Giáo trình Hỗ trợ nhân viên công tác xã hội

CÁC YẾU TỐ GÂY NÊN STRESS

Người ta có thể xem xét nguyên nhân của stress từ các góc độ sau đây:

- Yếu tố từ môi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi, và sự

ô nhiễm.

- Yếu tố từ môi trường xã hội

 Vấn đề quan hệ trong gia đình: con cái lấy vợ chồng, mâu thuẫn trong gia

đình, nuôi dạy con, mất mát của người thân, tài chính trong gia đình

 Quan hệ xã hội (ngoài gia đình, bạn bè, đồng nghiệp)

- Yếu tố từ công việc: vấn đề liên quan tới ngành nghề, công việc, áp lực thời gian

công việc, quan hệ cấp trên - dưới, môi trường làm việc không phù hợp, không

nghề nghiệp

- Yếu tố từ bản thân cá nhân chủ thể:

 Thể chất: Thay đổi cơ thể (tuổi về hưu, tuổi tiền mãn kinh, dậy thì ),

không đủ chất dinh dưỡng, ốm đau, bệnh tật

 Đặc điểm cá nhân: Tính cách cá nhân, cách suy nghĩ hay giải thích những

điều đã hoặc sẽ xảy ra. Thường đó là những suy nghĩ tiêu cực. Ví dụ: nếu

trượt đại học thì tương lai thật mù mịt; nếu không hoàn thành công việc thì

sẽ bị sa thải

Hoặc cũng có người nhìn nhận các yếu tố nguồn gốc của stress như sau:

- Stress liên quan tới yếu tố thời gian: Nó được xem như sự căng thẳng xuất phát từ

tình huống mâu thuẫn giữa thời gian quá ít, mà khối lượng công việc, con ngườiT

SDRC - CFSI

cần phải làm quá nhiều. Điều này, khiến cho họ trở nên cảm thấy rối bời và mệt

mỏi. Ví dụ : NVCTXH do tính chất công việc liên tục, phức tạp, có nhiều ca, mỗi

ca lại có rất nhiều công việc liên quan cần giải quyết, trong khi đó họ lại có thời

gian rất hạn chế. Nhiều khi NVCTXH phải làm quá thời gian theo quy định nhưng

công việc vẫn chưa giải quyết hết. Tình trạng này khiến cho NVCTXH trở nên mệt

mỏi kéo dài.

- Stress liên quan tới yếu tố tương quan: mâu thuẫn trong tương tác giữa các cá

nhân. Đây là loại stress tạo bởi từ những tương tác xã hội của con người. Ví dụ

như, những căng thẳng trong mâu thuẫn gia đình, vợ chồng, con cái, trong công sở

lãnh đạo với nhân viên, nhân viên với nhân viên. Trong quá trình làm việc mâu

thuẫn có thể phát sinh từ những giao tiếp giữa người thực thi nhiệm vụ với người

có nhu cầu trợ giúp. Ví dụ NVCTXH có thể gặp những khó khăn trong tương tác

làm việc với những thân chủ khó tính.

- Stress liên quan tới yếu tố tình huống: đây là loại stress tạo bởi những vấn đề nảy

sinh từ điều kiện làm việc, ví dụ như, văn phòng làm việc không có không gian và

vị trí địa lý không phù hợp làm ảnh hưởng tới quá trình làm việc, văn phòng tham

vấn lại quá chật chội không có không gian riêng để làm việc kín đáo với thân chủ

khiến cho những nguyên tắc nghề nghiệp bị vi phạm. Điều này tạo nên sự ức chế

về tâm lý và chức năng nghề nghiệp của NVCTXH. Sự thay đổi nhiều lần nơi làm

việc, phải di chuyển nhiều cũng là yếu tố tạo nên sự mệt mỏi căng thẳng với người

làm việc, nhất là với NVCTXH. Họ luôn phải đi lại như vãng gia, thăm và trao đổi

với các đối tác.

- Stress liên quan tới yếu tố suy diễn (anticipatory): Đây là một yếu tố mang tính

rất chủ quan, chính vì vậy có người dễ bị stress, có người khó bị stress trong cùng

một hoàn cảnh.

- Stress liên quan tới nghị lực cá nhân: Kinh nghiệm cá nhân và sự kiên định của

cá nhân cũng tác động rất lớn tới khả năng, mức độ bị stress của cá nhân. Yếu tố

này cũng mang tính chủ quan và giải thích tại sao sự khác biệt về khả năng ứng

phó với stress khác nhau ở những ng

pdf41 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 849 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Hỗ trợ nhân viên công tác xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng và là một nhu cầu không thể thiếu trong quan hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, và cá nhân với xã hội. Khi gặp stress, đặc biệt là stress gây tác động lớn đến thể chất và tinh thần thì con người không muốn giao tiếp với ai, thậm chí có trường hợp là chỉ muốn sống một mình, vì vậy lại làm cho họ trở nên stress trầm trọng hơn. c. Ảnh hưởng tới công việc, lao động học tập - Hạn chế tốc độ và chất lượng công việc: Những tác động tiêu cực về thể chất, tinh thần/cảm xúc của stress làm cho con người giảm sự năng động, sự tích cực trong công việc, thậm chí có trường hợp không còn ý chí để làm bất cứ những hoạt động, những công việc nào, ngay cả những hoạt động, công việc phục vụ cho chính bản thân họ. - Quan hệ công việc bị giảm chất lượng (quan hệ với đồng nghiệp và với khách hàng). Khi bị stress, do tác động về thể chất và tinh thần, người bị stress bị hạn chế nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong quan hệ với người thân, với bạn bè, với đồng nghiệp, với khách hàng. Những trường hợp nặng, người bị stress thậm chí tự thu mình sống một mình và không muốn quan hệ với bất cứ ai. - Khả năng ra quyết định hạn chế: Khả năng suy xét để đưa ra quyết định giải quyết các vấn đề bị suy giảm, thiếu chính xác và không nhanh chóng. Khi bị stress thì cá nhân có thể gặp khó khăn đưa ra một quyết định dù là đơn giản. T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 18 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI Bài 2: STRESS VÀ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI I. ĐẶC ĐIỂM NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI Nghề CTXH là một nghề mới ở nước ta, do đó chưa được xã hội biết đến nhiều. Tuy nhiên, nó có nền móng khoa học, có sứ mạng, quan điểm, giá trị, có nguyên tắc làm việc, phương pháp làm việc, tiến trình giải quyết vấn đề, và áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhóm đối tượng của nghề CTXH là khá đa dạng như những người dễ bị tổn thương, những người nghèo, những người đứng bên lề xã hội Người thực thi nghề CTXH phải tuân thủ Quy điều đạo đức nghề nghiệp và các nguyên tắc chuyên môn. NVCTXH là những người trong các nghề giúp đỡ. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của nghề CTXH. Do tính chất đặc điểm của nghề CTXH nên NVCTXH làm việc với nhiều thân chủ có rất nhiều vấn đề khác nhau. Quá trình tiếp cận làm việc với thân chủ khiến NVCTXH gặp phải những căng thẳng trong công việc, cộng thêm những yếu tố khác tác động nên NVCTXH dễ bị stress. Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu cụ thể nhưng nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra vấn đề này. II. STRESS CỦA NHÂN VIÊN CTXH TẠI MỘT SỐ NƯỚC 1. Hoa Kỳ Martin & Schinke (1989) đã khảo sát 200 nhân viên làm việc với gia đình và trẻ em và chuyên viên tâm lý lâm sàng của 7 trung tâm dịch vụ xã hội trong khu vực đô thị New York. Qua khảo sát thấy rằng, 57% nhóm chuyên viên tâm lý lâm sàng và 71% nhân viên làm việc với gia đình/ trẻ em xác định rằng, họ bị gần như kiệt sức hoặc là kiệt sức nghiêm trọng. Năm 2008, Hiệp hội NVCTXH Mỹ tiến hành nghiên cứu 3.653 hội viên về lĩnh vực hoạt động của họ có liên quan gì đến stress hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy, NVCTXH làm việc ở các lĩnh vực hoạt động như sức khỏe tâm thần, sức khỏe, an sinh nhi đồng gặp stress ở những mức độ khác nhau. (xem bảng sau)1 Lý do bị stress Lĩnh vực hoạt động Tỷ lệ bị stress (%) Thiếu thời gian Sức khỏe tâm thần 35 Sức khỏe 15 An sinh trẻ em và Gia đình 12 Công việc nặng nhọc Sức khỏe tâm thần 30 Sức khỏe 15 An sinh trẻ em và Gia đình 14 1 Trích dẫn từ bài giảng của Michael Ong tại hội thảo Quản lý stress, ULSA 2, 17-19/5/2011 T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 19 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI Lý do bị stress Lĩnh vực hoạt động Tỷ lệ bị stress (%) Lương bổng không cân xứng Sức khỏe tâm thần 37 Sức khỏe 16 An sinh trẻ em và Gia đình 9 Đền bù không thỏa đáng Sức khỏe tâm thần 44 Sức khỏe 11 An sinh trẻ em và Gia đình 10 Thân chủ khó khăn/thách thức Sức khỏe tâm thần 40 Sức khỏe 13 An sinh trẻ em và Gia đình 11 2. Việt Nam Chưa có cuộc khảo sát chính thức về stress trong giới NVCTXH, tuy nhiên, khi gặp gỡ ở các buổi họp mặt hay hội thảo mọi người đều cho rằng áp lực công việc quá lớn. Trong một cuộc phỏng vấn nhanh nhóm NVCTXH (12 người)2 thuộc Câu lạc bộ CTXH chuyên nghiệp TP. Hồ Chí Minh gần đây (10/6/2011) thì cả 12 người đều cho rằng mình bị stress (ở các cấp độ khác nhau). a. Nội dung tính chất công việc rất khó khăn và phức tạp - Bị áp lực công việc: Công việc của NVCTXH chủ yếu là giải quyết vấn đề cho thân chủ, như đã đề cập ở trên nghề CTXH là nghề giúp đỡ (helping profession). Lý tưởng, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp giúp NVCTXH thực hiện chu toàn công việc của mình nhưng cũng tạo áp lực lên họ khá lớn. - Công việc quá tải: NVCTXH thường triển khai công việc chuyên môn theo các phương pháp và tiến trình quy định của nghề. Mỗi thân chủ có vấn đề và hoàn cảnh khác nhau cho nên NVCTXH phải áp dụng các nguyên tắc, kỹ năng phù hợp. Số lượng thân chủ mà NVCTXH được phân công có khi vượt khả năng theo dõi giúp đỡ của họ khiến họ lâm vào tình trạng quá tải. - Không đủ thời gian: NVCTXH, nhất là nhân viên quản lý ca (case managers) có khi được phân công quản lý nhiều thân chủ cùng một thời điểm nên bị áp lực về mặt thời gian. Họ không đủ thời gian để giải quyết hết mọi việc cho thân chủ nên lo lắng cao độ (bị thân chủ kêu ca phàn nàn, bị cấp trên khiển trách) trong khi họ còn nhiệm vụ với gia đình con cái. - Đối tượng (thân chủ) thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: NVCTXH làm việc trong hệ thống an sinh xã hội (bao gồm lĩnh vực công và tư); diện tiếp xúc rộng bao gồm trường học, bệnh viện, tòa án, gia đình và trẻ em, nghiện ngập, tội phạm, mại dâm, sức khỏe tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS, 2 Nhóm này gồm các anh chị nòng cốt của CLB trong hội thảo 10/6/2011ở ĐH Mở TPHCM như : Nguyễn Thị Hải, Trần Thị Nên, Trần Thị Nhiễu, Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Trần Thị Ái Mỹ, Trương Thị Dừa, Lê Thị Mỹ Hiền, Trần Công Bình, Lê Chí An ... T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 20 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI người cao tuổi, người khuyết tật Do đó, có trường hợp NVCTXH gặp rủi ro nghề nghiệp, thí dụ bệnh nhân tâm thần tấn công, người có H đe dọa - Kỳ vọng về sự thay đổi nơi thân chủ: Một trong những áp lực đối với NVCTXH là khi giúp đỡ thân chủ là sự mong mỏi thân chủ của mình mau thay đổi. Do kỳ vọng đặt vào thân chủ lớn lao như vậy nên khi thấy thân chủ chậm thay đổi, hoặc không thay đổi, tất yếu NVCTXH bắt đầu thất vọng về thân chủ, về bản thân mình, từ từ dẫn đến bị áp lực. - Áp lực tìm một giải pháp để giải quyết vấn đề của thân chủ: Thông thường NVCTXH có khả năng tìm ra giải pháp cho vấn đề của thân chủ trên cơ sở nhận diện vấn đề, phân tích đánh giá chẩn đoán vấn đề, từ đó cùng thân chủ đưa ra giải pháp. Nhưng cũng có trường hợp thân chủ thiếu sự hợp tác, tham gia, nên áp lực tìm ra giải pháp giúp thân chủ giải quyết vấn đề tăng sức ép lên NVCTXH. Họ lo lắng, băn khoăn nên dễ nóng nảy với người xung quanh kể cả thân chủ. - Vấn đề của thân chủ quá khó, vượt quá khả năng của NVCTXH: không ít trường hợp mà NVCTXH gặp phải là vấn đề của thân chủ phức tạp, nan giải, vượt khỏi tầm giải quyết của mình. Điều đó, cũng nên được nhìn nhận là bình thường, vì NVCTXH cũng là con người có những hạn chế, không thể giải quyết hết mọi vấn đề của xã hội. Nhưng NVCTXH có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp cao, có sự thôi thúc của đạo đức nghề nghiệp thì họ lại bị áp lực, bị stress. Họ cảm thấy bị tự ái nghề nghiệp nên dẫn đến những suy nghĩ, dằn vặt thậm chí coi đó là thất bại trong nghề nghiệp của mình. - Thiếu sự thông cảm chia sẻ của bạn bè, gia đình: Trong khi công việc chuyên môn đòi hỏi nhiều phấn đấu của bản thân thì phía gia đình, bạn bè và xã hội lại tạo áp lực khác lên NVCTXH. Bạn bè cho rằng NVCTXH làm không tiếng tăm, thu nhập thấp, lại vất vả. Gia đình và người thân của NVCTXH trực tiếp hoặc gián tiếp chê bai/phê phán việc làm của NVCTXH là làm việc bao đồng, ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Làm việc tắt mặt tối mũi mà đồng lương quá thấp, thời gian đầu tư vào công việc nhiều nên không còn để lo cho gia đình, do đó NVCTXH bị nghe nhiều điều tiếng. Chính sự thiếu cảm thông chia sẻ của những người thân và bạn bè khiến NVCTXH càng lâm vào cảnh đơn côi trong gia đình mình, trong xã hội mình. b. Môi trường tác nghiệp Môi trường tác nghiệp nhấn mạnh tới bối cảnh chung của xã hội và bối cảnh cơ sở xã hội nơi NVCTXH làm việc, những nơi này có thể có những tác động gây ra stress cho NVCTXH bởi các yếu tố nguyên nhân sau: - Vị trí vai trò, trách nhiệm, quyền hạn chưa rõ ràng: Vị trí của NVCTXH ở nước ta chưa có, dù mới đây nhà nước có ban hành thông tư quy định chức danh, nhưng trong bộ máy tổ chức của các cơ sở xã hội thì vị trí vai trò của họ chưa có hoặc chưa rõ ràng. Từ đó trách nhiệm, quyền hạn cũng không được xác định mà chỉ được giao công việc chung chung, không quyền hạn, không trách nhiệm vì không có bảng mô tả công việc (job description). - Thiếu kinh nghiệm, kỹ năng làm việc: Điều này xảy ra khi NVCTXH được giao trách nhiệm chuyên môn thì giải quyết công việc chưa tốt. Một phần do họ thiếu kinh nghiệm và kỹ năng chuyên nghiệp, một phần do môi trường làm việc thiếu tính chuyên nghiệp, không thực hành nghề nghiệp chuyên môn công CTXH nên khó phát triển tay nghề. - Thiếu hệ thống giám sát, hệ thống an sinh xã hội chưa đồng bộ: Một môi trường tác nghiệp lý tưởng trong nghề CTXH là phải có đội ngũ NVCTXH T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 21 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI hội đồng bộ, có hệ thống kiểm huấn/giám sát đầy đủ, giúp nhân viên các cấp hoàn thành công việc và tăng năng lực. Môi trường làm việc của NVCTXH hiện nay ở nước ta cần cải thiện và tăng cường tính chuyên nghiệp khiến NVCTXH cảm thấy kiến thức chuyên môn đã học không hữu ích vì không áp dụng. Họ rơi vào tình trạng hoang mang, không còn tin vào năng lực của mình nữa và ngày càng thui chột kỹ năng, cảm thấy mình vô dụng. Trong khi đó hệ thống an sinh xã hội chưa đồng bộ, thiếu thốn, tính đáp ứng của hệ thống chưa cao, chưa lấy con người làm trọng tâm của sự giúp đỡ nên ảnh hưởng đến thành quả giải quyết vấn đề xã hội của thân chủ, làm NVCTXH cảm thấy mình lạc lõng thiếu sự hỗ trợ và hợp tác. - Thiếu sự hỗ trợ liên ngành và bộ máy thực thi chính sách: Tính chất công việc của NVCTXH phần lớn tập trung vận động nguồn lực cộng đồng hỗ trợ thân chủ giải quyết vấn đề theo nguyên tắc “tự giúp” (self-help). Do đó, việc chuyển tuyến/chuyển gởi là việc làm thường xuyên, nhưng để làm được việc này đòi hỏi cần có sự hợp tác và phối hợp từ các ngành liên quan và các đơn vị trong bộ máy thực thi chính sách xã hội. Sự hợp tác liên ngành giữa CTXH và các ngành cần được đặt ra từ lâu, như tâm lý học, tham vấn, xã hội học, tâm thần học Tuy nhiên, trong thực tế việc hợp tác liên ngành này gặp nhiều hạn chế, khiến NVCTXH thiếu nguồn lực hỗ trợ cho công việc của mình. Đó là chưa kể NVCTXH gặp phải hệ thống hành chánh quan liêu, gây ách tắc trong tiến trình giải quyết vấn đề cho thân chủ. - Thiếu tài nguyên, khi có tài nguyên thì có thể bị chi phối bởi nhà tài trợ: Tài nguyên trong xã hội ngày càng khan hiếm nên trong ngành CTXH cũng chịu đựng sự hạn chế này. Việc thiếu tài nguyên là chuyện cần nhận thức nhưng khi có tài nguyên thì có nơi lãng phí hoặc sử dụng không đúng mục đích. Đặc biệt, trong tình hình cần sự tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước thì chúng ta gặp tình trạng phải tuân thủ sự chi phối của họ. Điều này khiến cơ sở xã hội và NVCTXH không thể độc lập trong hoạch định chính sách, thủ tục, phương pháp hoạt động của cơ sở mình. - Có nhiều nguy hiểm (tai nạn nghề nghiệp): Nghề CTXH thường ẩn chứa nhiều rủi ro, bất trắc và nguy hiểm. NVCTXH tuy thực thi nghề nghiệp theo quy điều đạo đức nhưng trong họ vẫn băn khoăn về những nguy cơ tai nạn nghề nghiệp. Tuy có chính sách, chế độ cho những người chăm sóc những đối tượng đặc biệt nhưng sự an toàn bản thân vẫn phải đặt hàng đầu. - Gặp khó khăn trong giải quyết các thủ tục hành chính: Như trên đã đề cập, thủ tục hành chánh của bộ máy hành chánh tạo ra những rào cản khiến NVCTXH gặp khó khăn trong khi giải quyết vấn đề cho thân chủ. Còn thân chủ nếu gặp tình trạng hành chánh giấy tờ thì họ không thể và không muốn tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội. Từ các rào cản này khiến NVCTXH phải mất thời gian, công sức để tác động, biện hộ với các nhân viên hệ thống hành chánh nên dễ bị stress. - Nơi làm việc và điều kiện làm việc khó khăn: NVCTXH làm việc ở nhiều môi trường khác nhau từ thành thị cho đến nông thôn, vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi cho nên gặp nhiều khó khăn trong khi triển khai công việc. Tuy rằng khi vào nghề ai cũng biết và chấp nhận sự gian khổ này nhưng thực tế không ít người than thở và lo âu. Có người làm ở các cơ sở giáo dục dạy nghề cho thanh niên nghiện ma túy đóng ở địa bàn miền núi, xa cách khu dân cư, thiếu thốn đủ bề. Họ cố gắng hòa nhập nhưng vẫn có người bị stress phải bỏ việc hoặc xin chuyển qua phần việc khác. NVCTXH làm việc với người có H giai đoạn cuối, hay người có vấn đề sức khỏe tâm thần gặp phải áp lực từ tâm lý lo âu, sợ hãi. T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 22 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI - Bị lây lan stress từ thân chủ: NVCTXH không xử lý tốt cảm xúc của mình dễ bị lây lan stress từ thân chủ. Từ việc gắn bó với thân chủ trong tiến trình giải quyết vấn đề, trong đó NVCTXH thấu cảm với cảnh ngộ thân chủ nên hóa thân mình vào thân chủ lúc nào không hay. Điều này tốt cho việc vun đắp mối quan hệ, nhưng nếu không phân biệt ranh giới giữa công việc cần làm và cảm xúc bản thân, thì NVCTXH dễ bị vấn đề của thân chủ và bản thân thân chủ lây lan stress cho mình. - Ngược lại có khi NVCTXH bị stress lại làm lây lan stress cho thân chủ của mình: NVCTXH cần được cảnh báo là stress của mình sẽ tác động lên thân chủ. Do đó, khi gặp stress và chịu đựng stress trong lúc làm việc với thân chủ nếu NVCTXH không ý thức bản thân mình sẽ làm lây lan stress cho thân chủ mình. Ví dụ: NVCTXH đang bực bội mà phải tiếp thân chủ thì có thể trút giận lên thân chủ, hoặc quá trình làm việc sẽ chuyển sự bực bội ấy qua thân chủ khiến thân chủ bị stress. Với đặc điểm ngành nghề như trên NVCTXH rất dễ rơi vào stress và nếu không biết xử lý và kiểm soát thì NVCTXH dễ trở nên bị kiệt sức. T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 23 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI Bài 3: CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ VỚI STRESS I. KHÁI NIỆM CHUNG: 1. Khái niệm ứng phó Trong tiếng Anh, “cope” - ứng phó - có nghĩa là bình tĩnh đương đầu, đối mặt với những vấn đề, những khó khăn3.Theo nghĩa rộng, ứng phó là khả năng nắm bắt, làm chủ hay thích ứng nhanh chóng với hoàn cảnh. Khả năng này cho phép con người thoát khỏi, hoặc làm quen với hoàn cảnh và bằng cách đó cải hoá được những tác động gây stress của hoàn cảnh. Như vậy, nhiệm vụ chính yếu của “ứng phó” là cung cấp và làm gia tăng độ bền bỉ về sức khỏe thể chất, tinh thần và về các quan hệ xã hội của cá nhân để họ có thể đối mặt với những vấn đề trong cuộc sống. 2. Khái niệm chiến lược Chiến lược là một từ có nguồn gốc quân sự, đề cập đến một kế hoạch hành động được thiết kế nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể4. Khi nói đến chiến lược là nói đến sự chủ động, có dự tính, sắp xếp, tính toán và đoán trước diễn biến cũng như kết quả sẽ đạt được. Như vậy, chiến lược ứng phó với stress là một kế họach hành động của cá nhân nhằm chủ động chế ngự, đương đầu với những vấn đề, những hoàn cảnh gây stress. 3. Ích lợi của việc ứng phó với stress Việc ứng phó với stress mang lại rất nhiều ích lợi cho NVCTXH như: làm giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực, có hại của stress đến cuộc sống và công việc của NVCTXH; giúp cá nhân làm chủ và điều khiển những phản ứng của bản thân theo hướng thích nghi; tạo nên cuộc sống quân bình thể chất, tâm lý, xã hội; đem lại hiệu quả cho công việc, niềm vui cho cuộc sống. II. TỰ NHẬN THỨC CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI Tự nhận thức là một trong những thuộc tính của trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence). Nó là cách thức chúng ta khám phá tính cách cá nhân, hệ thống giá trị, niềm tin, khuynh hướng tự nhiên của mình5. Thông thường, tự nhận thức là khởi điểm cho việc làm chủ bản thân và tạo ra những gì ta muốn. Vì không ai giống ai trong cách tìm hiểu, và tổng hợp thông tin, phản ứng và tương tác với sự vật, sự việc nên mọi người thỉnh thoảng cần dành thời gian nhìn lại để có được một cái nhìn sâu sắc hơn về bản thân. Khi hiểu biết tốt hơn về bản thân mình, chúng ta mới có thể làm chủ cảm xúc, hành vi, tích cách của mình mà ứng xử, hành động phù hợp với hoàn cảnh, tạo nên những thay đổi tích cực cho chính bản thân. Đồng thời, tự nhận thức cho phép ta hiểu rõ người khác, cách thức họ cảm nhận về bản thân ta, từ đó giúp ta nâng cao kỹ năng hợp tác và làm việc nhóm. 3 4 5 T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 24 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI Theo Shebib Bob (2003), NVCTXH cần có năng lực tự nhận thức ở mức độ cao. Nếu không có khả năng này, NVCTXH sẽ không thể khách quan đủ khi làm việc với thân chủ và sẽ áp đặt những ý muốn của mình lên thân chủ6. Một cách cụ thể, tự nhận thức là: - Hiểu biết bản thân: Biết rõ thể lý, cảm xúc, tình cảm, năng lực (kiến thức, kỹ năng) thái độ, hành vi, kể cả những mặt mạnh lẫn hạn chế. - Chấp nhận bản thân với những đặc điểm nêu trên. - Nhận biết những tổn thương đặc biệt của bản thân và tìm cách ứng phó với chúng. Thí dụ: Thể lý yếu ớt, ứng phó bằng cách tập thể dục thể thao, quan tâm chế độ dinh dưỡng. Dễ xúc động ứng phó bằng cách đối diện với nhiều tình huống gây xúc động để rèn luyện cơ chế kềm chế xúc động. - Biết được khi nào tôi đang đồng hoá/ quá thấu cảm với thân chủ. Thí dụ: Luôn kiểm soát lời nói, cử chỉ hành vi thể hiện với thân chủ, để biết được những biểu hiện quá mức thân thiện hoặc luôn nhắc nhớ lại những quy định của nghề. - Biết những gì tôi có thể làm và chấp nhận những gì tôi không thể làm. Một số cách nhận diện và rèn luyện khả năng tự nhận thức: - Nhận diện và gọi tên những cảm xúc và hành vi mà bản thân NVCTXH có. Ví dụ: NVCTXH biết là mình đang nóng giận, không công bằng với thân chủ thông qua những suy nghĩ, những phản ứng bằng lời hoặc không lời của bản thân mình hay của thân chủ, từ đó NVCTXH kịp thời điều chỉnh hành vi của mình. - Nhận biết và chấp nhận những lĩnh vực dễ bị tổn thương và những vấn đề mà NVCTXH không giải quyết được. Thí dụ: Nếu bản thân đã có kinh nghiệm chưa nguôi về một người thân đam mê cờ bạc thì không nên nhận những thân chủ có vấn đề này. - Hiểu biết những giá trị của bản thân và ảnh hưởng của những giá trị đó trong mối quan hệ tham vấn. Thí dụ: Nếu NVCTXH đánh giá thấp và gay gắt hành vi bạo hành phụ nữ thì khi tham vấn thân chủ là nam giới bạo hành cần ý thức, không để những giá trị này ảnh hưởng đến khả năng lắng nghe, và cách ứng xử của mình đối với thân chủ. - Nhận biết và quản lý cuộc đối thoại bên trong bản thân NVCTXH. Thí dụ: Khi nghe thân chủ nam giới bạo hành phụ nữ bày tỏ lý do hành vi của mình, có thể bên trong NVCTXH xảy ra một cuộc đối thoại: “Phải chăng gã này đang ngụy biện hay nói dối !!!”. NVCTXH cần cắt ngay suy nghĩ này, tập trung lắng nghe và ứng xử cách khách quan mà không vội xét đoán. - Hiểu biết và kiểm soát được cơ chế tự vệ của bản thân. Thí dụ: Thân chủ nổi nóng và NVCTXH ý thức được rằng, mình cũng đang có ý định nổi nóng lại hoặc giận dỗi, thì ngừng ngay cuộc tiếp xúc. Hiểu được như vậy, NVCTXH sẽ giữ được bình tĩnh và có thái độ phù hợp hơn khi tiếp tục làm việc với thân chủ. - Biết khi nào và bằng cách nào thân chủ đã phản ứng lại với phong cách của NVCTXH. Thí dụ: Thân chủ đang tích cực bộc lộ với NVCTXH nhưng NVCTXH mải lo suy nghĩ việc khác mà không thể hiện sự tập trung lắng nghe 6 Shebib Bob (2003), Choices,p.54, Allyn & Bacon: N.Y T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 25 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI Thân chủ, vì thế ngừng bộc lộ hoặc thay đổi cách bộc lộ từ tích cực sang cách nói ngập ngừng không liền mạch. NVCTXH cần nhận ra được những phản ứng của thân chủ, đồng thời ý thức hành vi, cử chỉ thể hiện sự quan tâm của mình và điều chỉnh kịp thời. - Thiết lập mục tiêu chuyên nghiệp dựa trên sự nhận thức đúng đắn về kiến thức, kỹ năng, ưu điểm và giới hạn của bản thân. NVCTXH thiếu khả năng tự nhận thức chính xác về mình sẽ dễ rơi vào tự phụ, kiêu căng, dễ dãi với bản thân, không quan tâm đến việc tự học, tự bồi dưỡng hoặc có thể lập ra những mục tiêu bất khả thi. III. MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ NVCTXH thường ứng phó với stress như thế nào? Một cuộc khảo sát do NASW thực hiện năm 2008 trên 3.653 NVCTXH cho thấy, NVCTXH Hoa kỳ sử dụng các chiến lược giảm stress như tập thể dục, thiền, đi trị liệu, uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ, tập yoga, uống rượu và nghỉ việc không lý do7. Sau đây là một số chiến lược đơn giản và hữu hiệu NVCTXH có thể áp dụng. Các chiến lược này không tách rời nhau nhưng ngược lại lồng ghép và bổ sung cho nhau. Việc cùng lúc áp dụng những chiến lược khác nhau này sẽ đem lại hiệu quả cao cho việc loại bỏ tác nhân hoặc giảm thiểu những tác hại của stress. 1. Chiến lược đối với yếu tố thời gian - Áp lực công việc và thời gian là một trong nhiều nguyên nhân của Stress. Do đó, học cách quản lý tốt thời gian và sắp xếp công việc là một trong những cách phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của stress. - Sắp xếp công việc và quản lý thời gian tốt là sử dụng thời gian sẵn có một cách tối ưu để hoàn tất công việc. Hai nguyên tắc quan trọng của chiến lược này là: 1) xếp thứ tự ưu tiên công việc, và 2) thực hiện trước những việc quan trọng nhất chứ không phải làm trước những công việc mất ít thời gian. - Căn cứ vào mức độ quan trọng và khẩn cấp của công việc, Stephen R.Covey (1989)8 gợi ý một ma trận quản lý thời gian như sau: I Làm ngay II Làm sau, nhưng kiên quyết III Làm nhưng không để kéo dài tgian Giao/nhờ /cho người khác IV Chỉ làm nếu có thời gian Quan Trọng Không quan trọng Khẩn cấp Không khẩn cấp  Nhóm I: là những công việc vừa khẩn cấp vừa quan trọng, phải được thực hiện và mau chóng thực hiện. Khi biết hoàn thành những công việc nhóm I trước khi chúng trở nên gấp rút, ta sẽ gặt hái được những kết quả phi thường. Ngược lại, nếu không làm, chúng có thể tạo ra những hậu quả nghiêm trọng hay thảm họa. 7 NASW (2008), Stress at Work: How Do Social Workers cope? 8 Stephen Covey (1989), The Seven Habits of Highly Effective People T[Type text] Dự án “Nâng cao năng lực cho NVXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 26 Tài liệu phát - Hỗ Trợ Nhân viên CTXH (Quản lý sự căng thẳng) SDRC - CFSI => Ưu tiên hàng đầu, làm ngay.  Nhóm II: là những công việc quan trọng nhưng không khẩn cấp, cần lên kế hoạch, sắp xếp thời gian để thực hiện sớm. Chúng có thể được hoãn lại, nhưng không để quá lâu, nếu không, trong một thời gian ngắn, chúng có thể dễ dàng chuyển sang trạng thái I. => Làm sau nhưng kiên quyết làm.  Nhóm III: là những việc khẩn cấp đột xuất nhưng không thật quan trọng như loại I. Trong một số trường hợp, việc trì hoãn hoặc không làm không gây ra hậu quả nguy hại lắm. => Có thể nhờ người khác nếu được.  Nhóm IV: là những công việc không khẩn cấp và cũng không quan trọng và chúng thường không có thời hạn hoàn thành. Những công việc này không nhất thiết phải làm, làm cũng được, mà không làm thì cũng không gây ra hậu quả gì. => Chỉ làm khi thực sự có thời gian rảnh. 2. Chiến lược đối với yếu tố mối tương quan Nghề CTXH là một nghề tiếp xúc với con người. Trong rất nhiều trường hợp, tương quan căng thẳng với người khác tạo nên stress. Một NVCTXH, khi gặp stress, nếu không có được một mạng lưới hỗ trợ xã hội tích cực, sẽ rất dễ rơi vào chán nản, buông xuôi. Vì vậy, đối với NVCTXH, việc bản thân tạo ra và duy trì mạng lưới hỗ trợ xã hội được xem như là một chiến lược khôn ngoan giúp đối phó với stress. Dành thời gian xây dựng mạng lưới hỗ trợ xã hội là đầu tư kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_ho_tro_nhan_vien_cong_tac_xa_hoi.pdf
Tài liệu liên quan