Chương 1: Tổng Quan Ô Tô
1. Lịch Sử Ô Tô
2. Định Nghĩa – Phân Loại Ô Tô
3. Bố Trí Chung Ô Tô
4. Những Tiêu Chuẩn Về Ô Tô
5. Cấu Tạo Tổng Quát Ô Tô
Chương 2:Ly Hợp
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2. Sơ Đồ Cấu Tạo Và Nguyên Lý Làm Việc Của Ly Hợp
3. Dẫn Động Ly Hợp
Chương 3: Hộp Số
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2.Cấu Tạo Chung Của Hộp Số
3. Cơ Cấu Điều Khiển Hộp Số
Chương 4: Hộp Số Tự Động
1. Khái Quát Về Hộp Số Tự Động
2. Các Loại Hộp Số Tự Động
3. Các Bộ Phận Chính Của Hộp Số Tự Động
Chương 5: Hộp Phân Phối
1. Khái Quát Về Hộp Phân Phối
2. Phân Loại Hộp Phân Phối
3. Cấu Tạo Của Một Số Hộp Phân Phối Dùng Trên Ô Tô Du Lịch
Chương 6: Các Đăng
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2. Các Đăng Khác Tốc
3. Các Đăng Đồng Tốc
4. Khớp Nối Đàn Hồi
Chương 7: Cầu Chủ Động
1. Truyền Lực Chính
2. Vi Sai
3. Cấu Tạo Của Một Số Bộ Vi Sai Cùng Truyền Lực Chính
Chương 8: Hệ Thống Phanh
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2. Cấu Tạo Chung Của Hệ Thống Phanh
3. Cơ Cấu Phanh
4. Phanh Dừng
5. Dẫn Động Phanh Chính Bằng Thuỷ Lực
6. Dẫn Động Thuỷ Lực Hai Dòng Có Cường Hoá Chân Không
7. Dẫn Động Khí Nén
8. Dẫn Động Thuỷ Khí Kết Hợp
9. Dẫn Động Thuỷ Lực Có Điều Hoà Lực Phanh
10. Hệ Thống Phanh Có Bộ Chống Hãm Cứng Bánh Xe (ABS)
CHƯƠNG 9: HỆ THỐNG TREO
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2. Cấu Tạo Chung
3. Khái Quát Chung Về Dao Động Và Tính Êm Dịu Chuyển Động
4. Bộ Phận Đàn Hồi
5. Bộ Phận Dẫn Hướng
6. Bộ Phận Giảm Chấn
Chương 10: Hệ Thống Lái
1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
2. Cấu Tạo Chung Của Hệ Thống Lái
3. Cấu Tạo Của Các Bộ Phận Trong Hệ Thống Lái
4. Góc Đặt Bánh Xe
5. Hệ Thống Lái Có Cường Hoá
295 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kết cấu ô tô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để tăng mômen cho cầu chủ động khi một bánh xe bị rơi vào vùng hệ số bám
thấp thì người ta đã sử dụng loại vi sai tăng ma sát. Tuy nhiên giá trị mômen ma sát
này có giới hạn, phụ thuộc vào lực ép là lò xo. Mômen ma sát lớn nhất đạt được khi
bán trục và vỏ vi sai được hãm cứng. Điều này được thực hiện ở những vi sai có cơ
cấu khoá cứng vi sai như chỉ ra trên hình 6.91.
Để khoá cứng vi sai cần phải khoá cứng bán trục với vỏ vi sai. Vì vậy trên
moayơ của vỏ vi sai người ta làm then ngoài trên đó lắp khớp gài vi sai có then trong.
Khớp gài có thể di trượt dọc theo các rãnh then. Trên bán trục cũng được chế tạo một
phần có then ngoài có các kích thước và thông số như then ngoài trên moayơ của vỏ
vi sai, vì vậy khớp gài vi sai có thể ăn khớp cả với moayơ vỏ vi sai và bán trục.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
93
Hình 6.91 - Cấu tạo truyền lực chính một cấp - vi sai thường có bộ khoá vi sai
Khi ôtô hoạt động trên đường tốt bình thường thì khớp gài vi sai được gặt sang
phía bên phải, bán trục và vỏ vi sai quay tự do với nhau, bộ vi sai hoạt động bình
thường.
Khi một bánh xe của cầu chủ động rơi vào vùng hệ số bám thấp, ôtô không có
khả năng vượt ra được thì lúc này cần phải khoá vi sai. Khớp vi sai được gạt sang trái
để cùng ăn khớp với then trên bán trục. Lúc này bán trục và vỏ vi sai bị khoá cứng
bởi khớp gài vi sai nên bộ vi sai mất tác dụng, mômen từ vỏ vi sai sẽ truyền tới bánh
xe còn bám trên đường tốt để xe có khả năng vượt lên được.
Để điều khiển khớp gài vi sai có thể thực hiện bằng tay, bằng điện, bằng khí
nén hoặc tự động và bán tự động.
Trong các trường hợp điều khiển bằng tay, bằng điện, bằng khí nén thì chỉ gài
khoá vi sai khi một bánh xe của cầu chủ động rơi vào đường trơn lầy. Còn khi ôtô
vượt khỏi vùng trơn lầy hoặc đi trên đường bình thường thì nhất thiết phải mở khoá vi
sai.
6.6.3.5. Truyền lực chính hai cấp - vi sai thường dùng trên xe tải
Ởû một số ôtô tải cần có tỉ số truyền của truyền lực chính lớn, người ta sử dụng
truyền lực chính loại hai cấp.
Cấu tạo của truyền lực chính loại này được mô tả trên hình 7.6.
Cấp thứ nhất bao gồm cặp bánh răng côn có cấu tạo như trong các truyền lực
chính một cấp bánh răng côn đã trình bày. Trong kết cấu này bánh răng côn bị động
không lắp lên vỏ vi sai mà được chế tạo liền với một bánh răng trụ nhỏ. Trục mang
bánh răng côn bị động và bánh răng trụ nhỏ được gối trên vỏ cầu băng hai ổ bi.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
94
Hình 6.92: Cấu tạo truyền lực chính hai cấp - vi sai thường dùng trên xe tải
Cấp thứ hai bao gồm một cặp bánh răng trụ: bánh răng trụ nhỏ được chế tạo
liền trục với trục bánh răng côn bị động; bánh răng trụ lớn được lắp với vỏ vi sai bằng
các bulông.
Bộ vi sai trong kết cấu này cũng có cấu tạo và nguyên lý làm việc tương tự
như các bộ vi sai thường đã trình bày ở các mục trên.
3.6. Truyền lực chính hai cấp phân chia - vi sai thường dùng trên xe tải
Khi cần tỉ số truyền của truyền lực chính lớn người ta có thể dùng truyền lực
chính hai cấp (tập trung) như đã trình bày trong mục 3.5 hoặc sử dụng truyền lực chính
hai cấp phân chia như trên hình 6.93. Thực chất của truyền lực chính hai cấp phân
chia bao gồm hai bộ truyền: bộ truyền thứ nhất hoàn toàn giống như truyền lực chính
một cấp bánh răng côn - vi sai thường; bộ truyền thứ hai là một cắp bánh răng trụ
được bố trí cạnh bánh xe chủ động (nên còn gọi là truyền lực cạnh). Bộ truyền thứ hai
(truyền lực cạnh) có thể là bộ truyền bánh răng trụ thông thường hoặc có thể là bộ
truyền bánh răng trụ dạng hành tinh.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
95
Hình 6.93: Truyền lực chính hai cấp phân chia - vi sai thường dùng trên xe tải
6.8.3.7. Khoá đầu trục bánh xe
Trên ôtô du lịch hai cầu chủ động thì từ các trục ra của hộp phân phối được
dẫn động đến các bánh xe chủ động bằng trục các đăng, truyền lực chính, bộ vi sai,
bán trục. Phần lớn thời gian ôtô chỉ sử dụng một cầu chủ động (thường là phía sau),
chỉ trường hợp đi trên đường xấu cần tăng lực bám thì mới gài cầu còn lại (thường là
cầu trước) bằng cơ cấu gài trong hộp phân phối. Khi không gài cầu trước nhưng do các
cơ cấu dẫn động: trục các đăng, truyền lực chính, vi sai, bán trục vẫn nhận được
chuyển động từ các bánh xe trước truyền trở lại nên chúng quay không tải. Để giảm
hao mòn, giảm tổn thất công suất cho các chi tiết quay không nói trên người ta sử
dụng cơ cấu khoá đầu trục bánh xe để có thể ngắt hoặc gài dòng truyền lực khi cần
thiết. Như vậy nếu khi không gài cầu trước và ngắt khoá đầu trục bánh xe thì toàn bộ
các chi tiết dẫn động tự hộp phân phối đến bánh xe chủ động phía trước sẽ đứng yên
không quay.
Cấu tạo và nguyên lý làm việc của một loại khớp nối đầu trục bánh xe được
mô tả trên hình 6.94.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
96
Hình 6.94: Cấu tạo của cơ cấu khoá đầu trục bánh xe
Cơ cấu này gồm các chi tiết chính sau:
- Ống răng cố định có then trong để ăn khớp với then của bán trục và có then
ngoài để ăn khớp với ống gài.
- Moayơ bánh xe có then trong để ăn khớp với then ngoài của ống gài.
- ống gài có then trong để ăn khớp với ống răng cố định và then ngoài để ăn
khớp với then trong của moayơ bánh xe.
- Bộ phận điều khiển bao gồm vành cam với ba rãnh cam; nắp điều khiển trên
đó có ba chốt cam và ba chốt khoá.
Nguyên lý làm việc của cơ cấu như sau:
- Khi gài khoá phải dừng xe, tháo ba chốt khoá và quay nắp điều khiển theo
chiều ngược chiều kim đồng hồ (mũi tên kèm chữ ENGAGE trên hình vẽ).
Lúc này các chốt cam sẽ trượt trên vành cam để đưa nắp điều khiển đi ra
mang theo ống gài đi ra gài ống răng cố định với moayơ bánh xe, cơ cấu
được gài.
- Khi mở khóa thì cũng phải dừng xe và làm các thao tác như trên chỉ khác là
nắp điều khiển được xoay theo chiều kim đồng hồ (mũi tên kèm theo
DISENGAGE).
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
1
Chương 7: HỆ THỐNG DI CHUYỂN
7.1. HỆ THỐNG PHANH
7.1.1. Công Dụng, Phân Loại, Yêu Cầu
7.1.1.1. Công dụng
- Hệ thống phanh dùng để giảm tốc độ của ôtô đến một giá trị cần thiết nào đấy hoặc
dừng hẳn ôtô;
- Giữ ôtô dừng hoặc đỗ trên các đường dốc.
7.1.1.2. Phân loại
1. Theo công dụng
Theo công dụng hệ thống phanh được chia thành các loại sau:
- Hệ thống phanh chính (phanh chân);
- Hệ thống phanh dừng (phanh tay);
2. Theo kết cấu của cơ cấu phanh
Theo kết cấu của cơ cấu phanh, hệ thống phanh được chia thành ba loại sau:
- Hệ thống phanh với cơ cấu phanh guốc;
- Hệ thống phanh với cơ cấu phanh đĩa.
- Hệ thống phanh với cơ cấu phanh dải.
3. Theo dẫn động phanh
Theo dẫn động phanh hệ thống phanh được chia ra:
- Hệ thống phanh dẫn động cơ khí;
- Hệ thống phanh dẫn động thuỷ lực;
- Hệ thống phanh dẫn động khí nén;
- Hệ thống phanh dẫn động kết hợp khí nén - thuỷ lực;
- Hệ thống phanh dẫn động có cường hoá.
4. Theo khả năng điều chỉnh mômen phanh ở cơ cấu phanh
Theo khả năng điều chỉnh mômen phanh ở cơ cấu phanh, chúng ta có hệ thống phanh
với bộ điều hoà lực phanh
5. Theo khả năng chống bó cứng bánh xe khi phanh
Theo khả năng chống bó cứng bánh xe khi phanh, chúng ta có hệ thống phanh với bộ
chống hãm cứng bánh xe (hệ thống phanh ABS).
7.1.1.3. Yêu cầu
Hệ thống phanh trên ôtô cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Có hiệu quả phanh cao nhất ở tất cả các bánh xe nghĩa là đảm bảo quãng đường
phanh ngắn nhất khi phanh đột ngột trong trường hợp nguy hiểm;
- Phanh êm dịu trong mọi trường hợp để đảm bảo sự ổn định chuyển động của ôtô;
- Điều khiển nhẹ nhàng, nghĩa là lực tác dụng lên bàn đạp hay đòn điều khiển không
lớn;
- Dẫn động phanh có độ nhạy cao;
- Đảm bảo việc phân bố mômen phanh trên các bánh xe phải theo quan hệ để sử
dụng hoàn toàn trọng lượng bám khi phanh ở những cường độ khác nhau;
- Không có hiện tượng tự xiết khi phanh;
- Cơ cấu phanh thoát nhiệt tốt;
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
2
- Có hệ số ma sát giữa trống phanh và má phanh cao và ổn định trong điều kiện sử
dụng;
- Giữ được tỉ lệ thuận giữa lực trên bàn đạp với lực phanh trên bánh xe;
- Có khả năng phanh ôtô khi đứng trong thời gian dài.
7.1.2. CẤU TẠO CHUNG CỦA HỆ THỐNG PHANH
Cấu tạo chung của hệ thống phanh trên ôtô
Hình 7.1 - Hệ thống phanh trên ôtô
Nhìn vào sơ đồ cấu tạo, chúng ta thấy hệ thống phanh bao gồm hai phần chính:
- Cơ cấu phanh:
Cơ cấu phanh được bố trí ở các bánh xe nhằm tạo ra mômen hãm trên bánh xe khi phanh ôtô.
- Dẫn động phanh:
Dẫn động phanh dùng để truyền và khuếch đại lực điều khiển từ bàn đạp phanh đến
cơ cấu phanh. Tuỳ theo dạng dẫn động là cơ khí, thuỷ lực, khí nén hay kết hợp mà trong dẫn
động phanh có thể bao gồm các phần tử khác nhau. Ví dụ nếu là dẫn động cơ khí thì dẫn
động phanh bao gồm bàn đạp và các thanh, đòn cơ khí. Nếu là dẫn động thuỷ lực thì dẫn
động phanh bao gồm bàn đạp, xi lanh chính (tổng phanh), xi lanh công tác (xi lanh bánh xe)
và các ống dẫn.
7.1.3. CƠ CẤU PHANH
7.1.3.1. Cơ cấu phanh guốc (phanh trống)
1. Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
3
Hình 7.2 - Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục
a. Cơ cấu phanh đối xứng qua trục mở guốc phanh bằng cam
1 - Guốc phanh; 2 -Lò xo phanh; 3 - Bầu phanh; 4 - Giá đỡ bầu phanh; 5 - Đòn trục cam;
6 - Cam ép; 7 - Lò xo lá; 8 - Má phanh; 9 - Trống phanh; 10 - Chốt guốc phanh.
b. Cơ cấu phanh đối xứng qua trục mở guốc phanh bằng xi lanh thuỷ lực
1 - Chụp cao su chắn bụi; 2- Xi lanh; 3 - Mâm phanh; 4 - Lò xo; 5 - Tấm kẹp; 6 - Guốc phanh;
7 - Má phanh; 8 - Bulông điều chỉnh; 9 - Đệm; 10 - Lò xo; 11 - Cam lệch tâm; 12 - Tấm đỡ;
13 - Bạc lệch tâm; 14 - Bulông điều chỉnh; 15 - Đai ốc; 16 - Đệm vênh.
Cơ cấu phanh đối xứng qua trục (có nghĩa gồm hai guốc phanh bố trí đối xứng qua
đường trục thẳng đứng) được thể hiện trên hình 7.2. Trong đó sơ đồ hình 8.2.a là loại sử dụng
cam ép để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này hay sử dụng trên ôtô tải lớn; còn sơ đồ
hình 8.2.b là loại sử dụng xi lanh thuỷ lực để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này
thường sử dụng trên ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ.
Cấu tạo chung của cơ cấu phanh loại này bao gồm một mâm phanh được bắt cố định
trên dầm cầu. Trên mâm phanh có lắp hai chốt cố định để lắp ráp đầu dưới của hai guốc
phanh. Hai chốt cố định này có thể có bố trí bạc lệch tâm để điều chỉnh khe hở giữa má
phanh và trống phanh phía dưới. Đầu trên của hai guốc phanh được lò xo guốc phanh kéo
vào ép sát với cam ép (hình 7.2.a) hoặc với pittông xi lanh (hình 7.2.b). Khe hở phía trên của
má phanh và trống phanh được điều chỉnh bằng trục cam ép (hình 8.2.a) hoặc bằng hai cam
lệch tâm 11 (hình 7.2.b).
Trên hai guốc phanh có tán (hoặc dán) các tấm ma sát. Các tấm này có thể dài liên
tục (hình 7.2.b) hoặc phân chia thành một số đoạn (hình 7.2.a).
Trên hình 7.2.b trống phanh quay theo chiều ngược chiều kim đồng hồ và guốc phanh
bên trái là guốc xiết, còn guốc bên phải là guốc nhả. Vì vậy má phanh bên guốc xiết dài hơn
má phanh bên guốc nhả với mục đích để hai má phanh có sự hao mòn như nhau trong quá
trình sử dụng do má xiết chịu lực lớn hơn.
2. Cơ cấu phanh đối xứng qua tâm
b
a
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
4
Hình 7.3 - Cơ cấu phanh đối xứng qua tâm
1 – Ống nối; 2 - Vít xả khí; 3 - Xi lanh bánh xe; 4 - Má phanh; 5 - Phớt làm kín;
6 - Pittông; 7 - Lò xo guốc phanh; 8 - Tấm chặn; 9 - Chốt guốc phanh; 10 - Mâm phanh.
Cơ cấu phanh guốc loại đối xứng qua tâm được thể hiện trên hình 7.3. Sự đối xứng
qua tâm ở đây được thể hiện trên mâm phanh 10 cũng bố trí hai chốt guốc phanh, hai xi lanh
bánh xe, hai guốc phanh hoàn toàn giống nhau và chúng đối xứng với nhau qua tâm.
Mỗi guốc phanh được lắp trên một chốt cố định ở mâm phanh và cũng có bạc lệch
tâm để điều chỉnh khe hở phía dưới của má phanh với trống phanh. Một phía của guốc phanh
luôn tì vào pittông của xi lanh bánh xe nhờ lò xo guốc phanh. Khe hở phía trên giữa má
phanh và trống phanh được điều chỉnh bởi cơ cấu tự động điều chỉnh khe hở lắp trong pittông
của xi lanh bánh xe. Cơ cấu phanh loại đối xứng qua tâm thường có dẫn động bằng thuỷ lực
và được bố trí ở cầu trước của ôtô du lịch hoặc ôtô tải nhỏ. Người ta bố trí sao cho khi ôtô
chuyển động tiến thì cả hai guốc phanh đều là guốc xiết còn khi lùi thì lại trở thành hai guốc
nhả. Như vậy hiệu quả phanh khi tiến thì lớn còn khi lùi thì nhỏ. Tuy nhiên thời gian lùi ôtô
rất ít và tốc độ rất chậm nên không cần hiệu quả phanh cao.
3. Cơ cấu phanh guốc loại bơi
Hình 7.4 - Cơ cấu phanh guốc loại bơi
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
5
Cơ cấu phanh loại bơi có nghĩa là guốc phanh không tựa trên một chốt quay cố định
mà cả hai đầu đều tựa trên mặt tựa di trượt (xem hình 7.4).
Có hai loại cơ cấu phanh bơi: Loại hai mặt tựa tác dụng đơn (hình 7.4.a), loại hai mặt
tựa tác dụng kép (hình 7.4.b).
A. Loại hai mặt tựa tác dụng đơn (hình 8.4.a):
Ở loại này, một đầu của guốc phanh được tựa trên mặt tựa di trượt trên phần vỏ xi
lanh, đầu còn lại tựa vào mặt tựa di trượt của pittông. Ở trạng thái bình thường, dưới tác dụng
của hai lò xo guốc phanh, các guốc phanh ép sát vào các mặt tựa tạo khe hở giữa má phanh
và trống phanh. Khi làm việc, trước hết một đầu của guốc phanh được pittông đẩy ra ép sát
vào trống phanh và cuốn theo chiều quay của trống phanh, làm đầu còn lại của guốc phanh
trượt trên mặt tựa để khắc phục hết khe hở giữa má phanh và trống phanh và trở thành điểm
tựa cố định. Loại này, nếu trống phanh quay theo chiều mũi tên thì hai guốc phanh đều là
guốc xiết (ứng với chiều tiến ôtô). Khi trống phanh quay theo chiều ngược lại (ứng với chiều
lùi ôtô) thì hai guốc phanh trở thành hai guốc nhả. Như vậy có nghĩa là hiệu quả phanh khi
tiến cũng lớn hơn hiệu quả phanh khi lùi. Loại này cũng thường được bố trí ở bánh xe trước
của ôtô du lịch hoặc ôtô tải nhỏ.
B. Loại hai mặt tựa tác dụng kép:
Ởû loại này trong mỗi xi lanh bánh xe có hai pittông và cả hai đầu của mỗi guốc phanh
đều tựa trên hai mặt tựa di trượt của hai pittông. Khi làm việc guốc phanh được đẩy ra ép sát
vào trống phanh ở cả hai đầu guốc phanh nên thời gian khắc phục khe hở giữa má phanh và
trống phanh ngắn hơn nghĩa là thời gian chậm tác dụng giảm. Ở loại này hiệu quả phanh khi
tiến và lùi là như nhau vì trong cả hai trường hợp hai guốc phanh đều là guốc xiết. Cơ cấu
phanh loại này thường được bố trí ở các bánh xe sau của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ.
4. Cơ cấu phanh guốc loại tự cường hoá
Hình 7.5 - Cơ cấu phanh guốc loại tự cường hoá
Cơ cấu phanh guốc loại tự cường hoá có nghĩa là khi phanh bánh xe thì guốc phanh
thứ nhất sẽ tăng cường lực tác dụng lên guốc phanh thứ hai.
Cấu tạo và nguyên lý của cơ cấu phanh tự cường hoá được mô tả trên hình 7.5.
Có hai loại cơ cấu phanh tự cường hoá: Cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng đơn (hình
7.5.a); cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng kép (hình 7.5.b).
- Cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng đơn (hình 7.5.a):
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
6
Cấu tạo của cơ cấu phanh loại này khác biệt với các cơ cấu phanh kể trên ở chỗ hai
đầu của hai guốc phanh được liên kết với nhau qua hai mặt tựa di trượt của một cơ cấu điều
chỉnh di động. Hai đầu còn lại của hai guốc phanh thì một được tựa vào mặt tựa di trượt trên
vỏ xi lanh bánh xe còn một thì tựa vào mặt tựa di trượt của pittông xi lanh bánh xe. Cơ cấu
điều chỉnh dùng để điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống phanh của cả hai guốc phanh.
Lúc chưa làm việc, cả hai guốc phanh được các lò xo guốc phanh kéo ép sát vào các mặt tựa
tạo khe hở giữa má phanh và trống phanh. Khi làm việc, một đầu của guốc phanh được
pittông đẩy ra ép sát vào trống phanh và cuốn theo chiều quay của trống phanh, thông qua cơ
cấu điều chỉnh tác dụng lên guốc phanh còn lại và khi đã khắc phục hết khe hở cả hai guốc
phanh cùng có điểm tựa cố định là mặt tựa trên vỏ xi lanh. Như vậy không những cả hai guốc
phanh đều là guốc xiết mà guốc thứ hai còn được guốc thứ nhất cường hoá một lực thông qua
cơ cấu điều chỉnh.
Cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng đơn có hiệu quả phanh theo chiều quay của trống
phanh ngược chiều kim đồng hồ (ứng với chiều tiến ôtô) là lớn, còn chiều quay ngược lại
(ứng với chiều lùi ôtô) là nhỏ. Cơ cấu phanh loại này thường được bố trí ở các bánh xe phía
trước của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ đến trung bình.
- Cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng kép (hình 7.5.b):
Khác với loại trên, loại cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng kép có hai đầu của hai
guốc phanh tựa trên hai mặt tựa di trượt của hai pittông trong một xi lanh bánh xe. Vì vậy
hiện tượng tự cường hoá và hiệu quả phanh ở cả hai chiều quay của trống phanh đều như
nhau. Cơ cấu phanh loại này được sử dụng ở các bánh xe sau của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ
đến trung bình.
5. Vấn đề điều chỉnh khe hở má phanh và trống phanh
Khe hở giữa má phanh và trống phanh có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả phanh. Khe hở
không đúng không những chỉ ảnh hưởng đến thời gian chậm tác dụng mà còn làm giảm
mômen phanh do cơ cấu phanh sinh ra, vì khe hở điều chỉnh không đúng thì diện tích tiếp xúc
giữa má phanh và trống phanh bị giảm do đó mômen phanh cũng giảm theo.
Để điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống phanh có thể thực hiện bằng tay hoặc
tự động.
a. Điều chỉnh bằng tay
Để điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống phanh người ta thường bố trí cơ cấu
điều chỉnh ở hai vị trí: Vị trí thứ nhất trên chốt quay cố định của guốc phanh; vị trí thứ hai
nằm sát phần trên của guốc phanh (hình 8.6, chi tiết 13 và 11).
Một bạc lệch tâm được bố trí trên chốt cố định dùng để điều chỉnh khe hở phía dưới
của má phanh và trống phanh. Bạc lệch tâm được ăn khớp trong bằng mặt vát với chốt để có
khả năng quay cùng chốt khi điều chỉnh và mặt ngoài với lỗ trên guốc phanh. Khi điều chỉnh,
người ta quay chốt 14 làm bạc lệch tâm quay theo, mang phần dưới guốc phanh dịch chuyển
làm khe hở giữa má phanh và trống phanh thay đổi.
Khe hở phía trên giữa má phanh và trống phanh được điều chỉnh bởi cam lệch tâm 11,
biên dạng cam luôn tì vào mặt cong của guốc phanh nên khi quay cam lệch tâm, guốc phanh
cũng dịch chuyển theo làm thay đổi khe hở giữa má phanh và trống phanh.
Khe hở giữa má phanh và trống phanh ở phía dưới và phía trên là khác nhau. Thường
khe hở phía dưới nhỏ hơn khe hở phía trên, vì khi guốc phanh đi ra ép sát vào trống phanh
phải quay quanh chốt nên phần trên sẽ dịch chuyển nhiều hơn phần dưới.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
7
Hình 7.6 - Điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống phanh
b. Điều chỉnh tự động
Việc điều chỉnh bằng tay đôi khi thiếu chính xác vì phụ thuộc vào trình độ của người
thợ điều chỉnh, hơn nữa việc điều chỉnh nhiều khi không kịp thời nên khe hở tăng quá tiêu
chuẩn, điều đó làm giảm hiệu quả phanh.
Để khắc phục nhược điểm trên, hiện nay ở một số ôtô người ta sử dụng cơ cấu tự
động điều chỉnh khe hở má phanh và trống phanh. Chúng ta thường gặp một số cơ cấu tự
động điều chỉnh như sau:
* Điều chỉnh bằng dẫn động phanh chân
Cấu tạo và nguyên lý làm việc của cơ cấu tự động điều chỉnh bằng dẫn động phanh
chân được mô tả trên hình 7.7.
Trong pittông của xi lanh bánh xe, người ta lắp một bulông điều chỉnh. Bulông này ăn
ren với lõi pittông, đầu còn lại có rãnh để tì vào đầu guốc phanh (hình 7.7.a). Một cơ cấu tự
động điều chỉnh bao gồm một bánh xe điều chỉnh, một thanh nối, một cần điều chỉnh và một
chốt quay. Toàn bộ các chi tiết này được gá trên vỏ xi lanh bánh xe (hình 7.7.b). Vị trí không
phanh gờ ngoài của pittông luôn tựa vào mặt đầu của xi lanh. Cần điều chỉnh có thể quay
quanh một chốt cố định trên vỏ xi lanh. Một đầu cần điều chỉnh ăn khớp với răng trên bánh
xe điều chỉnh còn một đầu liên kết với thanh nối. Thanh nối được nối từ cần điều chỉnh tới
mặt đầu của pittông. Một lò xo kéo luôn giữ thanh nối với cần điều chỉnh.
Mỗi lần đạp phanh, pittông dịch chuyển đi ra tì vào thanh nối kéo cần điều khiển
quay một góc nào đó quanh chốt.
Khi khe hở giữa má phanh và trống phanh còn nằm trong giới hạn cho phép thì góc
quay của cần điều chỉnh chưa đủ hành trình để tác dụng làm bánh xe điều chỉnh quay nên
pittông chưa quay.
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
8
Khi khe hở giữa má phanh và trống phanh lớn hơn giới hạn cho phép thì góc quay của
cần điều chỉnh đủ hành trình để tác dụng làm bánh xe điều chỉnh quay một góc tương ứng với
một bước răng nên pittông sẽ quay một góc tương ứng. Do rãnh của bulông điều chỉnh bị giữ
bởi guốc phanh (không xoay) nên khi pittông xoay sẽ làm bulông đi ra một lượng khắc phục
lượng khe hở vượt quá tiêu chuẩn (hình 8.7.c).
* Điều chỉnh bằng dẫn động phanh tay
Ở một số ôtô, việc tự động điều chỉnh khe hở má phanh trống phanh được thực hiện
bằng cơ cấu dẫn động phanh tay (hình 7.8).
a
b c
CÇn ®iỊu chØnh
B¸nh ®iỊu chØnh
Pitt«ng
Bul«ng ®iỊu chØnh
CÇn ®iỊu chØnh tù ®éng
CÇn ®iỊu
chØnh tù ®éng
B¸nh ®iỊu chØnh
èng ¨n khíp víi
pitt«ng
Tay ®ßn vµ lß xo
Chèt
Chèt
Lß xo
Tay ®ßn
Hình 7.7 - Cơ cấu tự động điều chỉnh
Kết cấu động cơ đốt trong và ô tô
9
Hình 7..8 - Điều chỉnh bằng dẫn động phanh tay
Người ta lợi dụng càng phanh tay và thanh nối giữa càng phanh tay với guốc phanh
còn lại làm cơ cấu điều chỉnh. Trên thanh nối người ta bố trí một bánh xe điều chỉnh liền với
bulông điều chỉnh trên thanh nối. Trên càng phanh tay lắp thêm một cần điều chỉnh.
Mỗi lần kéo phanh tay, càng phanh tay và cần điều chỉnh sẽ xoay một góc nào đó.
Khi khe hở giữa má phanh và trống phanh còn nằm trong giá trị cho phép thì góc quay
của cần điều chỉnh còn nhỏ hơn bước răng của bánh xe điều chỉnh nên sau khi nhả phanh tay,
cần điều chỉnh không gạt lên răng nên bánh xe điều chỉnh không xoay (hình 7.8.b).
Khi khe hở giữa má phanh và trống phanh lớn hơn giá trị cho phép thì góc quay của
cần điều chỉnh lớn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ket_cau_o_to.pdf