Các cation kim loại hấp phụ trên bề mặt hạt đất theo ba cơ chế trong hình 5.3. Ái lực
tương đối của một cation kim loại đã cho đối với chất hấp phụ là đất phụ thuộc phức tạp vào
thành phần của dung dịch đất. Nhưng tính chọn lọc của đất đối với một cation kim loại bị hấp
phụ có thể được giải thích bằng các khái niệm: sự tạo phức bề mặt cầu nội, cầu ngoại và đám
ion khuếch tán. Như đã nói ở mục 5.2, thứ tự giảm dần tương đối lực tương tác giữa ba cơ chế
hấp phụ này là: sự tạo phức cầu nội > sự tạo phức cầu ngoại > đám ion khuếch tán. Đối với sự
tạo phức bề mặt cầu nội, cấu trúc điện tử của cation kim loại và nhóm chức bề mặt rất quan
trọng, ngược lại đối với đám ion khuếch tán thì chỉ có hoá trị của cation kim loại và điện tích
bề mặt là cần để xác định ái lực hấp phụ. Sự tạo phức bề mặt cầu ngoại ở vị trí trung gian,
trong đó hoá trị có thể là yếu tố quan trọng nhất, nhưng tác động tăng cường hoá học lập thể
của sự cố định cation trong một phức chất hoàn toàn xác định cũng đóng vai trò quyết định ái lực
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3127 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Khoa học đất - Hấp phụ của đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông được
liên kết vào các phức chất bề mặt nhưng vẫn được hấp phụ bởi các hạt đất, đó là đám ion
khuếch tán (hình 5.3). Các ion này chuyển động tự do trong dung dịch đất trong khi vẫn giữ đủ
gần với bề mặt chất rắn để tạo ra điện tích bề mặt hữu hiệu sD làm cân bằng sP. Trong phạm
vi phân tử, điện tích bề mặt hữu hiệu này có thể được chia ra cho mỗi đám ion khuếch tán theo
phương trình:
(5.5)
trong đó Zi là hoá trị của ion, ci(x) là nồng độ của ion tại điểm x trong dung dịch đất và coi là
nồng độ của ion trong dung dịch đất ở đủ xa bề mặt hạt bất kỳ nào để tránh hấp phụ bằng đám
ion khuếch tán. Tích phân trong phương trình 5.5 là trên toàn bộ thể tích V của dung dịch đất
tiếp xúc với khối lượng mS của các hạt đất. Do vậy phương trình 5.5 đại diện cho số lượng
điện tích của ion i trong dung dịch đất: nếu ci(x) = coi thì sẽ không có sự đóng góp của ion i
cho sD. Lưu ý rằng phương trình 5.5 áp dụng cho tất cả các ion trong dung dịch đất, kể cả H+
và OH- và sD là tổng của tất cả các sDi. Tổng này cần thiết để cân bằng sP giữ cho đất trung
hoà về điện:
sP + sD = 0 (5.6)
Phương trình 5.6 biểu thị cân bằng của điện tích bề mặt đối với một loại đất.
5.4. Các điểm điện tích không (zero)
Các điểm điện tích không là các giá trị pH mà tại đó một hay nhiều thành phần của điện
tích bề mặt trong phương trình 5.6 bị triệt tiêu. Ba điểm điện tích không quan trọng nhất được
tổng hợp trong bảng 5.1. Điểm điện tích không (PZC – point of zero charge) tổng quát nhất là
giá trị pH mà tại đó tổng điện tích thực của hạt bị triệt tiêu: sP = 0. Tại giá trị pH này, không
có điện tích thực nào được đóng góp bởi các ion bị hấp phụ bằng đám khuếch tán theo phương
81
trình 5.6. Điều kiện này có thể được xác định bằng thực nghiệm bằng cách thiết lập giá trị pH
mà tại đó các hạt đất không chuyển động trong một điện trường được áp dụng (“đo độ linh
động điện di”) hoặc tại đó sự sa lắng xuất hiện trong huyền phù của các hạt đất (“đo sự keo
tụ”). PZC báo hiệu không có các ion bị hấp phụ chuyển động tự do và sự tăng lực giữa các hạt
tạo ra các tác dụng đông tụ. Vì thế PZC đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành hạt
kết của đất và trong sự giữ các ion được hấp phụ chống lại sự rửa trôi, đặc biệt ở các loại đất
có điện tích thay đổi. Người ta thường thấy rằng những đất này có xu hướng phong hoá đến
các giá trị pH gần với PZC.
Bảng 5.1 Một số điểm điện tích không
Ký hiệu Tên Điều kiện định nghĩa
PZC Điểm điện tích không sP = 0
PZNPC Điểm điện tích proton thực bằng không sH = 0
PZNC Điểm điện tích thực bằng không sIS + sOS + sD = 0
Điểm điện tích proton thực bằng không (PZNPC – point of zero net proton charge) là
giá trị pH mà tại đó sH bị triệt tiêu. Hình 5.4 minh hoạ việc đo PZNPC đối với đất Oxisol. Lưu
ý rằng đặc điểm chung của sH là giảm khi giá trị pH tăng (tức là DsH/DpH luôn âm). Xu
hướng này tồn tại không kể đến thành phần hay lực ion của dung dịch đất và độc lập với bản
chất của các hạt đất (vô cơ hoặc hữu cơ…).
Tương tự PZNPC, người ta có thể định nghĩa điểm điện tích thực bằng không (PZNC –
point of zero net charge) là giá trị pH mà tại đó điện tích ion bị hấp phụ thực bị triệt tiêu, khác
với điện tích ion được đặc trưng bởi sH. Nếu q+ và q- tương ứng biểu thị số mol điện tích
cation và anion bị hấp phụ thì q+ = q- tại PZNC. Điểm điện tích không này cũng được minh
hoạ ở hình 5.4. Trong ví dụ này, đất Oxisols được bão hoà Na+ và Cl-; sau đó các giá trị của
qNa và qCl được đo bằng một hàm của pH thay đổi trong khi lực ion được giữ không đổi.
PZNC là giá trị pH khi qNa = qCl. Trong thực tế thường dùng “các ion chỉ số” như các ion này
trong việc xác định PZNC. Rõ ràng, giá trị của PZNC sẽ phụ thuộc vào sự lựa chọn các ion chỉ
số, mặc dù kinh nghiệm cho thấy sự phụ thuộc này rất nhỏ nếu các ion được chọn chỉ được hấp
ho ặ
c
Nền NaCl 9 mol Nền NaCl 9 mol m-3
82
Hìn
h 5.4 Điểm điện tích proton thực bằng không (PZNPC) đối với đất Oxisol. L. Charlet,
1986
phụ không đặc trưng (“chất điện phân trung tính”). Ví dụ các ion như Li+, Na+, Cl-, ClO và
NO3. Lưu ý rằng theo các khái niệm trong mục 5.2,
q+ - q- º sIS + sOS + sD = 0 (pH = PZNC) (5.7)
tại PZNC (mặc dù sIS sẽ không đóng góp nếu đất được bão hoà bằng một chất điện phân
trung tính). Như vậy các ion được hấp phụ linh động tồn tại ở PZNC, trong khi chúng không
tồn tại ở PZC. Hiện tượng này có thể có quan hệ mật thiết với sự giữ các ion dinh dưỡng trong
đất. Các giá trị đặc trưng của PZNC cho khoáng đất được liệt kê ở bảng 5.2.
Bảng 5.2 Các giá trị đặc trưng của PZNC đối với các khoáng vật đất
Khoáng vật đất PZNC Khoáng vật đất PZNC
Thạch anh 2,0-3,0 Gơtit 7,0-8,0
Birnesit 1,5-2,5 Hematit 8,0-8,5
Kaolinit 4,0-5,0 Gipxit 8,0-90
Các quan hệ chung giữa mật độ điện tích bề mặt thành phần và các điểm điện tích
không có thể nhận được từ phương trình 5.6 khi dùng các định nghĩa trong bảng 5.1. Ví dụ,
nếu pH = PZNPC, thì:
so = -(q+ - q-) (pH = PZNPC)
(5.8)
theo phương trình 5.4 và định nghĩa “ion bị được hấp phụ” trong mục 5.2. Phương trình 5.8 nói
rõ rằng các ion bị hấp phụ, ngoài H+ hay OH- góp phần vào sH, làm cân bằng điện tích cấu
trúc ổn định khi pH = PZNPC. Do vậy so có thể được xác định bằng cách điều chỉnh pH tới
điểm điện tích không này và xác định điện tích ion được hấp phụ thực. Phương pháp này có thể
được sử dụng mà không cần điều chỉnh pH nếu |sH| << |so| trong các loại đất có điện tích ổn
định.
Trong một ví dụ khác, xem xét các phương trình 5.6 và 5.7 tại PZC. Tại giá trị pH này,
sD = 0. PZNC sẽ xuất hiện ở cùng giá trị pH nếu và chỉ nếu sIS + sOS cũng bị triệt tiêu theo
phương trình 5.7. Do vậy PZC = PZNC chỉ khi điện tích thực của phức bề mặt triệt tiêu tại
PZNC. Nếu các cation và anion trong các phức bề mặt cân bằng điện tích tại PZNC, sẽ không
cần sự đóng góp của đám ion khuếch tán và PZC cũng sẽ đạt được. Lưu ý rằng nếu một chất
điện phân trung tính được dùng để xác định PZNC, thì cần phải phân các ion được hấp phụ
thành các loại phức cầu ngoại và đám ion khuếch tán để xem liệu PZC có bằng PZNC không.
Cuối cùng, điều kiện pH = PZC được áp dụng vào các phương trình 5.5 và 5.6 có thể
được biểu diễn trong phương trình:
83
sH = - (so + sIS + sOS) (pH = PZC) (5.9)
Vì sH thay đổi nghịch đảo với pH, giá trị pH mà tại đó phương trình 5.9 giữ vững phải tăng lên
khi sIS + sOS tăng họăc giảm khi sIS + sOS giảm. Do vậy nếu sIS + sOS tăng do sự hấp phụ
các ion K+ thêm vào bằng phức bề mặt cầu nội (hình 5.2) thì sH tại PZC sẽ giảm theo phương
trình 7.9 và bản thân PZC sẽ tăng vì DsH/DpH luôn âm. Quy luật chung là: sự hình thành phức
chất bề mặt sẽ làm thay đổi PZC theo cùng chiều hướng giống như sự thay đổi điện tích thực
của phức chất bề mặt.
Sự hấp phụ thêm các cation bằng phức chất bề mặt do vậy sẽ tăng PZC, ngược lại sự
hấp phụ thêm các anion bằng phức chất bề mặt sẽ làm giảm PZC. Lưu ý rằng các sự thay đổi
PZC này không đòi hỏi sự hấp phụ đặc trưng mà chỉ cần sự tạo phức bề mặt. Do vậy sự thay
đổi của PZC do sự hấp phụ thêm một ion không thể được hiểu là dấu hiệu của sự hấp phụ đặc
trưng. Loại thay đổi này chỉ chứng tỏ rằng các phức chất bề mặt được hình thành tuân theo
luật cân bằng điện tích.
sH thường xuyên được xác định bằng chuẩn độ với sự có mặt của một chất điện phân
trung tính với lực ion khác nhau. Các đường cong kết quả sH-pH được vẽ như ở phía trái của
hình 5.5 và giá trị pH tại đó các đường cong giao nhau được xác định (nếu chúng giao nhau tại
1 điểm). Giá trị pH này là điểm hiệu ứng muối bằng không (PZSE – point of zero salt effect).
Tuy nhiên, không như các điểm điện tích không trong bảng 5.1, PZSE là một loại điểm không
đổi đối với sH, không có giá trị pH nào mà tại đó điện tích bề mặt cần triệt tiêu. Vì vậy mối
quan hệ giữa PZSE và các điểm điện tích không là gián tiếp và không thể làm sáng tỏ được khi
thiếu hoặc các giả định mô hình bổ sung về bề mặt hạt đất hoặc các thí nghiệm bổ sung. Do đó
việc sử dụng chúng để hiểu về điện tích bề mặt trong đất bị hạn chế.
5.5 Đo sự hấp phụ
Sự hấp phụ như định nghĩa trên được nghiên cứu bằng thực nghiệm với đất qua hai hoạt
động cơ bản trong phòng thí nghiệm: (1) phản ứng của đất với một dung dịch đã biết trước
thành phần ở nhiệt độ và áp suất nhất định trong một khoảng thời gian quy định và (2) phân
tích về mặt hóa học đối với đất đã phản ứng, dung dịch đất hay cả hai để xác định thành phần
của chúng. Phản ứng ở bước 1 có thể xảy ra hoặc với dung dịch đã trộn đều với các hạt đất
(“quá trình phân đoạn” – batch process) hoặc với dung dịch chuyển động đều tương đối với
một cột hay lõi các hạt đất (“quá trình chảy qua” – flow-through process). Thời gian phản ứng
phải đủ để cho phép phát hiện được sự tích tụ chất bị hấp phụ, nhưng không quá dài để tránh
những phản ứng phụ không mong muốn như các phản ứng oxy hóa khử, kết tủa hay phản ứng
hoà tan. Trong các quá trình phân đoạn, việc phân tích hóa học ở bước 2 thường được tiến
hành sau khi tách riêng đất khỏi dung dịch phản ứng bằng li tâm hay phương pháp trọng lực.
Một phần của dung dịch chất phản ứng luôn bị cuốn theo cùng với đất khi tách bằng cách này.
Trong các quá trình chảy qua, thành phần của dung dịch chảy ra được phân tích để xác định sự
thay đổi do quá trình hấp phụ gây ra.
Số mol của chất hóa học i được hấp phụ trên một kg đất khô tiếp xúc với dung dịch
lỏng được tính theo phương trình:
qi = ni – Mwmi (5.10)
84
trong đó ni là tổng số mol của chất i trên một kg đất khô trong dung dịch huyền phù đặc
(slurry) cuốn theo đất (quá trình phân đoạn), hoặc trong cột hay lõi đất ướt (quá trình chảy
qua); MW là hàm lượng nước trọng lực của huyền phù đặc hay cột đất (kg nước trên kg đất
khô); mi là nồng độ phân tử gam theo khối lượng (số mol trên kg nước) của chất i trong dung
dịch nổi ở trên (quá trình phân đoạn) hay trong dung dịch chảy ra (quá trình chảy qua). Đơn vị
của ni, Mw và mi có thể được tham khảo ở phần phụ lục. Nếu chất i là nước thì qi bằng 0. Vì
vậy, qi có liên quan tới bề mặt phân cách mà tại đó không có sự hấp phụ nước.
Giá trị của qi trong phương trình 5.10 có thể là dương, âm hay bằng 0. Ví dụ, đất có
điện tích không đổi phản ứng trong một quá trình phân đoạn với dung dịch CaCl2. Sau khi
phản ứng, đất và dung dịch lỏng được tách ra bằng li tâm. Huyền phù đặc của đất nhận được
có chứa 0,053 mol Ca kg-1 và hàm lượng nước trọng lực là 0,45 kg kg-1. Nồng độ Ca của
dung dịch nổi ở trên bằng 0,01 mol kg-1. Theo phương trình 5.10:
qCa = 0,053 – 0,45 x 0,01 = + 0,049 mol kg-1
là lượng Ca hấp phụ trên bề mặt của đất mang giá trị dương. Tương tự như vậy, giả sử nồng độ
Cl trong dung dịch nổi ở trên là 0,02 mol kg-1 và huyền phù đặc của đất có chứa 0,0028 mol
Cl kg-1, thì
qCl = 0,0028 – 0,45 x 0,02 = - 0,006 mol kg-1
là lượng Cl hấp phụ trên bề mặt của đất mang giá trị âm.
Nếu nồng độ phân tử gam ban đầu của chất i trong dung dịch chất phản ứng là và
tổng khối lượng nước trong dung dịch này được trộn với 1 kg đất khô trong quá trình phân
đoạn hoặc quá trình chảy qua là MTw thì điều kiện cho cân bằng khối lượng đối với chất i có
thể được biểu thị như sau:
MTw = ni + mi(MTw - Mw) (5.11)
(số mol thêm vào
ban đầu)
(số mol trong huyền
phù đặc)
(số mol trong dung
dịch nổi ở trên)
Kết hợp công thức 5.10 và 5.11, ta có:
qi = DmiMTw (5.12)
trong đó Dmi º - mi là sự thay đổi về nồng độ phân tử gam do hấp phụ. Phương trình 5.12
hay được áp dụng để tính số lượng dư trên bề mặt là tích số của sự thay đổi nồng độ chất bị
hấp phụ nhân với khối lượng nước được thêm vào trên một đơn vị khối lượng đất khô. Chú ý là
vế phải của phương trình 5.12 chỉ liên quan với pha dung dịch lỏng. Trong thực tế, sự khác
nhau giữa nồng độ phân tử gam theo khối lượng và nồng độ tính theo số mol trên lít (nồng độ
85
phân tử gam theo thể tích) có thể bỏ qua khi áp dụng phương trình này (xem phụ lục về nồng
độ phân tử gam khối lượng và các đơn vị nồng độ).
Khi sử dụng các biểu thức vĩ mô như phương trình 5.10 hay 5.12 phải thừa nhận rằng
phản ứng giữa dung dịch lỏng và đất là một quá trình hấp phụ như đã định nghĩa ở mục 5.2. Sự
thừa nhận này nói chung không thể được công nhận do chỉ nghiên cứu riêng qi. Lý tưởng nhất
là phải có bằng chứng quang phổ thực nghiệm cho các chất bề mặt (hình 5.3) ngoài việc xác
định số lượng dư trên bề mặt. Đối với đất loại bằng chứng này không dễ dàng đạt được được
nhưng thường tìm thấy kết quả trong các nghiên cứu về khoáng vật đất (hình 5.2), từ đó có thể
ngoại suy cho đất.
5.6 Động học và cân bằng hấp phụ
Các thí nghiệm về sự hấp phụ cả cation và anion cho thấy các phản ứng hấp phụ trong
đất có điểm đặc trưng là nhanh, chỉ xảy ra trong khoảng thời gian là vài phút họăc vài giờ,
nhưng chúng cũng có thể kéo dài tới vài ngày hay thậm chí vài tuần. Các ion dễ trao đổi (mục
5.2) hấp phụ và giải hấp rất nhanh, với một tốc độ được điều khiển bởi cơ chế khuếch tán
màng (mục 3.4). Các ion được hấp phụ đặc trưng tác động phức tạp hơn rất nhiều, chúng
thường hấp phụ bằng các cơ chế bội (multiple mechanisms) khác với các cơ chế liên quan đến
sự giải hấp chúng. Phản ứng hấp phụ của những ion này diễn ra trong một thời gian dài.
Động học hấp phụ cation hay anion được mô tả bằng toán học như sau:
(5.13)
trong đó Dci º -ci là sự thay đổi về nồng độ chất bị hấp phụ i (mol/kg hay mol/lít) do sự hấp
phụ. Trong phương trình 5.13, phương trình 5.12 đã được dùng để thay thế qi bằng đạo hàm
theo thời gian và hằng số MTw được hấp phụ thành các hàm tốc độ trước và sau Rf và Rb.
Trong các tài liệu hoá học đất có nhiều công thức thức kinh nghiệm khác nhau được sử dụng
để tính Rf và Rb. Công thức phổ biến nhất là luật động học bậc nhất:
Rf = kfci Rb = qi = .kbDci (5.14)
trong đó kf và kb là các hằng số tốc độ (phương trình 4.3). Như đã chỉ ra ở bảng 4.2, đồ thị
lnci nghịch với thời gian có thể được sử dụng để tính hoặc kf hoặc kb nếu số liệu được lấy dưới
điều kiện hoặc Rb hoặc Rf không đáng kể. Luật tốc độ bậc nhất không phản ánh một cơ chế
hấp phụ hay giải hấp duy nhất. Chúng là các mô hình toán học thực nghiệm mà ý nghĩa phân tử
của chúng phải được thiết lập bằng các thí nghiệm độc lập dựa trên cơ sở bản chất chi tiết của
các phản ứng bề mặt mà chúng mô tả.
Ví dụ minh họa về sự tác động lẫn nhau cần có giữa số liệu động học và số liệu phân tử
là phản ứng của các ion photphat với canxit (CaCO3). Sự tăng DcPO4 (tức là giảm photphat
của dung dịch lỏng) khi có mặt canxit sau thời gian hàng chục phút và tăng mạnh hơn khi nhiệt
độ hay pH tăng. Sau vài giờ hoặc vài ngày, giá trị của DcPO4 tăng dần dần, sau đó lại tăng
nhanh đột ngột. Điều này được giải thích là do sự hấp phụ photphat tại các điểm chọn lọc trên
canxit, tiếp theo là sự hình thành hạt rắn canxi photphat trên bề mặt. Sự tăng dần DcPO4 kéo
86
dài hơn nếu nồng độ photphat ban đầu thấp và nó là kết quả của sự hợp lại các chùm photphat
bị hấp phụ thành các hạt Ca photphat. Tiếp theo đó là sự phát triển nhanh theo ba chiều của
các tinh thể canxi photphat. Quan sát canxit trên kính hiển vi điện tử trong giai đoạn hợp lại
cho thấy sự phát triển theo hình bán cầu của photphat (được nhận dạng bằng phân tích hoá học
máy dò siêu nhỏ) ở các vị trí mép và những chỗ bị lệch mạng trên bề mặt tinh thể canxit. Động
học hấp phụ được tìm thấy có dạng bậc hai (bảng 4.2), trong khi động học hợp lại là bậc nhất.
Vì thế trong ví dụ này, động học bậc nhất không phản ánh quá trình hấp phụ, nhưng thay vào
đó là quá trình hợp lại phân tử trên bề mặt. Người ta cho rằng động học bậc hai phản ánh sự
phụ thuộc trực tiếp của tốc độ hấp phụ vào nồng độ dung dịch photphat và sự phụ thuộc gián
tiếp qua số lượng dư trên bề mặt.
Đồ thị giữa qi và mi hay ci ở nhiệt độ cố định và áp suất ứng dụng là một đường đẳng
nhiệt hấp phụ. Các đường đẳng nhiệt hấp phụ rất thuận tiện cho việc thể hiện tác động của
nồng độ chất bị hấp phụ lên số lượng dư trên bề mặt, đặc biệt nếu các biến khác như pH và lực
ion chịu sự kiểm soát bởi nhiệt độ và áp suất. Hình 5.5 thể hiện 4 loại đường đẳng nhiệt hấp
phụ thường quan sát được khi nghiên cứu đất.
Đường cong đẳng nhiệt S đặc trưng bởi góc nghiêng nhỏ ban đầu sau đó tăng lên cùng nồng
độ chất bị hấp phụ. Đặc điểm này gợi ý rằng ái lực của các hạt đất đối với chất bị hấp phụ nhỏ
hơn ái lực của dung dịch lỏng đối với chất bị hấp phụ. Trong ví dụ về sự hấp phụ đồng ở hình
5.5, đường cong S được cho là kết quả của sự cạnh tranh ion Cu2+ giữa chất hữu cơ hoà tan
và các hạt đất. Khi nồng độ Cu(II) vượt quá khả năng tạo phức chất của các phối tử hữu cơ, bề
mặt hạt đất có lợi trong cạnh tranh và bắt đầu hấp phụ ion đồng rõ rệt. Vì vậy, đường cong
đẳng nhiệt có hình dạng chữ S. Trong một số trường hợp, đặc biệt khi các hợp chất hữu cơ bị
hấp phụ, đường cong đẳng nhiệt S là kết quả của sự tương tác kết hợp giữa các phân tử bị hấp
phụ. Các tương tác này (ví dụ sự polyme hoá bề mặt hay tương tác hoá học lập thể) làm cho
chất bị hấp phụ trở nên bền trên bề mặt chất rắn và như vậy chúng tạo nên ái lực tăng cường
của bề mặt đối với chất bị hấp phụ khi lượng hấp phụ bề mặt của nó tăng lên.
Đường cong đẳng nhiệt L được đặc trưng bởi góc nghiêng ban đầu không tăng theo
nồng độ chất bị hấp phụ trong dung dịch đất. Loại đường đẳng nhiệt này là kết quả tổng hợp
của ái lực tương đối (relative affinity) cao của các hạt đất đối với chất bị hấp phụ khi lớp phủ
trên bề mặt thấp cùng với sự giảm số lượng bề mặt hấp phụ còn lại do số lượng dư trên bề mặt
của chất bị hấp phụ đó tăng lên. Ví dụ về sự hấp phụ photphat ở Hình 5.5 biểu diễn đặc trưng
của đường cong L tổng quát: đường đẳng nhiệt là đường cong lõm về phía trục nồng độ vì sự
kết hợp của ái lực với các yếu tố không gian.
87
Hình 5.5 Bốn loại đường đẳng nhiệt hấp phụ tổng quát. G. Sposito, 1984.
Đường cong đẳng nhiệt H là loại cực lớn của đường cong đẳng nhiệt L. Đặc điểm độ
dốc ban đầu lớn của nó (so với đường cong đẳng nhiệt L) ám chỉ ái lực tương đối rất cao của
đất đối với chất bị hấp phụ. Điều kiện này thường được tạo ra bởi phức bề mặt cầu nội hay
tương tác Van Dec Van rõ rệt trong quá trình hấp phụ ( xem mục 3.5 và 3.6). Ví dụ về sự hấp
phụ cadimi ở nồng độ rất thấp của đất kaolinit trên hình 5.5, biểu diễn đường cong đẳng nhiệt
H do sự hấp phụ đặc biệt gây ra. Các phân tử hữu cơ lớn và polyme vô cơ (ví dụ polyme
hydroxy nhôm) cho các đường cong đẳng nhiệt H do tương tác Van Dec Van gây ra.
Đường cong đẳng nhiệt C đặc trưng bởi độ dốc ban đầu vẫn được giữ nguyên độc lập
với nồng độ chất bị hấp phụ tới khi sự hấp phụ đạt cực đại. Loại đường đẳng nhiệt này có thể
được tạo ra hoặc do sự phân bố không đổi của một chất bị hấp phụ giữa lớp bề mặt chung và
dung dịch đất hoặc do sự tăng theo tỷ lệ về số lượng hấp phụ bề mặt do số lượng trên bề mặt
của chất bị hấp phụ tăng lên. Ví dụ về sự hấp phụ parathion (diethyl p-nitrophenyl monothio
photphat) trong hình 5.5 cho thấy sự phân bố không đổi của hợp chất này giữa hexan và các
lớp nước trên một loại đất ở độ ẩm tương đối 50%. Sự hấp phụ axit amin bởi
Ca-monmorillonit cũng biểu thị một đường cong đẳng nhiệt C vì chất bị hấp phụ có thể đi sâu
vào giữa các tầng, do đó tạo ra sự hấp phụ bề mặt mới cho chính nó.
Đường cong đẳng nhiệt L là dạng phổ biến nhất trong hoá học đất. Mô tả đường đẳng
nhiệt này về mặt toán học luôn luôn liên quan với phương trình Langmuir hoặc phương trình
Van Bemmelen-Freundlich. Phương trình Langmuir có dạng:
(5.15)
trong đó b và K là các thông số có thể điều chỉnh được. Thông số b tiệm cận đến qi khi ci quá
lớn. Thông số K quyết định độ lớn của góc nghiêng ban đầu của đường đẳng nhiệt. Cách tính
I» 0,05M
88
chính xác nhất hai thông số này từ số liệu thực nghiệm là vẽ đồ thị hệ số phân bố (phương trình
3.9),
Kd º qi/ci (5.16)
ngược lại với số lượng dư trên bề mặt. Sau khi nhân cả 2 vế của phương trình 5.15 với (1/ci +
K) và tính Kd, người ta thấy rằng phương trình Langmuir tương đương với biểu thức tuyến
tính:
Kd = bK - Kqi
(5.17)
Vì thế, đồ thị của Kd ngược với qi phải là đường thẳng với độ dốc là -K và cắt trục x
tại b, nếu phương trình Langmuir phù hợp.
Phương trình đẳng nhiệt Van Bemmelen - Freundlich có dạng:
qi = A (5.18)
trong đó A và b và các thông số mang giá trị dương có thể điều chỉnh, với b nằm trong khoảng
từ 0 tới 1. Hai thông số này có thể được ước lượng bằng cách vẽ đồ thị của logqi ngược với
logci cho dải nồng độ chất bị hấp phụ mà phương trình 5.18 áp dụng. Sau đó logA và b được
tính như giao điểm y và độ dốc tương ứng của đường thẳng thu được.
Giống như luật tốc độ kinh nghiệm, các phương trình đẳng nhiệt hấp phụ không thể giải
thích cho bất kỳ cơ chế hấp phụ đặc biệt nào, dù là sự hấp phụ, chứ không phải sự kết tủa, xảy
ra trong thực tế. Trên cơ sở toán học có thể thấy rằng toàn bộ hai phương trình Langmuir và
Van Bemmelen – Freundlich với 4 thông số có thể điều chỉnh sẽ phù hợp với bất kỳ đường
cong đẳng nhiệt L nào không phụ thuộc vào cơ chế hấp phụ cơ bản đó. Vì thế các phương
trình đẳng nhiệt hấp phụ nên được coi như các mô hình đường cong thích hợp không có ý
nghĩa phân tử đặc biệt nào, nhưng có khả năng dự báo dưới các điều kiện giới hạn.
5.7. Sự hấp phụ cation kim loại
Các cation kim loại hấp phụ trên bề mặt hạt đất theo ba cơ chế trong hình 5.3. Ái lực
tương đối của một cation kim loại đã cho đối với chất hấp phụ là đất phụ thuộc phức tạp vào
thành phần của dung dịch đất. Nhưng tính chọn lọc của đất đối với một cation kim loại bị hấp
phụ có thể được giải thích bằng các khái niệm: sự tạo phức bề mặt cầu nội, cầu ngoại và đám
ion khuếch tán. Như đã nói ở mục 5.2, thứ tự giảm dần tương đối lực tương tác giữa ba cơ chế
hấp phụ này là: sự tạo phức cầu nội > sự tạo phức cầu ngoại > đám ion khuếch tán. Đối với sự
tạo phức bề mặt cầu nội, cấu trúc điện tử của cation kim loại và nhóm chức bề mặt rất quan
trọng, ngược lại đối với đám ion khuếch tán thì chỉ có hoá trị của cation kim loại và điện tích
bề mặt là cần để xác định ái lực hấp phụ. Sự tạo phức bề mặt cầu ngoại ở vị trí trung gian,
trong đó hoá trị có thể là yếu tố quan trọng nhất, nhưng tác động tăng cường hoá học lập thể
của sự cố định cation trong một phức chất hoàn toàn xác định cũng đóng vai trò quyết định ái
lực.
89
Ái lực tương đối của chất hấp phụ là đất đối với một cation kim loại tự do sẽ tăng theo
chiều hướng cation hình thành phức bề mặt cầu nội. Đối với một nhóm các cation có hoá trị đã
cho, chiều hướng này tương quan thuận với bán kính ion (bảng 2.1). Nguyên nhân của tương
quan này gồm 2 phần. Một là, với một hoá trị Z đã cho, thế ion Z/R giảm khi bán kính ion R
tăng lên. Chiều hướng này cho thấy các cation kim loại có bán kính ion lớn hơn sẽ tạo ra điện
trường nhỏ hơn và sẽ ít hơn có thể là để duy trì trạng thái solvat hoá mặc dù có sự cạnh tranh
để tạo phức bởi nhóm chức bề mặt. Hai là, R lớn hơn tức là cấu hình không gian điện tử rộng
lớn hơn và chiều hướng một cation kim loại phân cực (biến dạng) phản ứng lại với điện trường
của một nhóm chức bề mặt mang điện mạnh hơn. Sự phân cực này là điều kiện tiên quyết cho
sự biến dạng của cấu hình điện tử dẫn đến liên kết cộng hoá trị (mục 2.1). Theo những lý do
này, có thể thiết lập dãy ái lực hấp phụ tương đối ("dãy chọn lọc") trên cơ sở bán kính ion
(bảng 2.1)
Cs+ > Rb+ > K+ > Na+ > Li+
Ba2+ > Sr2+ > Ca2+ > Mg2+
Hg2+ > Cd2+ > Zn2+
Dãy chọn lọc này phù hợp với các kết quả thí nghiệm hấp phụ của đất. Tuy nhiên, đối
với các cation kim loại chuyển tiếp, chỉ có bán kính ion thì không đủ để xác định ái lực hấp phụ
vì cấu hình điện tử đóng một vai trò rất quan trọng trong các phức chất của các cation này (ví
dụ, Mn2+, Fe2+, Ni2+). Ái lực tương đối của chúng có xu hướng tuân theo thứ tự
Irving-Williams:
Cu2+ > Ni2+ > Co2+ > Fe2+ > Mn2+
Ảnh hưởng của pH đến sự hấp phụ cation kim loại chủ yếu là do sự thay đổi về điện
tích proton thực (sH – là hiệu số giữa số mol proton và số mol ion OH- được tạo phức bởi các
nhóm chức bề mặt) trên các hạt đất. Khi pH tăng, sH giảm về phía các giá trị âm (xem hình
5.4) và sức hút tĩnh điện của đất đối với một cation kim loại tăng lên. Nếu đất phản ứng với
một dãy dung dịch lỏng chứa một cation kim loại ở cùng nồng độ ban đầu nhưng có giá trị pH
tăng dần thì số lượng cation kim loại được hấp phụ sẽ tăng cùng với pH, trừ phi các phối tử
trong dung dịch đất cạnh tranh quá mạnh về kim loại với các nhóm chức bề mặt. Khi không có
sự cạnh tranh đáng kể của các phối tử, đồ thị của cation kim loại bị hấp phụ qM với pH sẽ có
hình xich ma đặc trưng gọi là biên hấp phụ. Biên hấp phụ của Na+ được chỉ ra ở hình 5.4 và
của Ca+ ở hình 5.6.
Các đường cong này thường được biểu thị về lượng bởi giá trị của pH50, giá trị pH mà
tại đó một nửa giá trị lớn nhất của qM đạt được. Các kết quả chủ yếu nhận được cho thấy
pH50
có tương quan nghịch với ái lực tương đối của đất đối với cation kim loại; ví dụ, pH50 của
Mn2+ lớn hơn của Cu2+ và của Mg2+ lớn hơn Ba2+. Ảnh hưởng của sự thuỷ phân cation kim
loại, ví dụ: M(H2O)m+ = MOH(m-1)+ + H+ (*), đến biên hấp phụ là một vấn đề đang gây
tranh cãi. Gần như pH50 luôn luôn nhỏ hơn nhiều giá trị pH m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong5_hap_phu_cua_dat_2698.pdf