MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU i
MỤC LỤC ii
CHƯƠNG 1 –GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG CỦA MÔN HỌC .1
1.2 CÁC THUẬT NGỮLIÊN QUAN TỚI HÌNH THÁI BỜBIỂN .2
1.3 KỸTHUẬT BỜBIỂN, HÌNH THÁI BỜBIỂN VÀ QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỜBIỂN.4
QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỜ BIỂN.6
1.4 LỊCH SỬVÀ XU THẾPHÁT TRIỂN .8
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH KỸ THUẬT BỜ BIỂN.8
XU THẾ PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI .9
1.5 MỘT SỐKHÁI NIỆM CƠBẢN VỀVÙNG VEN BIỂN .10
1.6 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH BỜBIỂN VIỆT NAM .13
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN BẮC.14
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN TRUNG .15
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH VÙNG BỜ BIỂN MIỀN NAM.16
CHƯƠNG 2 – SÓNG, MỰC NƯỚC VÀ DÒNG CHẢY
2.1 GIỚI THIỆU.18
2.2 LÝ THUYẾT SÓNG TUYẾN TÍNH CỦA AIRY.18
CÁC GIẢI THIẾT CƠ BẢN VÀ ĐẶC TRƯNG SÓNG .19
NĂNG LƯỢNG SÓNG .23
PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA LÝ THUYẾT SÓNG .25
.26 2.3 HIỆN TƯỢNG TRUYỀN SÓNG VÀ BIẾN DẠNG SÓNG
HIỆN TƯỢNG TRUYỀN SÓNG Ở VÙNG NƯỚC SÂU .26
SỰ BIẾN DẠNG SÓNG Ở GẦN BỜ.29
HIỆN TƯỢNG KHÚC XẠ SÓNG VÀ NHIỄU XẠ SÓNG .31
2.5 THỦY TRIỀU VÀ SỰDAO ĐỘNG MỰC NƯỚC .36
A-THỦY TRIỀU VÀ DÒNG TRIỀU .37
NGUỒN GỐC THỦY TRIỀU.37
PHÂN TÍCH VÀ DỰBÁO THỦY TRIỀU .40
DÒNG TRIỀU.41
B- CHẾ ĐỘ TRIỀU Ở BỜ BIỂN VIỆT NAM .45
C-NƯỚC DÂNG Ở BỜ BIỂN VIỆT NAM .46
NƯỚC DÂNG DO GIÓ MÙA .47
NƯỚC DÂNG DO BÃO .47
ĐẶC ĐIỂM NƯỚC DÂNG DỌC BỜBIỂN VIỆT NAM .49
D- SỰ BIẾN ĐỔI MỰC NƯỚC TRONG THỜI ĐOẠN DÀI.52
SỰDAO ĐỘNG MỰC NƯỚC DO ĐIỀU KIỆN THỜI TIẾT .52
SỰBIẾN ĐỔI MƯC NƯỚC BIỂN.53
SỰBIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU .53
CHƯƠNG 3 – ĐỘNG LỰC HỌC BỜBIỂN
3.1 SÓNG VỠVÀ CÁC ĐẶC TRƯNG SÓNG VỠ.56
CÁC DẠNG SÓNG VỠ.56
.59 GIỚI HẠN SÓNG VỠ VÀ CHIỀU CAO SÓNG VỠ
3.2 DÒNG CHẢY HÌNH THÀNH DO SÓNG ỞVÙNG GẦN BỜ.62
DÒNG TIÊU VÀ DÒNG TUẦN HOÀN.64
CƠCHẾHÌNH THÀNH DÒNG TIÊU .65
DÒNG CHẢYDỌC BỜ HÌNH THÀNH DO SÓNG TÁC DỤNG THEO HƯỚNG XIÊN GÓC VỚI ĐƯỜNG BỜ.66
TÍNH TOÁN VẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ.67
PHÂN BỐVẬN TỐC DÒNG CHẢY DỌC BỜ.71
CÁC GIẢTHIẾT CỦA LONGUET-HIGGINS.73
SO SÁNH PHÂN BỐLƯU TỐC DỌC BỜLÝ THUYẾT VÀ THỰC ĐO .74
PHÂN BỐLƯU TỐC DỌC BỜCỦA MỘT PHỔSÓNG .
PHÂN BỐLƯU TỐC DỌC BỜTRÊN MẶT CẮT Y=(x)2/3.
DÒNG CHẢY DO SÓNG KẾT HỢP VỚI DAO ĐỘNG MỰC NƯỚCDỌC BỜ.79
CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA GIÓ VÀ THỦY TRIỀU TỚI DÒNG CHẢY VEN BỜ.81
CHƯƠNG 4 – VẬN CHUYỂN BÙN CÁT BỜBIỂN
4.1 MỘT SỐKHÁI NIỆM CƠBẢN VỀVÂN CHUYỂN BÙN CÁT .83
KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT .83
CÁC HÌNH THỨC VẬN CHUYỂN BÙN CÁT.87
4.2 CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA BÙN CÁT BỜBIỂN .88
GIỚI THIỆU CHUNG .88
THÀNH PHẦN BÙN CÁT.88
ĐƯỜNG KÍNH HẠT BÙN CÁT .89
BIẾN ĐỔI ĐƯỜNG KÍNH HẠT THEO KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN .92
HÌNH DẠNG.94
ĐỘ RỖNG .95
ĐỘ THÔ THỦY LỰC CỦA BÙN CÁT .96
4.3 TỐC ĐỘKHỞI ĐỘNG /ỨNG SUẤT TIẾP TỚI HẠN .98
4.4 TỔNG QUAN VỀVẬN CHUYỂN BÙN CÁT VEN BỜ.
4.5 VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ.103
GIỚI THIỆU CHUNG .103
TÍNH TOÁN VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ.105
CÔNG THỨC CERC (1966) 105
CÔNG THỨC BIJKER (1967) 108
CÔNG THỨC KAMPHUIS (1991) 109
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT "TỊNH" VÀ "TỔNG CỘNG" DỌC BỜ.112
SUẤT CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ THỰC TẾ.114
4.6 VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG .
GIỚI THIỆU CHUNG .
TRẠNG THÁI THỦY ĐỘNG LỰC HỌC BÊN NGOÀI VÙNG SÓNG VỠ
DÒNG CHẢY TẠI LỚP BIÊN 17
CÁC SÓNG PHI TUYẾN
DÒNG TRÔI DO SÓNG TẠO NÊN
DÒNG CHẢY RỐI TRUNG BÌNH
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG BÊN NGOÀI VÙNG SÓNG VỖERROR! BOOKMARK
NOT DEFINED.
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG TRONG VÙNG SÓNG VỖERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED.
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN
MÔ HÌNH VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG ĐƠN GIẢN CHƯƠNG 5 – DIỄN BIẾN BỜBIỂN
5.1 HÌNH DẠNG MẶT CẮT NGANG BỜBIỂN VÀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG .
GIỚI THIỆU .
ĐẶC TRƯNG VÀ TƯƠNG QUAN HÌNH DẠNG BÃI BIỂN.
TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DỐC BÃI BIỂN VỚI ĐƯỜNG KÍNH HẠT CÁT .
TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ DỐC BÃI BIỂN VỚI NĂNG LƯỢNG SÓNG
5.2 MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN ỞTRẠNG THÁI CÂN BẰNG
GIỚI THIỆU CHUNG .
CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN CÂN BẰNGERROR! BOOKMARK NOT
DEFINED.
CÁC LỰC TÁC DỤNG Ở VÙNG VEN BỜ.
CÁC LỰC GÂY PHÁ HOẠI BÃI BIỂN .
CÁC LỰC CÓ TÁC DỤNG THÀNH TẠO BÃI BIỂN .
MÔ HÌNH MẶT CẮT CÂN BẰNG XÂY DỰNG TRÊN QUAN ĐIỂM CÂN BẰNG LỰC .ERROR!
BOOKMARK NOT DEFINED.
LỰC DO TIÊU TÁN NĂNG LƯỢNG SÓNG TRONG 1 ĐƠN VỊTHỂTÍCH
LỰC DO SỰTIÊU TÁN NĂNG LƯỢNG SÓNG TRÊN 1 ĐƠN VỊDIỆN TÍCH .
LỰC SINH RA DO ỨNG SUẤT TIẾP ĐỒNG NHẤT Ở ĐÁY .
MÔ HÌNH MẶT CẮT CÂN BẰNG XÂY DỰNG TRÊN QUAN ĐIỂM VẬN CHUYỂN BÙN CÁT CÁC DẠNG MẶT CẮT NGANG CÂN BẰNG KHÁC.
5.3 SỰTƯƠNG TÁC GIỮA BÃI BIỂN VỚI SÓNG VÀ MỰC NƯỚC.
MÔ HÌNH TƯƠNG TÁC GIỮA BÃI BIỂN VỚI BIẾN ĐỔI MỰC NƯỚC.
a) SỰGIA TĂNG MỰC NƯỚC BIỂN VÀ TƯƠNG TÁC CỦA BÃI BIỂN
B) QUY TẮC BRUUN .
C) PHƯƠNG PHÁP EDELMAN .
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT NGANG THEO MÙA .
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT CÂN BẰNG DƯỚI TÁC DỤNG CỦA BÃO .159
BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG MẶT CẮT DƯỚI TÁC DỤNG CỦA THỦY TRIỀU .161
CHƯƠNG 6 – MÔ HÌNH HÓA BÃI BIỂN VÀ ĐƯỜNG BỜ
6.1 GIỚI THIỆU CHUNG.164
6.2 MÔ HÌNH HÓA BỜBIỂN BẰNG MÔ HÌNH VẬT LÝ.166
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ MÔ HÌNH VẬT LÝ.166
BỂ TẠO SÓNG VÀ MÁNG TẠO SÓNG.168
MÔ HÌNH LÒNG CỨNG.169
6.3 MÔ HÌNH HÓA ĐƯỜNG BỜBẰNG PHƯƠNG PHÁP GIẢI TÍCH.171
MÔ HÌNH HÌNH THÁI ĐƯỜNG BỜ DẠNG ĐƯỜNG ĐƠN.172
PHƯƠNG TRÌNH LIÊN TỤC.173
PHƯƠNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG.174
GIẢI HỆPHƯƠNG TRÌNH LIÊN TỤC VÀ PHƯỜNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG.176
ÁP DỤNG MÔ PHỎNG HIỆN TƯỢNG BỒI LẮNG ỞTRƯỚC ĐẬP PHÁ SÓNG.176
ĐÁNH GIÁ CÁC HẠN CHẾCỦA LÝ THUYẾT ĐƯỜNG ĐƠN.181
6.4 MÔ HÌNH TOÁN DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ.183
6.5 ĐO ĐẠC MẶT CẮT NGANG BÃI BIỂN.189
A. KHẢO SÁTBẰNG PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG.189
B. KHẢO SÁT BẰNG PHƯƠNG PHÁP HIỆN ĐẠI.191
B-1 CRAB.191
B-2 SEA SLED.192
B-3 THIẾT BỊ ĐO SÂU THEO NGUYÊN LÝ ÁP LỰC THỦY TĨNH.192
TÓM TẮT.193
CHƯƠNG 7 – SỰBIẾN ĐỔI ĐƯỜNG BỜVÀ
CÁC GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH ĐƯỜNG BỜ
7.1 GIỚI THIỆU.194
7.2 NGUYÊN NHÂN GÂY XÓI LỞ ĐƯỜNG BỜ.195
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÓI LỞ BỜ BIỂN .195
SỰ SUY GIẢM NGUỒN BÙN CÁT TỪ SÔNG ĐỔ RA BIỂN.197
SỰ SUY GIẢM NGUỒN CUNG CẤP BÙN CÁT TỪ CÁC ĐỤN CÁT GẦN BỜ.199
DO KHAI THÁC TRẦM TÍCH VÀ KHOÁNG SẢN Ở BỜ BIỂN .
SỰ GIA TĂNG NĂNG LƯỢNG SÓNG DO THỀM BÃI BỊ HẠ THẤP
DO GIÁN ĐOẠN VẬN CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ.
DO SỰ THAY ĐỔI CỦA GÓC SÓNG TỚI SO VỚI ĐƯỜNG BỜ.
SỰ GIA TĂNG GÓC SÓNG TÁC DỤNG TỚI ĐƯỜNG BỜ.
DO SỰ GIA TĂNG LƯỢNG BÙN CÁT BỊ TỔN THẤT TRÊN BÃI CAO.
DO SỰ GIA TĂNG BÃO BIỂN .
SỰ GIA TĂNG XÓI LỞ DO CÁC SÓNG PHẢN XẠ.
SỰ SUY GIẢM ĐỘ LỚN THỦY TRIỀU.
7.3 BẢO VỆBỜBIỂN .
KHÔNG LÀM GÌ – DI DỜI VÀ DỊCH CHUYỂN TỚI NƠI AN TOÀN
GIẢI PHÁP BẢO VỆ "MỀM" .
CÁC CÔNG TRÌNH ỔN ĐỊNH BỜ – GIẢI PHÁP “CỨNG”.
ĐẬP MỎHÀN .
KÈ BẢO VỆBỜ.
TƯỜNG BIỂN.
XÓI LỞSAU KHI XÂY DỰNG TƯỜNG BIỂN.
ĐẬP PHÁ SÓNG NGOÀI KHƠI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
231 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5304 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Hình thái bờ biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ll (1956) đã tiến hành những
đo đạc sớm nhất về lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ, mối liên hệ giữa suất chuyển
bùn cát dọc bờ và năng lượng sóng. Savage (1962) từ những số liệu đo đạc trên kết
hợp với những số liệu đo đạc trong phòng thí nghiệm đã xây dựng nên công thức tính
toán vận chuyển bùn cát dọc bờ. Công thức này sau đó đã được Hiệp hội Kỹ thuật của
Quân đội Mỹ (U.S. Army Corps of Engineers) giới thiệu trong cuốn Sổ tay Thiết kế
Bờ biển năm 1966, và từ đó được biết đến với tên là công thức “CERC”. Sau này
105
Inman và Bagnold (1963), Komar và Inman (1970), dựa trên các số liệu đo đạc thực
địa, đã tiếp tục có những cải tiến công thức CERC ban đầu và công thức CERC cải
tiến tiếp tục được sử dụng trong Cuốn Sổ tay Bảo vệ Bờ biển (Shore Protection
Manual) xuất bản năm 1977 và 1984.
Công thức CERC được phát triển trên cơ sở xem năng lượng sóng là động lực chính
làm vận chuyển bùn cát dọc bờ, từ đó xem xét tương quan giữa lượng bùn cát được
vận chuyển ở bờ biển và năng lượng sóng giải phóng trong quá trình sóng vỡ. Trong
công thức chỉ xem xét vai trò của sóng đối với vận chuyển bùn cát mà không xét tới
ảnh hưởng của dòng triều, độ dốc bãi biển, tính chất của bùn cát trên bãi biển.
Dạng công thức cổ điển nhất của công thức CERC, chính là công thức của Munch-
Peterson, biểu diễn lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ có tương quan với thông lượng
sóng thành phần theo phương dọc bờ (PL), trong đó chỉ số “L” chỉ thành phần theo
phương dọc bờ của thông lượng sóng đơn vị P = ECn = ECg (công thức 2.11)
PL = (ECg)b sinαb cosαb (4.1a)
Biểu thức (ECg)b còn được gọi là thông lượng sóng tại điểm sóng vỡ - hay năng
lượng mạch động của sóng tại điểm sóng vỡ; Eb là năng lượng sóng tại điểm sóng vỡ
và αb là góc sóng vỡ so với đường bờ,
21
8b b
E gHρ= (4.1b)
Cgb là vận tốc nhóm sóng tại điểm sóng vỡ, được tính theo công thức sau:
1
2
b
gb b
b
HC gd g γ
⎛ ⎞= =⎜ ⎟⎝ ⎠
(4.1c)
γb là giới hạn sóng vỡ (γb = Hb/hb), thường lấy bằng 0,78 đối với bãi biển
phẳng
Trọng lượng ướt của bùn cát vận chuyển theo phương dọc bờ (IL) có cùng thứ
nguyên với thông lượng sóng thành phần theo phương dọc bờ (PL) là N/giây hoặc
lbf/giây, và tương quan tuyến tính giữa hai đại lượng có cùng thứ nguyên này được
biểu diễn bằng hệ số kinh nghiệm không thứ nguyên (A)
IL = A × PL (4.1d)
Lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ (QL) thường được biểu diễn dưới dạng thể tích
bùn cát vận chuyển qua mặt cắt ngang bãi biển trong 1 đơn vị thời gian và có đơn vị là
m3/ ngày; hoặc m3/năm; một dạng biểu diễn khác của QL chính là IL - Trọng lượng ướt
của bùn cát vận chuyển theo phương dọc bờ
IL = (ρs - ρ) g (1 - n) QL (4.1e)
Trong đó ρs và ρ là trọng lượng riêng của bùn cát và nước, g là gia tốc trọng trường
và n là độ rỗng của bùn cát trên bãi biển (n ≈ 0.4)
Thế các công thức (4-1e,d,c,b) vào công thức (4-1a), ta có
106
( )( ) ( )
5
2 sin 2
16 1L bb s
g
Q A H
n
ρ
bαγ ρ ρ
⎛ ⎞= ⎜ ⎟⎜ ⎟− −⎝ ⎠
(4.1)
Rất nhiều tài liệu đưa ra các giá trị khác nhau của hệ số kinh nghiệm không thứ
nguyên (A), tùy thuộc vào cách lấy chiều cao sóng vỡ là Hrms hay Hs. Trong Sổ tay
Hướng dẫn Bảo vệ bờ biển năm 1984 (Shore Protection Manual, 1984) hệ số A lấy
theo Hs là ASPM sig = 0.39. Hệ số A lấy theo Hrms là ASPM rms = 0.92; Komar và Inman
(1970) thì đề nghị lấy hệ số AK&I rms = 0.77
Do hệ số A là hệ số kinh nghiệm, được xác định bằng cách tìm hệ số tương quan
tuyến tính giữa IL và PL (hình 4.14a), nên tương ứng với chuỗi số liệu đo đạc tại các
vùng biển có đặc tính khác nhau, ta sẽ thu được các giá trị A khác nhau.
Hình 4.14a Tương
quan tuyến tính giữa
PL và IL , xác định từ
chuỗi số liệu thực đo
tại Mỹ, Canada,
Nhật Bản
(theo CEM -2002)
Các nghiên cứu sau này về vận chuyển bùn cát dọc bờ đã cho thấy hệ số tương quan
A không phải là hằng số mà là hàm của các yếu tố như góc sóng vỡ, loại sóng vỡ và
đường kính trung bình của bùn cát trên bãi biển.
Del Valle, Medina, và Losada (1993), dựa trên các số liệu đo đạc diễn biến bờ biển
do vận chuyển bùn cát dọc bờ tại đồng bằng sông Adra, Tây Ban Nha, đã đưa ra công
thức kinh nghiệm tính toán hệ số A là hàm của đường kính trung bình của bùn cát D50.
Kết quả của Del Valle và cộng sự khá phù hợp với các số liệu đo đạc của Komar
(1988) và được áp dụng cho trường hợp sóng vỡ Hb rms
( )502.51.4 DbrmsA e
−=
Khi tính toán vận chuyển bùn cát dọc bờ bằng công thức CERC cần lưu ý rằng, chỉ
nên áp dụng công thức này cho các bờ biển thẳng và dài, bùn cát trên bãi biển là đồng
107
nhất, ít có sự khác biệt giữa chiều cao sóng vỡ tại các điểm trên bờ biển và không xét
tới ảnh hưởng của dòng triều.
CÔNG THỨC BIJKER (1967)
Để xây dựng công thức tính toán vận chuyển bùn cát dọc bờ có xét tới ảnh hưởng
của dòng triều và các dòng chảy gần bờ khác, thì công thức tính toán vận chuyển bùn
cát cần phải kết hợp với mô hình dòng chảy dọc bờ. Bijker (1967) đã đề xuất một công
thức tính toán sức tải của bùn cát đáy do tác dụng của sóng và dòng chảy trên cơ sở
công thức tính toán sức tải bùn cát đáy dưới tác dụng của dòng chảy của Kalinske-
Frijlink. Từ công thức của Kalinske, một công thức có xét tới sự gia tăng của ứng suất
đáy do tác dụng của sóng đã được xây dựng. Sau này, Bijker (1968) đã bổ sung thêm
hàm phân bố của sức tải bùn cát lơ lửng vào thành phần sức tải bùn cát đáy. Hàm
phân bố này được xây dựng dựa trên các nghiên cứu về phân bố nồng độ bùn cát lơ
lửng theo chiều sâu của Einstein-Rouse. Công thức Bijker cho tới nay vẫn đang được
áp dụng rất rộng rãi và phổ biển trên thế giới.
2
50
50 2
2
0.27exp
11
2
b
b
D CvS D g
C Uv
v
ξ
⎡ ⎤⎢ ⎥Δ⎢ ⎥= −⎢ ⎥⎧ ⎫⎪ ⎪⎛ ⎞⎢ ⎥+⎨ ⎬⎜ ⎟⎢ ⎥⎝ ⎠⎪ ⎪⎩ ⎭⎣ ⎦
(4.2)
Trong đó:
Sb = sức tải của bùn cát đáy
b = hằng số = 5
D50 = đường kính trung bình của hạt cát
v = vận tốc dòng chảy
C = Hệ số Chezy = 18 log (12d/r)
d = độ sâu nước
r = hệ số nhám ở đáy
g = gia tốc trọng trường
Δ = tỷ trọng riêng = (ρs- ρw)/ρw
ρs = trọng lượng riêng của cát
ρw = trọng lượng riêng của nước
μ = (C/C90)1.5, với C90 = 18 log (12d/D90)
ξ = C(fw/2g)0.5 với f w = exp{-6.0 + 5.2(ao / r)0.19}
a0 = biên độ của quỹ đạo chuyển động tại đáy
ub = biên độ của vận tốc chuyển động quỹ đạo đáy
Công thức sức tải bùn cát lơ lửng được viết như sau:
108
bbs SQIr
dISS 83.133ln83.1 21 =⎭⎬
⎫
⎩⎨
⎧ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛ += (4.3)
Trong đó : Ss = sức tải cát lơ lửng
Sb = sức tải bùn cát đáy
I1, I2 = các nguyên số của Einstein
1
1
1
c
z
r
d
yI R d
y
⎡ ⎤−= ⎢ ⎥⎣ ⎦∫ y ;
1
2
1
c
z
r
d
yI R Ln y d
y
y
⎡ ⎤⎛ ⎞−= ⎢ ⎥⎜ ⎟⎝ ⎠⎣ ⎦∫
Giá trị nằm trong ngoặc { } trong công thức (4.3) là hàm số giữa độ nhám tương đối
của đáy r/h và giá trị của Z* = ω/κν*, với ω = là độ thô thủy lực của hạt cát trong nước
tĩnh, κ = 0.4 và
⎪⎭
⎪⎬
⎫
⎪⎩
⎪⎨
⎧ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛+=
2
* 2
11
v
u
C
gvv bξ (4.4)
Nếu giá trị của tích (1.83 Q) được xác định thì tổng lượng bùn cát được vận chuyển
theo công thức của Bijker sẽ là
S = Sb+Ss = (1 + 1.83 Q) Sb
Trong công thức (4.2), có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị của hằng số (b) và nó có
liên quan trực tiếp đến kết quả tính toán của công thức. Hầu hết các ứng dụng có sử
dụng công thức của Bijker đều lấy giá trị của b =5, nhưng một số trường hợp lại lấy
các giá trị khác của b, ví dụ như tại dải sóng vỡ b = 5 còn bên ngoài vùng sóng vỡ thì
b=2. Các số liệu thực đo hiện có cho phép kiểm định công thức của Bijker rất ít, điều
này cũng có nghĩa là có thể điều chỉnh giá trị của b cho các trường hợp mang tính địa
phương.
Công thức của Bijker, so với các công thức khác, đã xét tới ảnh hưởng của kích
thước hạt bùn cát, độ dốc đáy và độ nhám ở đáy. Việc sử dụng công thức này, từ
những sai số có thể xảy ra khi ước lượng các điều kiện trong thực tế sẽ dẫn tới sự khai
khác rất nhỏ trong kết quả tính toán
CÔNG THỨC KAMPHUIS (1991)
Các tương quan kinh nghiệm giữa năng lượng mạch động sóng và lượng bùn cát vận
chuyển dọc bờ trình bày ở trên hầu hết đều được xây dựng trên cơ sở các số liệu đo đạc
đồng thời năng lượng sóng và lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ. Trong đó lượng bùn cát
vận chuyển dọc bờ có thể đo đạc trực tiếp bằng các thiết bị đánh dấu bùn cát hoặc đo
đạc gián tiếp thông qua lượng bùn cát bị chặn lại và gây bồi lấp ở thượng lưu các đê
chắn sóng hoặc các đập phá sóng ngoài khơi như đã nêu ở phần trước. Kỹ thuật đo đạc
trực tiếp lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ tới nay vẫn còn hạn chế, còn tính toán gián
109
tiếp lượng vận chuyển bùn cát qua thể tích bùn cát bồi lấp tại thượng lưu các đập chắn
sóng thì có thế có sai số rất lớn, nhất là khi các tham số sóng trong tự nhiên lại không
thể kiểm soát được. Điều này đã dẫn tới việc các nhà nghiên cứu chuyển sang làm các
thực nghiệm và đo đạc vận chuyển bùn cát dọc bờ trong phòng thí nghiệm trên các "bể
tạo sóng nhân tạo" .
Một nghiên cứu vận chuyển bùn cát ven bờ điển hình trong phòng thí nghiệm sẽ bao
gồm một bể sóng (wave basin) được lắp đặt máy tạo sóng dọc theo chiều dài của bể, bãi
biển nhân tạo được bố trí ở phía đầu kia của bể sao cho khi sóng vỡ sẽ tạo với đường bờ
một góc nghiêng. Dòng chảy dọc bờ trong bể sóng sẽ được hình thành khi sóng vỡ tạo
với đường bờ một góc nghiêng, làm vận chuyển bùn cát dọc bờ biển, và thể tích bùn cát
được vận chuyển theo hướng dọc bờ trong bể sóng sẽ được giữ lại bên trong bể lắng
nằm ở hạ lưu của bãi biển thí nghiệm trong bể sóng.
Nghiên cứu vận chuyển bùn cát ven bờ trong phòng thí nghiệm cho phép khống chế
được các điều kiện biên và điều kiện ban đầu trong quá trình thực nghiệm, từ kích thước
của bùn cát đáy tới chiều cao, chu kỳ và góc sóng vỡ, cũng như thời gian duy trì sóng,
điều mà không thể làm được trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên với những hạn chế nhất
định khi chế tạo các mô hình vật lý tái tạo lại bãi biển trong phòng thí nghiệm với tỷ lệ
thu nhỏ, sẽ rất khó mô tả sự vận chuyển bùn cát do các hiện tượng bất thường gây ra
như gió, bão, và cũng như các biến đổi dị thường của địa hình đáy biển.
Trong số các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm được mô tả ở trên có nghiên cứu của
Kamphuis là tương đối hoàn chỉnh hơn cả. Ông đã thu thập và xây dựng được bộ số liệu
vận chuyển bùn cát đo đạc trong phòng thí nghiệm và ngoài tự nhiên khá đầy đủ và sử
dụng các số liệu này để thiết lập các tương quan giữa lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ
với các điều kiện biên như sóng, đặc điểm bùn cát trên bãi biển và độ dốc bãi biển.
Phương pháp xây dựng tương quan của Kamphuis là phương pháp phân tích thứ
nguyên có sử dụng các tương quan kinh nghiệm và các tỷ số không thứ nguyên của
nhiều thông số khác nhau, hơn là thông qua việc xem xét các quá trình vật lý của hiện
tượng vận chuyển bùn cát dọc bờ và vai trò của chúng trong vận chuyển bùn cát dọc bờ.
Theo như tổng kết của Kamphuis (1990), tương quan kinh nghiệm của vận chuyển bùn
cát dọc bờ có dạng như sau:
( ) (
1.25 0.25
0.75 0.6
3
0 50
0,0013 sin 2br brL b
br
H HQ S
L DH T
)αρ
−⎛ ⎞ ⎛ ⎞= ⎜ ⎟ ⎜ ⎟⎝ ⎠ ⎝ ⎠
(4.9)
Trong đó S là độ dốc bãi biển, D50 là đường kính trung bình của bùn cát trên bãi biển,
αb là góc sóng đổ, Hbr là chiều cao sóng đổ, L0 là chiều dài sóng ở vùng nước sâu
Hình (4-14) vẽ các số liệu thí nghiệm, trình bày tương quan giữa số liệu thực đo và
kết quả tính toán lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ theo công thức (4.9). Khi tiến hành
110
ngoại suy đường tương quan cho thấy sự phù hợp khá hợp lý với các số liệu thực đo,
mặc dù nó chưa phải là kết quả tốt nhất.
Hình 4-14 Tương
quan giữa suất
chuyển bùn cát tính
toán (theo công thức
4.9) với suất chuyển
bùn cát thực đạc, thu
được từ các thực
nghiệm trên bể sóng
của Kamphuis và các
cộng sự.
Hơn thế nữa, một kết quả phân tích thứ nguyên khác của Kamphuis (1990) xuất phát
từ các số liệu đo đạc độc lập đã dẫn tới một tương quan khác, như sau:
( ) (
0.5 1.0
1.0
3
0 50
0,0006 sin 2br bsL b
bs
H HQ S
L DH T
)αρ
⎛ ⎞ ⎛ ⎞= ⎜ ⎟ ⎜ ⎟⎝ ⎠ ⎝ ⎠
(4.10)
tương quan này có dạng khác với tương quan trong công thức (4.9), đặc biệt là trong
việc tìm ra một hệ số cân xứng sin(2ab) = 2sinαb×cosαb thay thế cho [sin(2αb)]0.6 , và
cũng có sự khác biệt đáng kể trong nhiều hệ số mũ kinh nghiệm. Đóng góp chủ yếu từ
các công thức kinh nghiệm của Kamphuis là ở chỗ chúng đưa ra những gợi ý về sự phụ
thuộc của lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ với các tham số chính chi phối quá trình vận
chuyển bùn cát dọc bờ như: thước hạt bùn cát (D50), góc sóng đổ (αb), độ dốc bãi biển
(S), độ dốc sóng được biểu diễn bằng tỷ số (Hbs/L0).
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về vận chuyển bùn cát dọc bờ đã có bổ sung
thêm những hiểu biết về quá trình vận chuyển của bùn cát ở ven bờ và xây dựng được
bộ số liệu đo đạc vận chuyển bùn cát dọc bờ trong các trạng thái điều kiện biên đã được
khống chế cẩn thận.
Tuy vậy, nghiên cứu này vẫn còn những điểm không rõ ràng như mối liên quan giữa
các đo đạc trong phòng thí nghiệm với các số liệu thu thập tại các bãi biển trong điều
kiện tự nhiên, hay độ tin cậy của các đo đạc trong phòng thí nghiệm trong những trạng
thái dòng chảy và điều kiện sóng bất thường. Do các mô hình thực nghiệm thường có tỷ
111
lệ nhỏ, nên hầu hết các số liệu đại diện cho hệ số Pl và suất chuyển bùn cát thường có độ
lớn nhỏ hơn 2 lần so với kết quả thu được ngoài thực tế.
Cần lưu ý rằng, đối với bờ biển sỏi cuội, thì các công thức (4.9) và (4.10) của
Kamphuis cho kết quả tính toán thiên lớn vì chúng không xét tới thành phần ứng suất tới
hạn (trong công thức giả thiết là các hạt bùn cát dịch chuyển kể cả trong điều kiện sóng
nhỏ, điều này là đúng đối với hạt cát nhưng không đúng đối với hạt sỏi, dăm). Do vậy
các kết quả tính toán này có thể chỉ mang tính chất tham khảo khi tiến hành các nghiên
cứu vận chuyển bùn cát dọc bờ áp dụng cho các hạt có kích thước lớn hơn đường kính
bình thường của hạt cát trên bãi biển, và cần hết sức thận trọng khi áp dụng các công
thức trên cho những trường hợp này.
VẬN CHUYỂN BÙN CÁT "TỊNH" VÀ "TỔNG CỘNG" DỌC BỜ
Vận chuyển bùn cát "tịnh" dọc bờ được định nghĩa là tổng lượng bùn cát dịch chuyển
dưới tác động của chuỗi tất cả các sóng đi tới bờ biển, có xét tới sự khác biệt về hướng
truyền sóng. Ví dụ, trên một bờ biển có hướng bắc-nam, bùn cát ở bờ biển có thể dịch
chuyển về hướng Bắc trong mùa hè, do tác dụng của các sóng có hướng từ Nam ra Bắc
và sau đó dịch chuyển theo hướng ngược lại về hướng Nam trong mùa đông, do tác
dụng của các sóng có hướng từ Bắc vào Nam. Vận chuyển bùn cát "tịnh" tại bờ biển
dưới tác dụng của hai chuỗi sóng tới trên sẽ là hiệu số giữa lượng bùn cát vận chuyển từ
Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.
Nhìn chung, lượng vận chuyển bùn cát "tịnh" nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng bùn
cát vận chuyển trên bãi biển tới từ hai hướng khác nhau, hay còn được gọi là "vận
chuyển bùn cát tổng cộng ở vùng ven bờ". Một số bờ biển, vận chuyển bùn cát tổng
cộng có thể rất lớn nhưng vận chuyển bùn cát tịnh lại có thể xấp xỉ bằng 0.
Hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ có thể thay đổi theo mùa. Việt Nam nằm trong khu
vực chịu ảnh hưởng rõ rệt của chế độ gió mùa, với sự khác biệt về hướng gió chính giữa
mùa hè và mùa đông có thể tạo nên sự khác biệt về hướng sóng tới bờ biển theo cả
hướng sóng và độ lớn sóng. Ví dụ, ở miền Bắc, hướng vận chuyển bùn cát chủ đạo vào
mùa đông là hướng Nam và Tây Nam do tác dụng của các sóng hình thành khi gió mùa
Đông Bắc thổi từ Bắc vào Nam. Vào mùa hè, do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, tác
dụng sóng lại có hướng ngược lại. Vận chuyển bùn cát có hướng từ Nam ra Bắc do vậy
sẽ chiếm ưu thế trên bãi biển trong suốt mùa hè. Tuy vậy, vận chuyển bùn cát theo
hướng Nam vào mùa đông vẫn chiếm ưu thế so với vận chuyển bùn cát vào mùa hè, do
vậy, vận chuyển bùn cát tịnh sẽ có hướng từ Bắc vào Nam.
Các bằng chứng về sự biến đổi hình dạng đường bờ như mô tả trong hình (4-15)
thường được sử dụng để xác định hướng vận chuyển bùn cát "tịnh" dọc bờ. Hầu hết các
biến đổi đường bờ này đều phản ánh hướng vận chuyển bùn cát "tịnh", và là kết quả của
112
một quá trình vận chuyển bùn cát có thời đoạn dài, là tập hợp của nhiều sự kiện vận
chuyển bùn cát đơn lẻ. Tác dụng chắn giữ bùn cát của các công trình ven bờ như đê phá
sóng, đập mỏ hàn , đập chắn sóng liền bờ ngoài cảng, có thể cung cấp những dấu hiệu rõ
ràng nhất về hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ. Sự bồi tích gần các đập mỏ hàn thường
nhỏ và đôi khi phản ánh hướng hướng vận chuyển bùn cát ngược với hướng vận chuyển
bùn cát tịnh trong đoạn ngắn, trong khi đối với các đê phá sóng và các đập chắn sóng
ngoài khơi, thì dấu hiệu này thường phản ảnh tốt hơn hướng vận chuyển tịnh trong thời
đoạn dài.
Đối với những bờ biển
mà vận chuyển bùn cát
ven bờ có tính mùa rõ rệt
như ở bờ biển miền Trung
Việt Nam thì khi phân tích
các dấu hiệu biến đổi
đường bờ, cần phải xem
xét thêm các số liệu sóng
trong quá khứ, đặc điểm
địa hình đường bờ ở lân
cận vùng nghiên cứu và
ảnh hưởng của nguồn bùn
cát sông tới biến đổi
đường bờ.
Sự lệch hướng của dòng
chảy khi đổ ra biển hoặc sự
lệch hướng của dòng triều
do ảnh hưởng của dòng chảy
dọc bờ và sự dịch chuyển
của đường bờ tại các mũi
đất (có tác dụng như một
đập chắn sóng liến bờ), cho
thấy những dấu hiệu rất rõ về hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ chủ đạo theo mùa và
trong thời kỳ nhiều năm.
Hình 4-15 Các dấu hiệu chỉ hướng vận chuyển bùn
cát dọc bờ thịnh hành ở vùng duyên ven bờ. Bờ biển
thường bị bồi lấp ở thượng lưu và xói lở ở hạ lưu của
công trình theo hướng vận chuyển bùn cát chính.
Ngoài ra, để xác định hướng vận chuyển bùn cát, cũng như xác minh nguồn bùn cát,
người ta hay sử dụng sử dụng phương pháp dò tìm đường đi của các hạt khoáng vật kim
loại nặng dị có bên trong các mẫu bùn cát trên bãi biển. Trask (1952,1955) sử dụng các
hạt khoáng vật nặng augite làm vật đánh dấu sự dịch chuyển của bùn cát theo hướng dọc
bờ trên bờ biển nam California ở Mỹ, và qua đó đã chứng minh rằng, bùn cát gây bồi lấp
113
cảng Santa Barbara có nguồn gốc ở thượng lưu cách cảng 160km, được hình thành từ đá
núi lửa tại vùng vịnh Morro.
Sự biến đổi kích thước trung bình của hạt bùn cát trên bãi biển và thành phần cấu tạo
theo hướng dọc bờ thường được diễn giải như những bằng chứng về hướng vận chuyển
bùn cát dọc bờ "tịnh". Thông thường thì đường kính trung bình của hạt bùn cát sẽ giảm
dần theo hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ. Tuy nhiên, có rất nhiều lý do gây biến đổi
kích thước hạt cát, kể cả sự biến đổi năng lượng sóng dọc bờ do ảnh hưởng của địa hình
bờ biển và sự mất cân xứng về cường độ năng lượng sóng tại các cung phần tư ngược
nhau ở trong vịnh, hoặc do sự trao đổi bùn cát ở bờ biển với vùng ngoài khơi khi bùn cát
bị dịch chuyển theo phương vuông góc với đường bờ. Do vậy, nhiều khi trường phân bố
biến đổi kích thước hạt bùn cát dọc theo chiều dài bờ biển có thể không phải là bằng
chứng rõ ràng nhằm chỉ hướng vận chuyển bùn cát tịnh dọc bờ.
SUẤT CHUYỂN BÙN CÁT DỌC BỜ THỰC TẾ
Các công thức tính toán vận chuyển bùn cát dọc bờ giới thiệu ở trên mới chỉ tính toán
khả năng vận chuyển bùn cát của dòng chảy dọc bờ chứ không phải là lượng bùn cát
thực tế được vận chuyển theo hướng dọc bờ. Giả sử lượng bùn cát có trên bãi biển và
vùng ven bờ là không hạn chế thì lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ thực tế sẽ chính là
khả năng vận chuyển bùn cát dọc bờ tính toán. Nhưng nếu bờ biển này có cấu tạo hoàn
toàn là đá, không có bùn cát thì lượng bùn cát thực tế vận chuyển dọc bờ sẽ bằng 0. Ở
đây, khi tính toán lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ theo các công thức đã nêu ở trên thì
cần phải phân biệt rõ ràng giữa khả năng vận chuyển bùn cát dọc bờ - thường là kết quả
tính toán theo công thức với lượng bùn cát thực tế được vận chuyển dọc bờ.
Lượng bùn cát vận chuyển dọc bờ thực tế được xác định bằng cách tính toán cân
bằng bùn cát giữa lượng bùn cát vào, lượng bùn cát ra, nguồn bùn cát bổ sung (source)
và lượng bùn cát mất đi (sink). Tính toán này được gọi là tính toán cân bằng bùn cát.
“Sources” được xem là các nguồn cung cấp cát cho bờ biển từ sông, hoặc từ các đụn
cát, bờ biển dốc đang bị xói lở, đi kèm với hiện tượng suy thoái của đường bờ biển. Các
điểm gây mất bùn cát (sink) thường là các điểm lấy bùn cát ra khỏi "hệ thống bờ biển" ,
như các vực biển, các lạch triều, các điểm khai thác cát có quy mô lớn ven biển. Gió,
thổi từ biển vào đất liền cũng là tác nhân gây mất bùn cát ra khỏi hệ thống bờ biển. Các
hoạt động của con người ở ven biển cũng là một tác nhân quan trọng làm mất bùn cát, ví
dụ như nạo vét cát ở các lạch triều, luồng tàu, khai thác cát ven biển để xây dựng công
trình, khai thác khoáng sản...vv.
Để minh họa cho các khái niệm trên, một ví dụ đơn giản về khả năng vận chuyển
bùn cát và lượng bùn cát vận chuyển thực tế sẽ được xem xét, trong đó xét tới sự
tương tác của sóng, và thể tích bùn cát hiện có trên bãi biển. Xét quá trình vận chuyển
114
bùn cát dọc bờ tại một đoạn
bờ biển cát, nằm trong thể
tích khống chế bùn cát như
hình (4-16). Bùn cát được
đưa tới "thể tích khống chế"
với tốc độ vận chuyển bùn
cát thực tế, lượng bùn cát ra
khỏi thể tích khống chế là
hàm của lượng bùn cát hiện
có với tương tác giữa sóng và
bùn cát tại đoạn bờ biển, theo
lý thuyết có thể đạt tới tốc độ
vận chuyển bùn cát tiềm
năng. Nếu lượng bùn cát đi ra khỏi thể tích khống chế lớn hơn lượng bùn cát đi vào,
hiện tượng xói lở bờ biển sẽ xuất hiện tại đoạn bờ biển này dẫn tới sự suy thoái đường
bờ. Sự suy giảm lượng bùn cát trên bãi biển và ở bãi trước, đồng nghĩa với việc lượng
bùn cát có ở bãi biển, trực tiếp tham gia vào quá trình tương tác giữa sóng và bùn cát
sẽ ít đi. Điều này sẽ làm giảm lượng bùn cát thực tế đi ra khỏi đoạn bờ biển nghiên
cứu. Xét trong một thời đoạn dài, kích thước bãi biển và khối lượng cát sẽ điều chỉnh
tới trạng thái gần như cân bằng với các sóng tới theo mùa và suất chuyển bùn cát đến
(thực tế) sao cho lượng bùn cát đi vào sẽ cân bằng với lượng bùn cát đi ra khỏi thể tích
khống chế.
Hình 4-16 "Thể tích khống chế" bùn cát ở vùng
4.6 VẬN CHUYỂN BÙN CÁT THEO PHƯƠNG NGANG
GIỚI THIỆU CHUNG
Không giống như các nghiên cứu vận chuyển bùn cát dọc bờ, vận chuyển bùn cát
theo phương vuông góc với bờ biển mới được quan tâm trong khoảng 10 năm gần
đây. Các nghiên cứu về vận chuyển bùn cát ngang bờ vẫn còn nhiều vấn đề chưa
được làm sáng tỏ và do vậy, nó đang là hướng nghiên cứu thu hút rất nhiều các nhà
khoa học trong lĩnh vực kỹ thuật bờ biển cả trong nghiên cứu thực nghiệm lẫn lý
thuyết.
Vận chuyển bùn cát theo phương ngang là hình thức vận chuyển bùn cát rất quan
trọng vì hình dạng mặt cắt ngang được tạo nên do hiện tượng xói lở/ bồi lấp có liên
quan tới vận chuyển bùn cát theo phương ngang. Như đã mô tả ở phần trước, một mô
hình chi tiết của dòng chảy dọc bờ hình thành do sóng và vận chuyển bùn cát dọc bờ
được xem như số liệu đầu vào cho mô hình diễn biến bờ biển. Hình dạng của bãi
biển cát thay đổi liên tục và nó có thể có những thay đổi đáng kể trong thời gian xảy
115
ra bão. Về nguyên tắc, sẽ không thể thực hiện các mô tả chi tiết sự vận chuyển bùn
cát dọc bờ nếu không có mô hình vận chuyển bùn cát theo phương ngang và mô hình
mô phỏng sự phát triển hình dạng mặt cắt ngang. Cũng cần phải lưu ý rằng trong
thực tế mô hình phát triển hình dạng mặt cắt ngang bãi biển vẫn chưa đạt tới trình độ
có thể được tích hợp với các mô hình vận chuyển bùn cát dọc bờ trong thời đoạn
ngắn và do vậy mà các mô phỏng trên thường dựa trên các hình dạng mặt cắt ngang
bãi biển trung bình.
Giả thiết rằng, trường hợp được coi là hai chiều hoàn chỉnh sẽ không có dòng chảy
trung bình theo phương ngang. Trường hợp này mô tả các trạng thái thực nghiệm
được xét tới trong một máng sóng thông thường, tuy nhiên, trong tự nhiên giả thiết
dòng chảy trung bình theo phương ngang có giá trị bằng 0, trong nhiều trường hợp,
là không phù hợp. Các biến thiên nhỏ trên một mặt cắt ngang bãi biển đồng nhất có
thể tạo thành các dòng chảy tuần hoàn theo phương ngang và thậm chí trạng thái
hoàn toàn đồng nhất có thể không ổn định, dẫn tới một loạt các dòng chảy tuần hoàn
theo phương ngang và dòng tiêu.
Tuy nhiên, trạng thái hai chiều hoàn chỉnh được quan tâm một cách đáng kể khi
nó được dẫn chứng bằng tư liệu một cách đầy đủ và do tất cả các cơ chế trên cũng rất
hoạt động trong trường hợp dòng chảy ba chiều phức hợp. Trạng thái mạch động
theo phương ngang bằng không thực sự phức tạp hơn rất nhiều so với dòng chảy
trung bình có vận tốc lớn, do rất nhiều các cơ chế khác nhau sẽ tham gia vào việc
hình thành vận chuyển bùn cát mà không kể tới khả năng loại trừ của một trường hợp
bất kỳ cho trước. Với một dòng chảy có vận tốc lớn, ảnh hưởng của ứng suất tiếp
trung bình sẽ có vai trò chủ đạo đối với dòng chảy trung bình và đối với vận chuyển
bùn cát.
Cơ chế vận chuyển bùn cát theo phương ngang sẽ được mô tả cù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
hinh_thai_bo_bien_1798.pdf