Nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm
Nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm là những nội dung giao tiếp mang
tính chất tạm thời, vụ việc, xảy ra trong quan hệ giữa giáo viên và học sinh. Đó
là các nội dung mang tính chất kinh tế ( thu học phí, qũy lớp.), chính trị ( sinh
hoạt cá tổ chức đoàn, đội, hội phụ huynh học sinh .), pháp quyền ( về việc vi
phạm nội quy của học sinh, các hình thức kỷ luật tương ứng ), giáo dục thuyết
phục (đối với học sinh cá biệt ).
Để khai thác nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm, chúng ta chỉ phân tích
một số công việc thường xảy ra trong nhà trường.
a. Công việc mang tính chất kinh tế, bao gồm các công việc như : thu học phí,
những đóng góp xây dựng quỹ trường, quỹ lớp. Những công việc này có liên
quan đến tiền.Giáo viên không nên giữ tiền mặt mà chỉ nên là chủ tài khoản ( học sinh hoặc
phụ huynh giữ tiền ), khi chi tiêu phải có hóa đơn, chứng từ rõ ràng, quyết toán
công khai, tránh sự nghi ngờ của học sinh đối với thầy, cô giáo.
Xây dựng cho học sinh ý thức trách nhiệm trong việc góp phần tạo cơ sở vật
chất và những điều kiện cần thiết đảm bảo cho quá trình dạy và học. Ngăn chặn
ý nghỉ “ kinh tế đơn thuần ”, học phí để nuôi thầy cô vậy thầy cô phải dạy tốt.
Hướng cho học sinh có tinh thần sẵn sàng giúp đỡ những gia đình khó khăn,
gia đình thương binh, liệt sĩ , những học sinh nghèo vượt khó.
b. Công việc về rèn luyện ý thức, kỷ luật.
Các thầy cô giáo thường xuyên nhắc nhở học sinh và bản thân mình phải
gương mẫu, thực hiện quy chế.
Ví dụ : đi học đúng giờ.
Đối với học sinh có khuyết điểm, thầy giáo cần tìm rõ nguyên nhân, đến với các
em bàng tình cảm khoan dung, độ lượng, không trù úm, định kiến với học sinh.
c. Vui chơi, giải trí : công việc này thường xảy ra trong giờ chơi, các ngày lễ hội,
nếu có sự tiếp xúc giữa thầy cô với các em sẽ tiếp thêm niềm vui cho các em.
Những cong việc trong nhà trường bao giờ cũng chứa đựng một nội dung giáo
dục rèn luyện nhất định cho sự phát triển nhân cách của học sinh. Do đó, giáo
viên bằng cách giao tiếp ứng xử của mình, bằng những việc làm của mình tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho các em học tập và rèn luyện.
Qua công việc được thầy cô giao cho các em học sinh thực hiện, những khả
năng của các em được bộc lộ, nhiều phẩm chất nhân cách được hình thành và
phát triển, các em sửa được nhiều thói xấu.
Như trường hợp đi học trễ được giao làm đội trưởng đội cờ đỏ. Hay g gỗ, đánh
nhau được giao làm đội trưởng đội bóng đá. Rùt rè, ít nói được giao làm lớp
phó học tập.
Công việc hằng ngày diễn ra trong nhà trường thể hiện một cách chân thực
nhất cách đời thường của giáo viên và học sinh.
Giao tiếp trong công việc bao giờ cũng mang tính chất hoàn cảnh, tình huống
tạm thời, xảy ra trong thời gian ngắn. Nhưng chính thái độ và hành vi ứng xử
của thầy cô giáo và học sinh ở những tình huống này chứa đựng một bản chất
thực vốn có của mỗi người.
50 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Giao tiếp sư phạm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vui mừng, khóc là biểu hiện của sự buồn chán, đau
khổ.
Trong hành vi giao tiếp, ý và nghĩa không phải lúc nào cũng thống nhất với
nhau. Có lúc ý và nghĩa trái ngược nhau.
“ Mừng ra nước mắt, nén đau lại cười ” ( Tố Hữu )
Cũng có cái cười vui, có tiếng cười mỉa mai, châm chọc, thậm chí có cái cười
đau khổ.
Tóm lại, hành vi giao tiếp sư phạm biểu lộ mối quan hệ chặt chẽ giữa nhu cầu,
động cơ, nhận thức, niềm tin, thái độ của cá nhân hòa quyện với yêu cầu đòi hỏi
của xã hội tạo thành nội dung tâm lý có vai trò quan trọng cho hoạt động giao
tiếp của thầy, cô với học sinh đạt hiệu quả cao.
2 . Nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm
Nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm là những nội dung giao tiếp mang
tính chất tạm thời, vụ việc, xảy ra trong quan hệ giữa giáo viên và học sinh. Đó
là các nội dung mang tính chất kinh tế ( thu học phí, qũy lớp...), chính trị ( sinh
hoạt cá tổ chức đoàn, đội, hội phụ huynh học sinh ...), pháp quyền ( về việc vi
phạm nội quy của học sinh, các hình thức kỷ luật tương ứng ), giáo dục thuyết
phục (đối với học sinh cá biệt )...
Để khai thác nội dung công việc trong giao tiếp sư phạm, chúng ta chỉ phân tích
một số công việc thường xảy ra trong nhà trường.
a. Công việc mang tính chất kinh tế, bao gồm các công việc như : thu học phí,
những đóng góp xây dựng quỹ trường, quỹ lớp... Những công việc này có liên
quan đến tiền.
Giáo viên không nên giữ tiền mặt mà chỉ nên là chủ tài khoản ( học sinh hoặc
phụ huynh giữ tiền ), khi chi tiêu phải có hóa đơn, chứng từ rõ ràng, quyết toán
công khai, tránh sự nghi ngờ của học sinh đối với thầy, cô giáo.
Xây dựng cho học sinh ý thức trách nhiệm trong việc góp phần tạo cơ sở vật
chất và những điều kiện cần thiết đảm bảo cho quá trình dạy và học. Ngăn chặn
ý nghỉ “ kinh tế đơn thuần ”, học phí để nuôi thầy cô vậy thầy cô phải dạy tốt.
Hướng cho học sinh có tinh thần sẵn sàng giúp đỡ những gia đình khó khăn,
gia đình thương binh, liệt sĩ , những học sinh nghèo vượt khó.
b. Công việc về rèn luyện ý thức, kỷ luật.
Các thầy cô giáo thường xuyên nhắc nhở học sinh và bản thân mình phải
gương mẫu, thực hiện quy chế.
Ví dụ : đi học đúng giờ...
Đối với học sinh có khuyết điểm, thầy giáo cần tìm rõ nguyên nhân, đến với các
em bàng tình cảm khoan dung, độ lượng, không trù úm, định kiến với học sinh.
c. Vui chơi, giải trí : công việc này thường xảy ra trong giờ chơi, các ngày lễ hội,
nếu có sự tiếp xúc giữa thầy cô với các em sẽ tiếp thêm niềm vui cho các em.
Những cong việc trong nhà trường bao giờ cũng chứa đựng một nội dung giáo
dục rèn luyện nhất định cho sự phát triển nhân cách của học sinh. Do đó, giáo
viên bằng cách giao tiếp ứng xử của mình, bằng những việc làm của mình tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho các em học tập và rèn luyện.
Qua công việc được thầy cô giao cho các em học sinh thực hiện, những khả
năng của các em được bộc lộ, nhiều phẩm chất nhân cách được hình thành và
phát triển, các em sửa được nhiều thói xấu.
Như trường hợp đi học trễ được giao làm đội trưởng đội cờ đỏ. Hay g gỗ, đánh
nhau được giao làm đội trưởng đội bóng đá. Rùt rè, ít nói được giao làm lớp
phó học tập.
Công việc hằng ngày diễn ra trong nhà trường thể hiện một cách chân thực
nhất cách đời thường của giáo viên và học sinh.
Giao tiếp trong công việc bao giờ cũng mang tính chất hoàn cảnh, tình huống
tạm thời, xảy ra trong thời gian ngắn. Nhưng chính thái độ và hành vi ứng xử
của thầy cô giáo và học sinh ở những tình huống này chứa đựng một bản chất
thực vốn có của mỗi người.
Những nguyên tắc giao tiếp sư phạm
1. Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp
Chúng ta biết rằng : ai cũng có lòng tự trọng. Nếu ta gọi một học sinh lên bảng,
rồi chửi học sinh thế này, thế nọ thì chẳng những không có tác dụng giáo dục
mà còn ngược lại.
Tôn trọng nhân cách đối tượng là đánh giá đúng nhân phẩm của học sinh, đôí
xử bình đẳng, dân chủ với các em. Tin tưởng, tôn trọng cái riêng và thương yêu
học sinh.
Hãy để cho đối tượng bộc lộ những nét tính cách, thái độ, nhu cầu riêng,
không nên áp đặt bắt học sinh phải theo ý của thầy cô hoặc cha mẹ.
Biết lắng nghe và gợi lên nhu cầu chính đáng của học sinh.
Tôn trọng nhân cách học sinh thể hiện rõ nét nhất ở ngôn ngữ nói, giọng điệu,
cách phát âm, việc sử dụng từ sao cho đảm bảo được tính văn hóa. Không nên
dùng ngôn ngữ nói xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của các em nhất là ở nơi
công cộng, đông người, trước lớp học.
Trong khi tiếp xúc với học sinh, giáo viên phải tế nhị, không nên đang tiếp học
sinh mà xem đồng hồ, nói chuyện với người khác, thậm chí nhổ nước miếng
hoặc càng không nên cười cợt, ngắt lời học sinh khi các em đang trình bày say
sưa một ý kiến gì đó.
Giáo viên phải luôn có ý thức tôn trọng học sinh mặc dù đó là những học trò,
các em đã ý thức được trách nhiệm của mình trước thầy cô và nhà trường.
Aên mặc, trang điểm của giáo viên cũng là một biểu hiện sự tôn trọng nhân
cách của học sinh.
2. Có niềm tin trong giao tiếp sư phạm:
Một điều kiện tiên quyết của mọi sự tiếp xúc giữa con người với con người là tin
ở đối tượng giao tiếp của mình.
Học sinh đi thi mà không tin ở trình độ học vấn của mình thì dễ bị trượt. Người
lính ra trận mà không tin vào sự chiến thắng của mình thì khó có những sự tích
anh hùng ...
Tin tưởng vào học sinh là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao, là nguồn sức mạnh
giúp thầy cô vượt qua những khó khăn thường nhật của đời thường để hoàn
thành tốt nhiệm vụ
Niềm tin có một sức mạnh giáo dục to lớn đối với học sinh.
Trong dạy học và giáo dục, thầy cô giáo luôn luôn biết đặt niềm tin của mình
một cách chân thực vào những học sinh chưa ngoan hoặc chậm hiểu. Chính từ
đó, các em học sinh này sẽ cố gắng pấnấu để khỏi phụ niềm tin của thầy cô
giáo và nhiều trong số những em đó sẽ thành đạt.
3. Nguyên tắc vô tư, xây dựng ( không vụ lợi ):
Nguyên tắc này thể hiện :
Biết đặt lợi ích của học sinh vì học sinh là trước hết. Không vì lợi ích bản thân
mà gây thiệt hại uy tín nhân cách của học sinh. Khẩu hiệu : “ Tất cả vì học sinh
thân yêu ”, thực chất là một trong những nguyên tắc ứng xử, giao tiếp của thầy
cô giáo đối với học sinh.
Không được phép tính toán thiệt hơn, suy bì, ghen tị với những thành công
hoặc cười cợt chế giễu trước những thất bại của học sinh.
Đối xử với học sinh phải công bằng, không định kiến.
4. Nhạy bén, đồng cảm trong giao tiếp:
Các thầy cô gio phải biết đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của các em để tiếp
xúc, để cùng rung cảm, cùng suy nghĩ với các em.
Biết sống trong niềm tin và nổi buồn của các em, phải yêu thương, đồng cảm
với các em.
Ứng xử khéo léo trong các tình huống giao tiếp cụ thể đối với học sinh.
Để có khả năng đồng cảm với học sinh, giáo viên cần lưu ý :
Thành thật chú ý đến học sinh, quan tâm đến các em.
Biết mĩm cười thân mật khi tiếp xúc với học sinh.
Giong nói biểu hiện một thái độ thiện cảm, nhẹ nhàng, dịu hiền, ôn tồn, ngay
cả lúc kiên quyết, dứt khoát.
Không nên gây căng thẳng trong tâm trí học sinh, sau mỗi lần tiếp xúc nên tạo
cho các em những niềm vui mới.
Luôn luôn tạo cho học sinh một cảm giác an toàn, dễ chịu trong suốt quá trình
giao tiếp.
Nếu phải nghe một học sinh tâm sự, hãy cố gắng khuyến khích để các em nói
thỏa mãn.
Chỉ nhận xét học sinh trước lớp khi đã đủ thông tin từ mọi phía.
Cần có lời khen thành thật đối với học sinh.
Ai cũng thích khen, đặc biệt là học sinh, tuy nhiên khi khen cần lưu ý :
Chỉ những hành vi đáng khen hãy khen, trương hợp nào cũng khen thì không
có tác dụng.
Chỉ khen những hành vi biểu hiện sự cố gắng.
Khen nhiều mặt, khen phải công minh, tạo ra đồng tình của tập thể.
Khen phải đúng lúc.
Câu hỏi ôn tập
1. Giao tiếp sư phạm là gì ? Phân tích các nội dung tâm lý trong giao tiếp sư
phạm.
2. Hãy phân tích nội dung nguyên tắc tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp
sư phạm ? Cho ví dụ sâu sắc về việc thực hiện nguyên tắc này đạt hiệu quả
giáo dục cao mà anh ( chị ) đã gặp hoặc nghe kể lại ?
3. Anh ( chị ) hiểu câu : “ Mất niềm tin là mất tất cả ” như thế nào ?
4. Phân tích nội dung của nguyên tắc vô tư, xây dựng và nhạy bén, đồng cảm
trong giao tiếp ? Cho ví dụ minh họa.
Phong cách giao tiếp sư phạm và ý nghĩa của nó
1 . Thế nào là phong cách giao tiếp?
Trước khi phát biểu phong cách là gì? Chúng ta hãy xem xét những dấu hiệu cơ
bản của nó, đó là:
Hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động
tương đối ổn định, bền vững của cá nhân. Có nghĩa là, con người hoạt động,
ứng xử ... tương đối như nhau trong tình huống khác nhau.
Ví dụ: Người giáo viên có phong cách giảng bài chậm rãi, ung dung, thư thái thì
không chỉ trên lớp mà ngay cả với đồng nghiệp, người thân trong gia đình, họ
cũng nói chậm rãi ung dung như vậy.
Hệ thống những phương pháp, thủ thuật ... qui định những đặc điểm khác biệt
giữa các cá nhân. Chẳng hạn, Cũng vẫn phong cách giảng bài ung dung, thư
thái nhưng thầy A khác với cô B. Thầy A cường độ, âm điệu ngôn ngữ mạnh mẽ
hơn, dứt khoát, rõ ràng. Còn cô B thì hiền dịu, nhẹ nhàng, êm ái.
Hệ thống những phương tiện có hiệu quả giúp cá nhân thích nghi với những
thay đổi môi trường ( nhất là môi trường xã hội ). Dấu hiệu này nói lên sự linh
hoạt, cơ động, mềm dẻo của các phương pháp, thủ thuật...ứng xử của cá nhân.
Trong giao tiếp sư phạm, dấu hiệu này có thể coi là sự khéo léo đối xử sư phạm
của giáo viên.
Qua phân tích trên ta có thể phát biểu định nghĩa phong cách giao tiếp như sau:
Phong cách là toàn bộ những phương pháp, thủ ật tiếp nhận, phản ứng hành
động tương đối ổn định, bền vững của mỗi cá nhân, chúng qui định sự khác biệt
giữa cá nhân, giúp cá nhân thích nghi với môi trường sống ( đặc biệt là môi
trường xã hội ) để tồn tại và phát triển.
Từ định nghĩa trên ta thấy phong cách cá nhân có hai phần:
Phần ổn định, tương đối bền vững của phong cách. Phần ổn định này qui
định sự khác biệt cá nhân, biểu hiện thói quen phản ứng trả lời kích thích tác
động.
Ví dụ: có người nói nhanh, người nói chậm. Có học sinh khi trả bài bao giờ cũng
run run, sợ sệt lúc ban đầu, sau đó ít giây mới ổn định nói được rõ ràng, mạch
lạc. Có thầy giáo khi giảng bài lại ưa đi đi lại lại trên bục giảng.
Tư thế đi đứng đều góp phần quan trọng vào phong cách cá nhân, chẳng thế
mà ngày xưa thời phong kiến, các vua, quan lại triều đình đều được học tập
cách đi đứng cho hiên ngang, oai vệ, thậm chí còn có cả những qui định về y
phục, sắc phục để khi mặc vào tạo ngay dáng đi hợp với vị trí xã hội mà họ
chiếm giữ.
• Phần ổn định, một phần do cấu tạo cơ thể và các chức năng hoạt động
của cơ thể tạo nên.
Ví dụ: người phụ nữ có cổ cao, tiếng nói thanh, nhẹ nhàng hơn người phụ
nữ có cổ ngắn (cổ rụt).
• Vai trò xã hội của cá nhân có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra phong cách.
Do sự phân công lao động của xã hội đòi hỏi những đặc trưng tâm lý đối với
mỗi nghề tạo ra phong cách mới.
Thay đổi các quan hệ xã hội buộc con người phải có phong cách ứng xử phù
hợp.
Ví dụ: vì lương thấp, một số cô giáo xin thôi việc để buôn bán, quan hệ với
khách hàng... nên buộc cô phải thay đổi cách ứng xử.
Phần linh hoạt, cơ động của phong cách giúp cá nhân thích ứng với môi
trường sống thay đổi. Sự thay đổi của môi trường sống là nguyên nhân trực tiếp
làm thay đổi phong cách của con người.
Phong cách thay đổi theo lứa tuổi.
Ví dụ: phong cách của thanh niên khác với phong cách của người già.
Do quan hệ với từng loại đối tượng mà phong cách cũng thay đổi.
Chẳng hạn, quan hệ với con cái, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp thì phong thái
cũng khác nhau.
Sự thay đổi nghề nghiệp, cách làm ăn, sinh sống cũng là điều kiện làm thay
đổi phong cách ứng xử của con người.
Sự thay đổi các yếu tố tâm sinh lí đều phản ánh vào sắc thái phong cách của
con người.
Tóm lại:
Phần linh hoạt, cơ động của phong cách do mỗi cá nhân tự tạo lập trong cuộc
sống và hoạt động đặc biệt là trong mối quan hệ xã hội. Nhờ đặc điểm này,
chúng ta mới xây dựng cho học sinh những thói quen hành vi có văn hóa.
2 . Phong cách giao tiếp sư phạm và ý nghĩa của nó trong việc hình thành nhân cách của
học sinh:
a. Phong cách giao tiếp sư phạm là gì?
Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp, thủ
thuật tiếp nhận, phản ứng hành động tương đối ổn định, bền vững của giáo viên
và học sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm.
b. Các loại phong cách giao tiếp sư phạm:
b1. Phong cách dân chủ trong giao tiếp sư phạm:
Là phong cách giao tiếp mà thầy cô giáo coi trọng những đặc điểm tâm lý cá
nhân, vốn sống, kinh nghiệm, trình độ nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú
và các mức độ tích cực nhận thức của học sinh. Biết lắng nghe, tôn trọng và
đáp ứng kịp thời nguyện vọng chính đáng của học sinh.
Phong cách này có tác dụng tích cực như sau:
• Tạo ra một niềm tin yêu, kính trọng ở các em đối với thầy cô giáo.
• Tạo ra ở các em học sinh tính độc lập, sáng tạo, sự ham mê hiểu biết,
kích thích hoạt động nhận thức ở các em.
• Tạo cho các em tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện để nhân cách
càng phát triển và hoàn thiện từng bước theo yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, khi giáo viên sử dụng phong cách giao tiếp này cũng cần lưu ý:
• Không nên “ nuông chiều thả mặc ” học sinh.
• Không đề cao cá nhân, không theo đuôi những đòi hỏi không xuất phát tư
ø lợi ích chung.
• Không dân chủ quá trớn, dễ mất đi ranh giới giữa thầy và trò “ cá mè một
lứa ” .
b2. Phong cách độc đoán:
Phong cách độc đóan trong giao tiếp là phong cách giao tiếp mà giáo viên chỉ
chú ý đến nội dung công việc và giới hạn thời gian thực hiện công việc một cách
cứng nhắc mà không chú ý đến đặc điểm tâm lý riêng của đối tượng.
Phong cách giao tiếp này có một số điểm cần lưu ý:
• Dễ gây ra sự chống đối của học sinh đối với giáo viên.
• Thẳng thắn quá, nhiều khi thiếu tế nhị.
Tuy nhiên phong cách này cũng có một số tác dụng:
• Những công việc đòi hỏi thời gian ngắn, nếu không kiên quyết, dứt khoát,
cứng rắn... thì không hoàn thành được.
• Phong cách này phù hợp với những học sinh có khí chất linh hoạt, nóng
nảy thường có thói quen dứt điểm nhanh chóng khi thực hiện công việc.
b3. Phong cách tự do:
Phong cách tự do là phong cách mà giáo viên linh hoạt thay đổi cách ứng xử
theo sự thay đổi của hoàn cảnh giao tiếp.
Phong cách giao tiếp này co ưu điểm:
• Mềm dẻo, linh hoạt trong giao tiếp.
• Dễ dàng thay đổi nội dung, mục đích thậm chí thay đổi cả đối tượng giao
tiếp.
Tuy nhiên, loại phong cách giao tiếp này cũng có nhược điểm:
• Đôi khi không làm chủ được xúc cảm của mình.
• Thường những người có phong cách giao tiếp hay dễ dãi đến mức quá
đáng.
• Ba loại phong cách giao tiếp trên đây đều có những ưu điểm và những
hạn chế nhất định. Để quá trình giao tiếp đạt hiệu qủa cao, giáo viên cần
phải biết phối hợp cả ba loại phong cách giao tiếp trên.
3. Những phẩm chất tâm lý cần thiết đảm bảo cho phong cách giao tiếp của thầy, cô giáo
thành công:
a. Một số phẩm chất tâm lý cần có của giáo viên để dễ dàng thiết lập và đạt hiệu
qủa cao trong giao tiếp.
• Cởi mở, vui tươi, dễ mến, dễ gần.
• Công bằng, thẳng thắn, trung thực.
• Dễ thông cảm với người khác.
• Có chí hướng vươn lên trong chuyên môn, trong công tác.
• Khiêm tốn, giản dị.
• Thận trọng trong suy nghĩ, lời nói và việc làm.
• Biết nhìn người giao việc.
• Biết lôi kéo học sinh vào công việc.
• Độc lập, sáng tạo.
• Có khả năng tập hợp, đoàn kết mọi người.
b. Những phẩm chất tâm lý, điệu bộ, cử chỉ, hành vi cần thiết để thiết lập mối
quan hệ ban đầu trong giao tiếp sư phạm.
• Nét mặt vui tươi, rạng rỡ, mĩm cười thiện cảm.
• Cởi mở, tự nhiên trong cách nói và hành vi.
• Cử chỉ, điệu bộ ung dung, chậm rãi, lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn.
• Thực sự quan tâm đến đối tượng giao tiếp một cách thành thật.
• Thực sự chú ý đến nhu cầu, nguyện vọng của học sinh.
• Nếu tiếp xúc với một em học sinh thì hãy nên biết tên em đó và dùng tên
đó trong khi nói chuyện, giao tiếp.
• Biết chăm chú nghe và khuyến khích học sinh nói thật lòng mình.
c. Những phẩm chất tâm lý, cử chỉ, điệu bộ, hành vi có ảnh hưởng tốt trong quá
trình giao tiếp với học sinh.
• Hãy nói và khuyến khích những sở thích của học sinh.
• Lắng nghe và khích lệ, động viên các em nói hết những mong muốn, băn
khoăn của họ.
• Khen ngợi một cách thành thật những ưu điểm của các em.
• Không nên quát tháo, xỉ nhục các em.
• Tạo bầu không khí tiếp xúc thoải mái, tin tưởng ở các em và để lại ấn
tượng tốt đẹp trong suốt quá trình tiếp xúc.
Câu hỏi ôn tập
1. Thế nào là phong cách? Phong cách giao tiếp sư phạm là gì? Có mấy loại
phong cách giao tiếp sư phạm? Ý nghĩa của phong cách này đối với việc
xây dựng nhân cách học sinh.
2. Phân tích và lấy ví dụ minh họa những phẩm chất tâm lý cần thiết đảm
bảo cho phong cách giao tiếp thành công.
3. Vì sao phong cách giao tiếp sư phạm lại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của
quá trình dạy học? Cho ví dụ minh họa.
Các kỹ năng giao tiếp sư phạm
1 . Kỹ năng giao tiếp sư phạm là gì?
Kỹ năng giao tiếp sư phạm là toàn bộ những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ phối
hợp hài hòa, hợp lý của giáo viên nhằm đảm bảo cho sự tiếp xúc với học sinh
đạt kết quả trong hoạt động sư phạm với sự tiêu hao năng lượng tinh thần, cơ
bắp ít nhất trong điều kiện thay đổi.
2. Những kỹ năng giao tiếp sư phạm:
a . Nhóm các kỹ năng định hướng giao tiếp sư phạm:
• Nhóm kỹ năng định hướng trớc khi tiếp xúc với học sinh. Đó là một thói
quen khi tiếp xúc với một học sinh nào đó, cần có những thông tin cần
thiết về em đó. Ví dụ , tên em là gì? Em học lớp nào? Học giỏi hay kém...
ở môn nào? Về nhân cách: em ngoan hay hư...? Hiện nay em có nhu cầu
gì?... Ba mẹ em làm nghề gì? ... Những thông tin này rất cần thiết giúp
thầy cô giáo “ phác thảo chân dung ” con người của em học sinh, mình
cần tiếp xúc. Định hướng trước khi tiếp xúc là để có một mô hình tâm lý
về con người học sinh mà mình sẽ tiếp xúc. Dự đoán trước những phản
ứng sẽ xảy ra của học sinh trong quá trình giao tiếp, từ đó giáo viên có
cách ứng xử phù hợp để đạt hiệu quả giao tiếp cao.
• Định hướng bắt đầu tiếp xúc. Khi tiếp xúc với học sinh, thầy cô giáo gặp
mặt trực tiếp với các em. Tuy đã có dự đóan trước, nhưng đó chỉ là mô
hình giả định. Sự dự kiến trước có thể trùng khớp, có thể chỉ đúng một số
chi tiết, có thể sai nhiều chi tiết...
Do đó, để tránh những định kiến, những sai lầm trong giao tiếp , giáo viên phải
linh hoạt, mềm dẻo, khi tiếp xúc phải quan sát học sinh để kiểm nghiệm đúng,
sai của mô hình giả định, từ đó giúp cho sự giao tiếp của giáo viên và học sinh
đạt kết quả cao.
Định hướng trong quá trình giao tiếp.
Thực chất là sự thành lập các thao tác trí tuệ cơ động, linh hoạt của chủ thể
giao tiếp cho phù hợp với những thay đổi liên tục của thái độ, hành vi, cử chỉ,
nội dung ngôn ngữ ... mà đối tượng giao tiếp phản ứng trong quá trình giao tiếp.
Có thể định hướng trước và thời gian đầu tiếp xúc giống nhau, nhưng trong quá
trình giao tiếp do nhiều nguyên nhân khác nhau, đối tượng giao tiếp thay đổi
quan điểm, chính kiến, thái độ, nhu cầu ... thì chủ thể giao tiếp phải thay đổi
hướng tiếp xúc để đạt mục đích của quá trình giao tiếp.
b. Nhóm kỹ năng nhận biết những dấu hiệu bên ngoài của học sinh:
Nhóm kỹ năng nhận biết những dấu hiệu bên ngoài của học sinh được khái
quát thành hai dấu hiệu:
• Nhóm dấu hiệu bên ngoài. Được nhận biết bằng dấu hiệu cảm tính,
những dấu hiệu này như: chiều cao, dáng, đầu, tóc, răng, miệng, tay
chân, quần áo... giới tính, lứa tuổi...
• Nhóm dấu hiệu về nhân cách: tính tình, trí tuệ, xúc cảm, tình cảm, đạo
đức...
Kỹ năng nhận biết những dấu hiệu bên ngoài là nhằm xây dựng được “mô hình
nhân cách” chính xác về đối tượng giao tiếp để quá trình giao tiếp đạt hiệu quả
cao.
c. Kỹ năng định vị:
Kỹ năng định vị là kỹ năng xây dựng “mô hình hóa tâm lý”, “phác thảo chân
dung tâm lý” về đối tượng giao tiếp một cách tương đối chính xác và ổn định.
Kỹ năng này có một số đặc điểm:
• Phác thảo chân dung tâm lý tương đối ổn định về đối tượng giao tiếp.
• Nhờ đó mà chủ thể giao tiếp ứng xử phù hợp với nhu cầu, mong muốn
của đối tượng giao tiếp.
Nội dung chủ yếu của kỹ năng này là phác thảo về dấu hiệu nhân cách, vị trí
của học sinh trong các quan hệ xã hội. Đồng thời nó còn xác định những xu
hướng của nhân cách đối tượng giao tiếp.
Nhờ kỹ năng này con người mới đồng cảm được với nhau, chia ngọt xẻ bùi
cùng với nhau.
d. Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp:
Cổ nhân đã từng hướng dẫn con người tự điều khiển mình trong các trường
hợp ứng xử khó khăn: “ Xử những việc khó xử, càng nên khoan dung; xử với
người khó xử càng nên trung hậu; xử những buổi khó khăn, ngờ vực... càng
nên tự nhiên như vô tâm ”
Để điều khiển quá trình giao tiếp, giáo viên phải biết “đọc được qua nét mặt,
ngôn ngữ, xúc cảm, biểu cảm, qua cử chỉ, điệu bộ, dáng đi... biết học sinh muốn
gì? có nhu cầu gì?
Trong nhóm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp gồm các thành phần sau:
• Biết phát hiện (bằng mắt quan sát) những thay đổi trên nét mặt, cử chỉ,
điệu bộ... sự vận động của toàn cơ thể của đối tượng giao tiếp. Những cử
chỉ, ánh mắt ngượng ngùng, lúng túng không ăn nhập, không hợp lí... đều
ẩn dấu một thái độ,một ý nghĩa nhất định.
• Biết nghe. Ta phải biết lắng nghe, nghĩa là biết tập trung chú ý để lắng
nghe đối tượng giao tiếp nói, để hiểu nội dung ngôn ngữ nói.
• Biết xử lí thông tin. Trong khi nhìn, nghe, tiếp nhận thông tin từ phía học
sinh, giáo viên phải có quá trình sànglọc, đối chiếu, so sánh các loại thông
tin vốn có trong kinh nghiệm của mình, trong đầu óc của mình nhằm kiểm
nghiệm, đánh giá các loại thông tin đó.
• Biết điều khiển. Biết điều khiển, nghĩa là có hành vi ứng xử phù hợp, khoa
học, đúng, chính xác với nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng của đối
tượng giao tiếp trong hoạt động sư phạm.
Biết điều khiển là người có khả năng linh hoạt, uyển chuyển, cơ động trong
hành vi ứng xử của chủ thể cho phù hợp với những thay đổi nhỏ của đối tượng
giao tiếp.
Để điều khiển tốt quá trình giao tiếp, chủ thể giao tiếp còn phải biết lựa chọn
thời cơ, giới tính, lứa tuổi, trình độ nhận thức... của đối tượng giao tiếp.
e. Kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp:
Phương tiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nói.
Ngôn ngữ nói là phương tiện được sử dụng nhiều nhất, có hiệu quả cao trong
quá trình giao tiếp sư phạm, đặc biệt trên lớp học. Có hai hình thức sử dụng:
Ngôn ngữ độc thoại: Ngôn ngữ độc thoại là hình thức nói của một người,
những người khác chỉ nghe, đó là hình thức thầy giáo giảng bài, học sinh
nghe.Để giao tiếp sư phạm trên lớp có hiệu quả, ngôn ngữ nói của thầy cô cần
đạt được những yêu cầu sau:
• Dễ hiểu, mạch lạc, rõ ràng, dễ nhớ.
• Lời giảng xúc tích, có nhiều thông tin hữu ích.
• Đảm bảo được tính hợp lý, khoa học, hệ thống trong bài giảng và phù hợp
với học sinh.
• Cách nói của thầy phải hấp dẫn học sinh.
• Phải có kỹ năng làm chủ lời nói của mình.
Muốn vậy, giáo viên cần lưu ý:
• Phải nắm vững nội dung bài giảng một cách nhuần nhuyễn.
• Được luyện tập, rèn luyện nói nhiều lần.
• Nói phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
Ngôn ngữ đối thoại:
Ngôn ngữ đối thoại là hình thức thầy cô hỏi, học sinh trả lời hoặc ngược lại.
Đặc điểm của ngôn ngữ đối thoại:
• Ngắn gọn, dễ hiểu.
• Nằm trong văn cảnh, hoàn cảnh cụ thể.
• Có nội dung cụ thể.
• Rút gọn, khái quát cao.
Ngôn ngữ Viết:
• Ngôn ngữ viết trên bảng: Cần phải trình bày bảng một cách khoa học để
giúp học sinh dễ hiểu bài, dễ ghi bài, theo dõi bài một cách hệ thống.
• Ngôn ngữ viết vào bài vở, kiểm tra của học sinh: Ngôn ngữ giao tiếp qua
chữ viết vào vở, bài kiểm tra của học sinh có ý nghĩa khích lệ, động viên,
đánh giá sự hiểu bài ở mức độ khác nhau của các em.
Khi viết lời phê, giáo viên cần lưu ý:
• Chữ viết rõ ràng, dễ đọc, rõ ý nghĩa của lời phê.
• Cách viết rõ ý, ví dụ: bài làm tốt, khá, kém...
• Có thể nhận xét tỉ mỉ hơn về nội dung tri thức, công thức, bài tập nào đó.
• Có thể sửa chửa công thức, lời văn... bằng viết đỏ để học sinh dễ nhận ra
chỗ sai, đúng của mình.
• Nếu nhận xét vào vở thì nên ghi cả ngày tháng nhận xét để học sinh ý
thức rõ mức độ phấn đấu của mình trong học tập.
Phương tiện phi ngôn ngữ:
Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đi, đứng... Giao tiếp phi ngôn ngữ là những biểu
hiện thông qua cơ thể như cử chỉ, tư thế, điệu bộ hoặc một số đồ vật gắn với cơ
thể như: nón, áo, quần, kính... Thường khi giảng bài mới, tốt nhất là tư thế
đứng, mắt hướng về phía học sinh, miệng thoáng nở nụ cười hiền dịu, tay ghi
bảng, đứng chếch người về bên phải bảng để học sinh dễ theo dõi, ghi bài. Khi
kiểm tra tốt nhất là ngồi trên bục giảng để quan sát các em làm bài, có thể ngồi
ở cuối lớp, thỉnh thoảng có thể đi lại trong lớp để quan sát các em làm bài. Cần
tránh đi lại quá nhiều làm cho sự chú ý của học sinh căng thẳng. Điệu bộ, cử chỉ
dù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_giao_tiep_su_pham.pdf