác dụng mới, là thủ pháp chủ yếu trong điểm huyệt. 1 – 4: Ứng dụng của bình nhụ pháp Bình nhụ pháp trên lâm sàng, không kể là dùng thủ pháp bổ hoặc dùng thủ pháp tả, hoặc bình bổ bình tảpháp, tất cần phải kết hợp với sự nhẹ nặng của thủ pháp, tốc độ nhanh chậm khi nhụ xoay và kết hợp với thế bệnh nặng nhẹ hoãn cấp, thể chất người bệnh khoẻ yếu béo gầy, và cả quan hệ khác nhau như nam nữ già trẻ, nắm chắc tuỳ thời, gặp chứng ứng biến. Bình nhụ pháp ứng dụng cực rỗng rãi trên lâm sàng, bệnh tật nói chung đều có thể chọn dùng. Khi phối hợp thủ pháp, thường sử dụng kết hợp với áp phóng pháp, và các thủ pháp khác đều có thể phối hợp. Khi tháo tác, một ngón tay giữa cũng có thể lấy để nhụ, hai ngón tay giữa cũng có thể lấy để nhụ. Một hướng tả bình nhụ cũng được, hướng hữu bình nhụ cũng được, để cho thuận tay người thày là được. Nếu như ở một loại bệnh khi mà thấy không có hiệu quả hoặc thu hiệu qủa không nhiều, thì có thể chọn dùng phương pháp bổ tả của bình nhụ. Giả như, đối với việc luyện tập chưa thành thạo phương pháp bổ tả của bình nhụ, thì binh nhụ đối với một nam giới, ta lấy huuyệt ở cạnh bên trái trứơc, lấy huyệt ở cạnh bên phải sau. Bình nhụ ở nữ giới ta lấy huyệt cạnh bên phải trước, lấy huyệt ở cạnh bên trái sau hoặc nhụ hai tay nhằm vào nhau, thay đổi đều mỗi bên một nửa số nhụ ( như nhụ đúng là 50 lần, nhụ quay lại là 50 lần, như thế này cũng gây nên được tác dụng bình bổ, bình tả ). Tiết 2: Áp phóng pháp ( phép nhấn nhả ) Áp phóng là một loại thủ pháp tiến hành trên huyệt vị, “ Áp” là áp dùng ở dưới, “ Phóng” là buông nới tay lên. Hai thứ đối lập nhau, nhưng động tác cùng kết hợp với nhau. Khi thao tác bình nhụ xong, đầu ngón tay giữa để lâu dài trên huyệt vị đó., ấn xuống tầng sâu của huyệt vị, làm cho đầu ngón tay ở dưới mức ngang bằng của mặt da huyệt vị, áp xuống xong thì phóng, phóng xong lại áp. Một áp một phóng là một lần. Nói chung thường lấy 50 lần đến 100 lần làm tiêu chuẩn, số lấn đó tăng hay giảm, phải căn cứ vào bệnh tình mà quyết định. 1 –1: Tiêu chuyển của áp phóng Áp và phóng, khoảng cách trong quá trình áp phóng lá áp xong phóng mở xong lại áp., nhất định cần phải giữ cho được tốc độ nhanh chậm thích đáng. Nếu như nhanh chậm không đều, sẽ mất đi tính hiệp đồng điều hoá giữa áp và phóng. Áp ở chỗ sâu, kình ở tầng trong của huyệt vị, phóng mở ngang bằng với mặt da, kình ở tầng bề mặt của huyệt vị. Nguyên tắc ở đây là do bệnh tình khác nhau, lại có thể rút ngắn quá trình áp phóngm nhưng vẫn không được đem đầu ngón tay ra khỏi mặt da. Áp là dùng dầu ngón tay giữa để áp, không thể dùng ngón tay mà áp. Dùng móng tay mà áp sẽ thành ra thiết ( cắt ), cũng không dùng phao ngón tay mà áp. Dùng phao đầu ngón tay để áp cũng thành án ( ấn ). Hai quá trình áp và phóng cần phải giữ đúng trung tâm huyệt vị, làm cho cái động của kình và trung tâm huyệt vị thành đường thẳng đứng. Không đúng thế, sẽ giảm yếu tác dụng do thủ pháp này gây nên. 2 – 2: Bổ tả của áp phóng pháp. Mấu chốt của bổ tả áp phóng pháp chủ yếu là nằm được động tác áp xuống. Nhưng cần phải theo đúng quan hệ tuần hành của 14 kinh mạch để dễ làm đến nghênh và tuỳ, đạt đến thủ đoạn bổ và tả. Khí huyết của thủ tam dương kinh, đi từ tay lên đầu. Khi vận dụng thủ pháp, bổ, áp kình trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Khí huyết của thủ tam âm kinh, đi từ ngực ra tay. Khi vận bổ pháp, áp kình ở trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khí huyết của túc tam dương kinh, đi từ đầu xuống chân.Khi vận dụng thủ pháp bổ, áp kình trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kình trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khí huyết của tam âm kinh đi từ chân lên bụng. Khi vận dụng bổ pháp, áp kình trong huyệt vị hơi đi lên một ít. Khi vận dụng tả pháp, áp kinh trong huyệt vị hơi đi xuống một ít. Ngoài ra, áp kinh giữ nguyên tại trung tâm huyệt vị, thuộc về bình bổ, bình tả pháp. 2 – 3 : Tác dụng của áp phóng pháp Áp phóng là chèn ép tổ chức của huyệt vị, làm cho nó co rút, ức chế, xu hướng ở trạng thái tĩnh dừng. Phóng là đem phóng mở sự chèn ép ở huyệt vị, làm cho nó giãn chương, hưng phấn, xu hướng ở trạng thái hoạt động. Áp xuống đi nông sâu, lấy phóng lại khống chế cho nên kết hợp áp phóng là lấy phóng chế áp. áp sâu, trong cơ thể là doanh phần. áp nông, ở trong cơ thể là vệ phần. Do đó, áp phóng có công năngđiều tiết doanh, vệ, khí, huyết. Áp là áp dừng tính hoạt động của bệnh thế nói chung, có đủ các hiệu lực thu liễm, dứt nghịch, dứt nôn, dứt mồ hôi, dứt đau. Phóng là duy trì tác dụng sau khi áp gây nên, không thể do áp mà dẫn đến hiện tượng chẳng lành. 2 – 4 : Ứng dụng của áp phóng Áp phóng pháp và bình nhụ pháp ứng dụng trên lâm sàng trọng yếu như nhau. Khi thao tác cũng cần phải kết hợp với thể chất của người bệnh khoẻ yếu , gầy béo, giữ vững thủ pháp nặng nhẹ thích đáng. Theo bệnh tình nặng nhẹ và đã mắc bệnh lâu hay mới, nắm chắc tốc độ của áp và phóng. Mức nông hay sâu của áp có quan hệ với áp nặng hoặc nhẹ. áp nhẹ hay áp nặng lại có quan hệ với vùng kinh huyệt. Vì thế, ở việc vận dụng áp phóng cần liên hệ với các mặt mới có thể phát huy tác dụng ứng với mục đích. ( Phụ ): Tiêu chuẩn thao tác cụ thể của bình nhụ pháp và áp phóng pháp. a. Độ nhanh chậm của thao tác. Tiêu chuẩn nhanh chậm của thao tác bình nhụ và áp phóng là căn cứ vào nhịp nhạch nhảy của người bình thường, lấy đó làm tỷ lệ nhanh chậm của thủ pháp. mạch bình thường đập mỗi phút từ 70 – 80 lần. Trong bắt mạch của Thiết trẩn Đông y, một lần thở ra, một lần hít vào là 4 – 5 lần. Nhiều hơn số trên 80 lần là thủ pháp nhanh, ít hơn số dưới 60 lần là thủ pháp chậm. Đây là ngang với mạch lý “ ba lần là chậm, sáu lần là nhanh” ( Tam chí vi trì, lục chí vi sác ) của phương diện bắt mạch. Mỗi phút bình nhụ hoặc áp phóng khoảng 70 – 80 lần đó là thủ pháp không nhanh không chậm, cũng có thể nói là thủ pháp trung hoà. Tiêu chuần này của thủ pháp dùng ở bệnh tật của tỳ vị, cũng là tiêu chuẩn của thủ pháp thường dùng trên lâm sàng. Thủ pháp nhanh ( tức là trên 80 lần trong một phút ) tương đương với mạch xác, có thẻ dùng trong bệnh tật hư hàn, cũng có thể dùng ở cảm mạo khi bị mát lạnh. Thủ pháp chậm ( tứ là dưới 70 lền trong một phút ) tương đương với mạch trì, có thể dùng trong bệnh phiền táo ( thần kinh chức nặng, tinh thần khác thường, bệnh mất máu ). b. Mức thao tác nặng nhẹ: Mức nặng nhẹ của thao tác bình nhụ pháp và áp phóng pháp, chủ yếu là theo vùng của ngũ tạng, và quy luật bình thường của nhịp mạch, qua đó quyết định mức nặng, mức nhẹ và mức không nặng không nhẹ của thủ pháp. Phế và tâm, ở vùng trên trong cơ thể con người, mạch tượng nổi ( phù ), chủ về khí huyết. Can và thận, ở vùng dưới trong cơ thể con người, mạch tượng chìm ( trầm ), chủ về gân xương. Tỳ vị ở vùng giữa trong cơ thể con người, mạch tượng không nổi không chìm ( mạch ở trung bộ ), chủ về cơ bắp. Do đó, mức nặng nhẹ của thủ pháp cũng căn cứ theo lý luận trên, mà chưa thành mức nhẹ của thủ pháp ở vùng khí huyết, mức nặng của thủ pháp ở vùng gân xương, mức không nặng không nhẹ ở vùng cơ bắp. Tiêu chuẩn nặng nhẹ của thủ pháp chỉ là tương đối, lại cần phải kết hợp với thể chất gầy béo và vùng huyệt vị. Do vậy, đại để là theo nguyên tắc dựa vào mức của tiêu chuẩn, nhưng cần kết hợp với tình hình bệnh, mới có thể linh hoạt thích đáng, như thể mới có thể đạt đến thủ pháp gây được tác dụng. c. Mức cự ly của vòng tròn bình nhụ: Căn cứ vào tình hình hàn, nhiệt, hư, thực của bệnh, mà chia cái vòng bình nhụ làm ba mức là vòng to, vòng nhỏ và vòng trung. Bởi vùng huyệt vị khác nhau do đó cái vòng tiêu chuẩn của nhụ cũng cần phải tương đối linh hoạt. Tiêu chuẩn to nhỏ của vòng, lấy căn cứ từ vòng cỡ trung. Tiêu chuẩn của vòng cỡ trung là căn cứ phạm vi nói chung của huyệt vị chừng to bằng hạt đậu, cũng là khi ngón tay giữa ở chỗ bình nhụ cụ thể, vòng quanh đầu ngón tay không vượt qua một phân. Vòng nhỏ là nhỏ nhơn so với đó, vòng to là to hơn so với đó. Về phương diện linh hoạt, vòng to lại có thể phóng to hơn, vòng nhỏ cũng có thể thu nhỏ lại hơn. d. Mức độ cự ly áp phóng của áp phóng pháp: Cự lý của thủ pháp áp phóng là độ nông sâu thống nhất của quá trình, là có tác dụng điều tiết doanh, vệ, khí, huyết. Ngoài thế ra, căn cứ vào bệnh tình khác nhau, lại đem chia thủ pháp này làm 3 vùng tức là vùng khí huyết, vùng gân xương, vúng cơ bắp, tiến hành áp phóng. Nhưng ở đây nó là nguyên tắc, khi ứng dụng lại có thể linh hoạt. Ví dụ: Đối với chứng mất máu, khi tiến hành thủ pháp áp phóng mức cự ly của áp phóng không thể là lớn, bởi vì áp phóng mức độ lớn đều có tình giãn nở đối với mạch máu, sẽ làm cho giãn đến mức xuất huyết trở lại. Nếu như áp phóng mức nhỏ thích hợp, sẽ có tính thu liễm, có thể thúc cho vùng huyết quản tương đối co rút, đạt đến tác dụng cầm máu. Lại như, đối với người bệnh huyết áp bị kẹt, khi tiến hành thủ pháp áp phóng, sẽ cần đưa cự ly áp phóng đạt đến phạm vi nông, sâu, đó là để làm cho khoảng chênh lệch giữa tối đa vào tối thiểu của huyết áp biến giãn ra. Nhưng thủ pháp không phải là cái tuyệt đối, cái đó cần phải kết hợp với chọn huyệt phối phương theo tình huống, mới có thể phát huy tác dụng trị liệu chân chính. Tiết 3 Bì phu điểm tả pháp (chấm, gõ da) Chấm gõ ở da là lấy đầu ngáo giữa tay tiến hành thao tác, trước tiên là nâng ngón giữa lên, rời xa mặt ra khoảng 1-2 thốn, lại đem đầu ngón tay giữa nhằm vào đúng trung tâm huyệt vị chấm gõ xuống. Khi chấm gõ làm cho lực chọi nâng lên tựa như có tính đàn hồi. Dạng như thế, sức ngón tay chấm gõ, chấm gõ tại tầng biểu da dẻ, không hứng chí làm cho trọng lượng gõ không bình thường. Một lần gõ, nâng là một lần, số lần chấm gõ thường lấy 100 lần làm tiêu chuẩn. Mức nặng nhẹ của chấm gõ, một cách đều như nhau cần phải căn cứ vào bệnh tình mà quyết định. Cho đến tốc đọ của chấm gõ, nói chung thủ pháp chấm gõ đều nhanh. Do nhanh mới có đủ sức sinh ra nhiệt, cái đó có tác dụng tương đương với cứu ngải. 3–1: Tác dụng của chấm gõ da( Bì phu điểm đả): Phép chấm gõ da là trên bề mặt huyệt vị của người bệnh, tiến hành chấm gõ, có thể dẫn đến các mao tế (vi ti ) Huyết quản giãn nở. Vì thế, ở chung quanh huyệt vị sinh ra tình huống hơi đỏ, hơi nóng. Hiện trạng hơi đỏ, hơi nóng đó kéo dài một thời gian không lâu sẽ dần dần tiêu tan, cũng là quá trình mao huyết quản co rút. Do cục bộ mao huyết quản ở da trái qua quá trình chấm gõ xong bị giãn nở rồi chuyển làm co rút, rất rõ ràng đã cấp cho tổ chức tầng ngoài của huyệt vị tăng thêm lực lượng, thay đổi trả lại tuần hoàn dẫn đến tác dụng khoẻ mạnh cơ năng sinh lý. Da huyệt vị qua chấm gõ hơi đỏ, hơi nóng giống như cứu ngải xong cũng hơi đỏ hơi nóng. Cứu ngải là cung cấp nhiệt từ ngoài vào, nhiệt của chấm gõ là bản thân dẫn đến nhiệt. Nhiệt của ngải cứu thường táo, chứng cấm kỵ cứu ngải thường nhiều. Nhiệt của chấm gõ ít táo, chứng cấm kỵ cũng rất ít. Ngoài thế ra, pháp chấm gõ có tác dụng thúc đẩy cơ năng hấp thu phần nước. Ví dụ: chữa bằng chấm gõ trong chứng trẻ em tiêu chẩy, qua một lần chữa là có thể làm cho đang từ mỗi ngày tiêu chẩy trên hai chục lần, giảm xuống còn dưới 10 lần. Lại cách chấm gõ đối với người đại tiện phân khô khan. Ngược lại, dẫn đến đại tiện bí kết. Đó là những chứng minh phép chấm gõ có đủ sức thúc đẩy cơ năng của ruột hấp thu nước. Từ trong chứng minh ở thực tiễn lâm sàng, ta thấy phép chấm gõ da có những tác dụng với cầm tiêu chẩy khử phong, dứt ngứa. 3 – 2 ứng dụng của phếp chấm gõ da. Phép chấm gõ da đủ sức làm cường tráng cơ năng, đối với chứng hư nhược có hiệu quả cao nhất. Như chứng bại liệt ở trẻ em, mỗi huyệt vị đều không thể thiếu được phép chấm gõ. Chứng mất máu (các loại xuất huyết) dùng huyệt ẩn bạch, cũng cần phải có chấm gõ mới có thể phát huy tác dụng cầm máu. Trọng điểm của chấm gõ da chủ yếu là ở tầng biểu của da.Do đó, đối với chứng phong hàn cảm mạo nói chung hiệu nghiệm rất tốt. Đối với chứng da dẻ ngứa gãi, kết quả thu được càng rõ. Tóm lại, phép chấm gõ da thường dùng phối hợp với hai loại thủ pháp trước. Nhưng đối với chứng dị ứng mẩn ngứa và bệnh da nói chung, có thể chỉ dùng riêng một phép đó. Đối với chứng thấp chẩn (ngứa gãi có mụn chẩy nước) cần phối hợp với bình nhụ pháp. Bệnh nhiệt tính (có sốt) ít dùng, cấm dùng khi người bệnh bị bí đại tiện. Tiết 4 - Kinh lạc tuần án pháp ( phép dựa theo đường kinh lạc. Phép dựa theo đường kinh lạc là lấy ngón tay giữa hoặc ngón tay trỏ, trên đường qua huyệt và kinh lạc đó tiến hành trở đi, trở lại hoặc nhụ, hoặc áp, hoặc chấm gõ, đó là tuần án (dựa theo). Ví dụ như: Hợp cốc là kinh huyệt của Đại trường có tác dụng thêm mạnh bản kinh, sẽ tuyển chọn một số huyệt trên đường từ Hợp cốc đến Kiên ngung, làm nhụ hoặc áp phóng, hoặc chấm gõ trở đi trổ lại. Ngoài ra có các thủ pháp đẩy theo bổ tả 1 (tuần thôi bổ tả 1), đẩy theo bổ tả 2 (tuần thôi bổ tả 2). Và thủ pháp bổ trợ tuần án là: Thác niệm, (mài vê xoay), áp án ( áp ấn), ma sát ( mài xoa) để tiện cho việc xem chừng trên lâm sàng mà tuyển chọ sử dụng. 4–1: Bổ tả của phép dựa theo đường kinh lạc. Bổ tả của phép dựa theo là theo đúng đường tuần hành của kinh lạc tiến hành thủ pháp dựa theo. Làm thao tác dựa theo bổ pháp, thường nhiều lần thuận theo đường kinh mạch đi, ít lần ngược theo đường kinh lạc đến thường theo tỷ lệ hai so với một. Ví như, trong khoảng từ huyệt hợp cốc đến huyệt Kiên ngung của kinh Đại trường làm hai lần hoặc nhụ, hoặc áp, hoặc điểm, từ huyệt Kiên ngung đến huyệt Hợp cốc thì làm một lần. Hoặc là từ huyệt Kiên ngung đến huyệt Hợp cốc, lại từ huyệt Hợp cốc đến huyệt Khúc trì. Bình bổ bình tả của phép dựa theo là làm đi trở lại như nhau, thao tác đi và trở lại, (Phụ): Bổ tả đẩy theo kinh lạc (1) Đẩy theo kinh lạc bổ pháp ví như ở thủ dương minh đại trường kinh, ngón tay cái đẩy từ huyệt Hợp cốc đến huyệt Khúc trì làm một lần, 9 lần là cửu dương số, thường là đều làm 9 x 9=81 lần. Đẩy theo kinh lạc tả pháp là từ huyệt Khúc trì đẩy đến huyệt Hợp cốc, 6 lần là lục âm số, thường đẩy 6 x 6 =36 lần. Cự ly đẩy dài hay ngắn, có thể liệu chừng mà tăng giảm. Đẩy theo bổ tả ở các đường kinh khác đều dựa theo cách đẩy này. Bổ tả đẩy theo kinh lạc ( 2) Quá trình thao tác đẩy theo kinh lạc làm trước tả sau bổ, trước tả là: như đẩy kinh Bàng quang ở chi dưới, một tay nắn ở vùng lưng chọn dùng huyệt hoặc a thị huyệt ở cơ bắp cục bộ, tay kia từ bắp đùi phía dưới hướng lên trên đi ngược đường kinh mạch đẩy đến huyệt chỗ huyệt Thưà phù. Cùng với lúc đẩy như thế, tay nắn cơ bắp cũng theo đó kình nâng lên. Động tác nâng và đẩy kết hợp cùng nhất trí, đẩy nâng như thế là một lần, đẩy nâng tất cả 18 lần. Sau bổ là một tay nắn nâng đổi thành làm ấn xuống, tay kia đẩy cũng đổi thành thuận đường kinh đẩy xuống, nhưng từ huyệt Thừa phù, đẩy từ trên xuống dưới tới phía bờ dưới bắp đùi, là một lần, ấn xuống và đẩy kết hợp lại, cũng phải ấn và đẩy nhất trí, ấn đẩy tất cả là 27 lần.Phép này cũng có thể tuỳ theo tình hình các kinh khác mà chọn dùng, nó có hiệu dụng thư giãn gân, hoạt huyết. Thủ pháp bổ trợ cho phép dựa theo: Đếm mài xoay, áp ấn, xoa sát. Nay phân ra kể như sau: - Mài xoay: Dùng hai lòng bàn tay hoặc chụm các ngón ở hai bàn tay lại, có thể dùng ở tứ chi và vùng bàn tay, bàn chân, thích hợp với chứng đau đớn tê bại, mài vòng đi lại 8 –9 lần là được. - Áp ấn: lại còn gọi là áp bách, tức là một tay áp ở vùng thao tác, tay kia kế đó ấn ở phía trên tay áp, hai tay kết hợp với nhau ấn 8 –9 lần là đước. - Xoa sát: Đây là động tác thêm ở ngoài da, một hay hai tay thao tác đều được, tức là lòng bàn tay để lên vùng có bệnh, xoa sát 8 –9 lần là được. 4– 2: Tác dụng của phép dựa theo kinh lạc Phép dựa theo do thao tác trong phạm vi kinh lạc có thể trực tiếp thúc đẩy tuần hoàn khí huyết. Đồng thời, do ở bổ tả khác nhau, lại có thể làm thay đổi tình hình đi, đến của khí huyết ở trong kinh lạc, cách này có thể tăng thêm tác dụng bổ tả của mấy loại thủ pháp phía trước. Phép dựa theo khi dùng phối hợp thì nó có tính chất bổ trợ. Nếu dùng riêng nó thì cũng có hiệu nghiệm thông kinh lạc, hoạt khí huyết, dứt đau, chữa tê bại Bởi vì trong dựa theo có thủ pháp hưng phấn, có thủ pháp ức chế. Từ trong thủ pháp nhanh, chậm, nặng, nhẹ khác nhau lại có thể sử dụng bình nhụ, áp phóng, là hai loại thủ pháp có tính năng cải biến . Nếu như thủ pháp thao tác chậm mà nặng sẽ có thể đem tác dụng hưng phấn đến làm ức chế, ngược lại thủ pháp thao tác nhanh mà nhẹ cũng có thể đem theo tác dụng ức chế biến làm hưng phấn. Đó là vì đối lập với hưng phấn là ức chế, hưng phấn giảm yếu thì cũng lại biến thành ức chế. Đây là tính thống nhất của hai mặt âm dương đối lập nhau trong lý luận đông y. 4–3: Ứng dụng của phép dựa theo kinh lạc. Phép dựa theo kinh lạc ứng dụng trên lâm sàng chủ yếu là căn cứ vào quan hệ của sự phân bố và tuânf hành kinh lạc, thường dùng vào bệnh phong thấp và tê bại do cơ năng trở ngại về mặt số lần thao tác và vùng thao tác, cần phải căn cứ vào tình hình bệnh và phạm vi bệnh, tiến hành dựa theo ở cục bộ hoặc dựa theo trên toàn thân, lấy từ 5 –8 – 9 lần, hoặc lại nhiều hơn một ít cho thích hợp kết hợp các thủ pháp cần kết hợp với bệnh tình mà chọn tuyển, cũng không phải là đem toàn bộ phép dựa theo kinh lạc dung lên. Mức nặng, nhẹ, nhanh, chậm của thủ pháp dựa theo cũng cần phải căn cứ vào bệnh thế của người bệnh năng, nhẹ,cũ, mới, và kết hợp với thể chất khoẻ yếu, gầy , béo, linh hoạt nắm lấy, tự mình có thể đạt đến dự cảm kết quả chuqã của phép dựa theo kinh lạc. Tiết 5 – Ngũ hành liên dụng pháp ( phép nối tiếp dùng ngũ hành). Ngũ hành là mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ. Quan hệ ngũ hành tương hỗ là tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. Theo ngũ hành sở thuộc của ngũ tạng ( can và đảm thuộc mộc, tâm và tiểu trường thuộc hoả , tỳ và vị thuộc thổ, phế và đại trường thuộc kim, thận và bàng quang thuộc thuỷ ), ngũ tạng sở chủ ( can chủ gân, thận chủ xương, tâm chủ huyết, phế chủ khí, tỳ chủ cơ bắp ), tập hợp thành quan hệ hỗ tương chỉnh thể, cùng với vùng ở nội tạng bên trong là nhất trí. Tâm phế ở trên, nhất trí với khí huyết ở tầng nông của chi thể. Can thận ở dưới, nhất trí với gân xương ở tầng sâu của chi thể. Tỳ vị ở giữa, nhất trí với cơ bắp ở khí huyết khoảng giữa gân xương. Ngũ hành liên dụng pháp là dựa theo đúng lý luận kể trên, chia làm: 5 – 1: Tên gọi của năm loai thủ pháp. Tên gọi của 5 loại thủ pháp là: a). Áp phóng ở xương ( cốt áp phòng ) b). Rung rẩy ở gân ( cân chấn chiên ) c). Nhụ trái phải ở cơ bắp ( cơ nhụ tả hữu nhụ ) d). Xoa đẩy ở mạch máu ( huyết mạch ma thôi ) đ). Chấm gõ ở da ( bì phu điểm tả ) Vì năm loại thủ pháp này là phối hợp năm loại du huyệt tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp thao tác liên tục cho nên gọi là ngũ hành liên dụng pháp. 5 –2: Thứ tự thao tác nguc hành liên dụng pháp Căn cứ vào sự khác nhau về nông sâu của khí huyết, gân xương, cơ bắp, tập hợp lại thành quan hệ tương hỗ chỉnh thể, và kết hợp với phương hướng tuần hành của thủ túc âm dương kinh, đêm một thủ pháp này chia thành thứ tự trước sau tiến hành thao tác. Do thủ âm dương kinh xu thế tuần hành là từ trên đi.xuống ( thủ kinh giao với túc kinh ). Thứ tự của thủ pháp là : Chấm gõ, xoa đảy, áp phóng ( ấn nhả ), rung rẩy, bình nhụ trái phải. Túc dương kinh và âm kinh có xu thế tuần hành là từ dưới đi lên ( túc kinh giao với thủ kinh ), thứ tự của thủ pháp là: áp phóng ( ấn nhả ), rung rẩy, chấm gõ, xoa đảy, bình nhụ phải trái. Nhâm mạch và độc mạch tuần hành đều là từ dưới lên trên, thứ tự của thủ pháp giống như ở túc kinh. 5 – 3: Thao tác cụ thể và lý luận của ngũ hành liên dụng pháp a. Chấm gõ ( điểm đă ): Thao tác chấm gõ là tiếp xúc với da dẻ của huyệt vị, thuộc về phế, phế là kinh chủ khí. Quá trình của thủ pháp là: Một ngón giữa tay tiến hành chấm gõ ở vùng huyệt chủ đã chon, ngón giữa tay kia ấn áp ngay và để nguyên không động ở huyệt phối phợp là kim huyệt trong phạm vi kinh mạch, làm phối hợp với huyệt chủ để tăng mạch tác dụng của chấm gõ, có giống như chấm gõ ở đoạn ngắn tắc của phế mạch ( tay kinh nâng lên của chấm gõ ) nhất loạt đêù làm 100 lần. b. Xoa đẩy ( ma thôi ): Thao tác của xoa đẩy là tiếp xúc với huyết mạch của huyệt vị, thuộc về tâm, tâm là hoả. Quá trình thủ pháp là : lòng bàn tay của một tay, hoặc cạnh nghiêng của gốc ngón cái tay để ở vùng huyệt chủ đã chon, xoa đẩy đi và lại thuận theo đường kinh một lần, tay kia áp giữ nga

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_diem_huyet_lieu_phap.pdf
Tài liệu liên quan