USB là sự tích hợp của thiết bị lưu trữ dữ liệu dùng bộ nhớ flash với giao tiếp USB. Chúng nhỏ
, nhẹ, di chuyển được và ghi chép được. Dung lượng bộ nhớ thường là 8 MB đến 64 GB. Khi dung
lượng bộ nhớ tăng lên, giá cả cũng tăng theo, như năm 2006 nhiều sản phẩm với dung lượng 1 đến
4 GB với giá không mắc hơn nhiều so với sản phẩm dung lượng 128 MB vào năm 2002.
Có những phiên bản dùng côg nghệ Firewire, nhưng khi chuẩn IEEE1394 không còn phổ biến
bằng USB, nó cũng ít được sản xuất.
Đĩa USB có rất nhiều ưu điểm hơn so với các thiết bị lưu trữ cầm tay khác, đặc biết là đĩa A.
Nó nhanh hơn, lưu trữ nhiều hơn và uyễn chuyễn hơn ổ đĩa A.Loại đĩa này dùng chuẩn USB, được
hổ trợ bởi các hệ điều hành hiện đại như Linux, Mac OS X, và Window XP.
Đĩa flash bao gồm nhiều mạch điện tích hợp rất nhỏ được đống gói trong lớp vỏ nhựa hay kim
loại, làm cho đỉa đủ cứng để mang theo trong túi. Chỉ có đầu nối USB được đưa ra ngoài để giao
tiếp hay để kết nối với các thiết bị khác. Hầu hết đĩa flash sử dụng chuẩn USB loại A , nó cho phép
kết nối trực tiếp với các cổng của máy tính cá nhân
Hầu hết đĩa flash hoạt động chỉ khi cung cấp nguồn từ cổng USB của máy tính, và không cần
nguồn pin từ bên ngoài. Để truy cập dữ liệu trong đĩa flash, đĩa flash phải đựoc kết nối với máy tính
bằng cách kết nối trực tiếp với cổng USB của máy tính hoặc thông qua USB hub
58 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kỹ thuật máy tính - Phần I: Giới thiệu linh kiện và thiết bị máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu và nó cho phép truy xuất bất kỳ ô nhớ nào (chú ý là một cách ngẫu nhiên chứ không phải là
tuần tự). Nguợc lại, các thiết bị nhớ khác (như băng từ, đĩa từ) có thể truy xuất dữ liệu với bộ lưu
trữ cỡ vừa và chỉ duy nhất bằng lệnh chỉ định bởi sự khác biệt trong thiết kế cơ cấu của chúng
Nhìn chung, RAM trong máy tính được xem như là bộ nhớ chính(hay là bộ nhớ nguyên thủy):
vùng hoạt động được dùng cho nhập, xuất, và những ứng dụng, dữ liệu thủ công. Các loại RAM
này thường sử dụng trong các vi mạch (IC). Chúng gọi chung là thanh nhớ, hay là thanh RAM bởi
vì chúng đựoc sản xuất hàng loạt như là bảng mạch nhỏ với một gói làm bằng chất las-tic và một
vài thanh gôm. Hầu hết những máy tính cá nhân có những cái khe để gắn vào thêm hay tháo những
linh kiện nhớ ra.
Hầu hết các loại RAM đều có khả năng đọc và ghi. ”RAM” được dùng để trao đổi dữ liệu vói
“bộ nhớ đọc ghi”. Ở đây RAM ngược lại so với bộ nhớ truy xuất tuần tự.
1. MÔ TẢ CHUNG
Máy tính sử dụng RAM để lưu trữ những đoạn mã chương trình và dữ liệu trong suốt quá trình
hoạt động. Định nghĩa các từ RAM có nghĩa là với bất kỳ ô nhớ nào trong RAM thì thời gian truy
xuất đến các ô nhớ khác nhau là như nhau. Hầu hết những thiết bị khác phụ thuộc vào thời gian
truy xuất đến từng byte hay bit.
2. LỊCH SỬ
Hệ thống nhớ đầu tiên xây đựng bằng đèn chân không (vacuum tubes) trông khá giống mô hình
của RAM ngoại trừ việc chúng thường xuyên bị lỗi. Bộ nhớ trung tâm dùng dây kèm với lỗ điện từ
ferit trung tâm (ferrite electromagnetic), cũng có thời gian truy xuất tương đương. Từ “trung tâm”
(core) vẫn còn được dùng bởi vài người lập trình để miêu tả bộ nhớ RAM chính cho máy tính.
Ngày nay khái niệm sơ khai về bộ nhớ ống và trung tâm vẫn còn dùng trong mô hình RAM được
hiện thực với vi mạch tích hợp.
3. THÔNG TIN VỀ RAM
Thời gian truy xuất bộ nhớ của các linh kiện nhớ nguyên thủy trước đây thường bao gồm 1 độ
trễ bất định. Có nhiều loại khác nhau như: Delay line memory, hay Drum memory. Delay line
memory sử dụng tuần tự của xung nhịp sóng âm trong ống thủy ngân để giữ một chuỗi bit. Drum
memory họat động nhiều như ổ đĩa cứng hiện đại, lưu trữ dữ liệu từ trong những vòng tròn của đĩa.
(Hãy xem mục bộ nhớ nguyên thủy để bàn luận nhiều hơn trong những trường hợp giả định và
trong những trường hợp khác. )
Nhiều loại RAM là bay hơi nghĩa là không giống một số dạng lưu trữ khác của máy tính chẳng
hạn như đĩa và băng, RAM bay hơi sẽ mất hết dữ liệu khi máy tính tắt nguồn. RAM ngày nay lưu
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
trữ 1 bit dữ liệu bằng cách nạp điện áp vào tụ điện như RAM động (DRAM ), hay là sử dụng Flip-
Flop để lưu trữ như là RAM tĩnh (SRAM). Chúng ta cần phân biệt SRAM (Static Ram) và SDRAM
(Single Dynamic Ram).
Gần đây, những thiết bị RAM không bay hơi đang được phát triển, chúng sẽ lưu trữ dư liệu
ngay cả khi mất nguồn cung cấp. Công nghệ sử dụng bao gồm các sợi cacbon nhỏ và hiệu ứng từ.
Vào mùa hè năm 2003, RAM từ với dung lượng là 128 Kb bắt đầu xuất hiện trên thị trường, mà
sản xuất với công nghệ 0. 18 µm. Công nghệ trung tâm MRAM sẽ đặt nền tảng cho việc sản xuất
RAM từ. Vào tháng 6 năm 2004, Infineon Technologies đã khánh thành 1 loại RAM đầu tiên với
dung lựong là 16 Mb cũng bằng công nghệ 0. 18 µm.
Bằng các sợi cacbon nhỏ, công nghệ cao Nantero đã xây dựng nên 1 thanh RAM với dung
lượng 10 GB vào năm 2004.
Phần mềm “phân chia” một cổng RAM của máy tính, cho phép nó họat động nhanh như một
đĩa cứng tốc độ cao, nó được coi như là một RAM disk. Trừ khi RAM disk được sử dụng là không
bay hơi, nếu không thì một RAM disk sẽ không lưu dữ liệu nếu như máy tính bị tắt.
4. Môđun của các RAM thông dụng
Common RAM packages as illustrated to the right, from top to bottom:
1. DIP 16 chân (vi mạch RAM, thường là pre-FPRAM)
2. SIPP (thường là FPRAM)
3. SIMM 30 chân (thường là FPRAM)
4. SIMM 72 chân (so-called "PS/2 SIMM", thường là EDO RAM)
5. DIMM 168 chân (SDRAM)
6. DIMM 184 chân (DDR SDRAM)
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
OÅ ÑÓA CÖÙNG (Hard disk )
Bên trong một ổ cứng sau khi mở nắp và tháo bỏ các tấm đĩa dữ liệu
Ổ cứng, hay còn gọi là ổ đĩa cứng, là thiết bị điện tử dùng để lưu giữ thông tin dưới dạng nhị
phân trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật liệu từ tính. Ban đầu, ổ cứng được thiết kế để hoạt
động trong máy tính điện tử. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, ổ cứng ngày có kích
thước càng nhỏ và dung lượng càng lớn. Ngày nay ổ cứng còn được sử dụng trong các thiết bị điện
tử khác như máy nghe nhạc kĩ thuật số, máy ảnh kĩ thuật số, máy quay phim kĩ thuật số, đầu máy
DVD, v.v.
1. CÁC ĐẶC TÍNH THƯỜNG ĐƯỢC QUAN TÂM
Dung lượng (đơn vị gigabyte - GB)
Tốc độ truy xuất trung bình (đơn vị mili giây - ms)
Tốc độ truy xuất trung bình thấp đồng nghĩa với khả năng đáp ứng yêu cầu đọc ghi dữ liệu cao.
Độ lớn của bộ nhớ đệm (đơn vị megabyte - MB)
Độ lớn của bộ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất hoạt động của ổ cứng.
Số vòng quay một phút (đơn vị vòng/phút - rpm)
Tốc độ quay của tấm đĩa dữ liệu và mô tơ.
Kích thước (đơn vị inch - ")
Hầu hết các ổ đĩa cứng ngày nay có kích thước 3,5" đối với máy để bàn và 2,5" đối với máy
xách tay. Các ổ đĩa 2,5" thường chậm hơn và có dung lượng thấp hơn đồng thời tiêu thụ ít điện
năng hơn và an toàn hơn khi di chuyển. Một kích thước nữa đang ngày càng trở nên phổ biến là các
ổ 1,8" dùng trong các máy nghe nhạc kĩ thuật số MP3. Loại ổ này có mức tiêu thụ điện năng rất
thấp cũng như độ kháng chấn cao.
Độ tin cậy, hay thời gian trung bình giữa các sự cố hỏng hóc (Mean Time Between Failures -
MTBF)
Ổ đĩa SATA 1.0 hỗ trợ tốc độ lên tới 10.000 vòng/phút và mức MTBF lên tới 1 triệu giờ.
Những ổ đĩa kênh sợi quang (Fibre Channel - FC) hỗ trợ tới 15.000 vòng/phút và có giá trị MTBF
đến 1,4 triệu giờ.
Số lượng truy xuất I/O mỗi giây
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Ổ đĩa hiện đại có thể thực hiện khoảng 50 lần ngẫu nhiên hoặc 100 lần tuần tự.
Mức tiêu thụ điện
Chỉ số này đặc biệt quan trọng trong các máy tính xách tay chạy pin.
Độ ồn (đơn vị dBA)
Tốc độ truyền dữ liệu
• Vùng trung tâm: từ 44,2 MB/s đến 74,5 MB/s
• Vùng mép đĩa: từ 74,0 MB/s đến 111,4 MB/s
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Ổ cứng đầu tiên trên thế giới có là IBM 350 Disk File được chế tạo bởi Reynold Johnson ra mắt
năm 1955 cùng máy tính IBM 305. Ổ cứng này có tới 50 tấm đĩa kích thước 24" với tổng dung
lượng là 5 triệu kí tự. Một đầu từ được dùng để truy nhập tất cả các tấm đĩa khiến cho tốc độ truy
nhập trung bình khá thấp.
Thiết bị lưu trũ dữ liệu IBM 1301 ra mắt năm 1961 bắt đầu sử dụng mỗi đầu từ cho một mặt
đĩa.
Ổ đĩa đầu tiên có bộ phận lưu trữ tháo lắp được là ổ IBM 1311. Ổ này sử dụng đĩa IBM 1316 có
dung lượng 2 triệu kí tự.
Năm 1973, IBM giới thiệu hệ thống đĩa 3340 "Winchester", ổ đĩa đầu tiên sử dụng kĩ thuật lắp
ráp đóng hộp (sealed head/disk assembly - HDA). Kĩ sư trưởng dự án/chủ nhiệm dự án Kenneth
Haughton đặt tên theo súng trường Winchester 30-30 sau khi một thành viên trong nhóm gọi nó là
"30-30" vì các trục quay 30 MB của ổ cứng. Hầu hết các ổ đĩa hiện đại ngày nay đều sử dụng công
nghệ này, và cái tên "Winchester" trở nên phổ biến khi nói về ổ đĩa cứng và dần biến mất trong
thập niên 1990.
Trong một thời gian dài, ổ đĩa cứng có kích thước lớn và cồng kềnh, thích hợp với một môi
trường được bảo vệ của một trung tâm dữ liệu hoặc một văn phòng lớn hơn là trong môi trường
công nghiệp khắc nghiệt (vì sự mong manh), hay văn phòng nhỏ hoặc nhà riêng (vì kích cỡ quá khổ
và lượng điện năng tiêu thụ). Trước thập niên 1980, hầu hết ổ đĩa cứng có các tấm đĩa cỡ 8" (20
cm) hoặc 14-inch (35 cm), cần một giá thiết bị cũng như diện tích sàn đáng kể (tiêu biểu là các ổ
cứng lớn có đĩa tháo lắp được, thường được gọi là "máy giặt"), và trong nhiều trường hợp cần tới
điện cao áp hoặc thậm chí điện ba pha cho những mô tơ lớn chúng dùng. Vì lí do đó, các ổ đĩa cứng
không được dùng phổ biến trong máy vi tính đến tận năm 1980, khi Seagate Technology cho ra đời
ổ đĩa ST-506 - ổ đĩa 5¼" đầu tiên có dung lượng 5 megabyte. Có một thực tế là trong cấu hình xuất
xưởng, máy IBM PC (IBM 5150) không được trang bị ổ cứng.
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Một ổ đĩa cứng IBM cổ
Đa số các ổ đĩa cứng cho máy vi tính đầu thập kỉ 1980 không bán trực tiếp cho người dùng cuối
bởi nhà sản xuất mà bởi các OEM như một phần của thiết bị lớn hơn (như Corvus Disk System và
Apple ProFile). Chiếc IBM PC/XT được bán ra đã có một ổ cứng lắp trong nhưng xu hướng tự cài
đặt nâng cấp bắt đầu xuất hiện. Các công ty chế tạo ổ cứng bắt đầu tiếp thị với người dùng cuối bên
cạnh OEM và đến giữa thập niên 1990, ổ đĩa cứng bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng bán lẻ.
Ổ đĩa lắp trong ngày càng được sử dụng nhiều trong PC trong khi các ổ đĩa lắp ngoài tiếp tục
phổ biến trên máy Macintosh của Apple Computer và các nền tảng khác. Mỗi máy Mac sản xuất
giữa giữa các năm 1986 và 1998 đều có một cổng SCSI phía sau khiến cho việc lắp đặt thêm phần
cứng mới trở nên dễ dạng; tương tự như vậy, "toaster" (máy nướng bánh) Macs không có chỗ cho ổ
cứng (hay trong Mac Plus không có chỗ lắp ổ cứng), các đời tiếp theo cũng vậy thế nên ổ SCSI lắp
ngoài là có thể hiểu được. Các ổ đĩa SCSI lắp ngoài cũng phổ biến trong các máy vi tính cổ như
loạt Apple II và Commodore 64, và cũng được sử dụng rộng rãi trong máy chủ cho đến tận ngày
nay. Sự xuất hiện vào cuối thập niên 1990 của các chuẩn giao tiếp ngoài như USB và FireWire
khiến cho ổ cứng lắp ngoài trở nên phổ biến hơn trong người dùng thông thường đặc biệt đối với
những ai cần di chuyển một khối lượng lớn dữ liệu giữa hai địa điểm. Vì thế, phần lớn các ổ đĩa
cứng sản xuất ra đều có trở thành lõi của các vỏ lắp ngoài.
Dung lượng ổ cứng tăng trưởng theo hàm mũ với thời gian. Đối với những máy PC thế hệ đầu,
ổ đĩa dung lượng 20 megabyte được coi là lớn. Cuối thập niên 1990 đã có những ổ đĩa cứng với
dung lượng trên 1 gigabyte. Vào thời điểm đầu năm 2005, ổ đĩa cứng có dung lượng khiêm tốn nhất
cho máy tính để bàn còn được sản xuất có dung lượng lên tới 40 gigabyte còn ổ đĩa lắp trong có
dung lượng lớn nhất lên tới một nửa terabyte (500 gigabyte), và những ổ đĩa lắp ngoài đạt xấp xỉ
một terabyte. Cùng với lịch sử phát triển của PC, các họ ổ cứng lớn là MFM, RLL, ESDI, SCSI,
IDE và EIDE, và mới nhất là SATA. Ổ đĩa MFM đòi hỏi mạch điều khiển phải tương thích với
phần điện trên ổ cứng hay nói cách khác là ổ đĩa và mạch điều khiền phải tương thích. RLL (Run
Length Limited) là một phương pháp mã hóa bit trên các tấm đĩa giúp làm tăng mật độ bit. Phần lớn
các ổ đĩa RLL cần phải tương thích với bộ điều khiển nó làm việc với. ESDI là một giao diện được
phát triển bởi Maxtor làm tăng tốc trao đổi thông tin giữa PC và đĩa cứng. SCSI (tên cũ là SASI
dành cho Shugart (sic) Associates), viết tắt cho Small Computer System Interface, là đối thủ cạnh
tranh ban đầu của ESDI. Khi giá linh kiện điện tử giảm (do nhu cầu tăng lên) các chi tiết điện tử
trước kia đặt trên cạc điều khiển đã được đặt lên trên chính ổ cứng. Cải tiến này được gọi là ổ cứng
tích hợp linh kiện điện tử (Integrated Drive Electronics hay IDE). Các nhà sản xuất IDE mong
muốn tốc độ của IDE tiếp cận tới tốc độ của SCSI. Các ổ đĩa IDE chậm hơn do không có bộ nhớ
đệm lớn như các ổ đĩa SCSI và không có khả năng ghi trực tiếp lên RAM. Các công ty chế tạo IDE
đã cố gắng khắc phục khoảng cách tốc độ này bằng phương pháp đánh địa chỉ logic khối (Logical
Block Addressing - LBA). Các ổ đĩa này được gọi là EIDE. Cùng lúc với sự ra đời của EIDE, các
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
nhà sản xuất SCSI đã tiếp tục cải tiến tốc độ SCSI. Những cải tiến đó đồng thời khiến cho giá thành
của giao tiếp SCSI cao thêm. Để có thể vừa nâng cao hiệu suất của EIDE vừa không làm tăng chi
phí cho các linh kiện điện tử không có cách nào khác là phải thay giao diện kiểu "song song" bằng
kiểu "nối tiếp", và kết quả là sự ra đời của giao diện SATA. Tuy nhiên, hiệu suất làm việc của các ổ
đĩa cứng SATA thế hệ đầu và các ổ đĩa PATA không có sự khác biệt đáng kể.
3. NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG
Dữ liệu sẽ được lưu trên những đĩa từ, khi cần truy xuất dữ liệu thì mạch điều khiển sẽ điều
khiển cần đọc/ghi di chuyển trên bề mặt đĩa. Đầu đọc/ghi sẽ tiếp nhận những thông tin trên bề mặt
đĩa và truyền thông tin đến bộ xử lý nằm trên bản mạch của HDD.
4. CẤU TẠO
Ngoài 2 thành phần chính là những đĩa từ và đầu đọc/ghi, HDD còn có những thành phần sau:
mạch điều khiền, bộ nhớ đệm (cache), hệ cơ vận hành cần đọc/ghi, hộp bảo vệ.
• Mạch điều khiển: có nhiệm vụ ổn định tốc độ cho motor quay đĩa và vận hành hệ cơ để điều
khiển cần đọc/ghi (một thiết bị điều khiển đầu đọc/ghi). Nó như một cánh tay robot di
chuyển trên bề mặt đĩa để đưa đầu đọc/ghi vào vị trí cần ghi hay đọc dữ liệu.
• Đầu đọc/ghi: được gắn với cần đọc/ghi và chịu sự điều khiển của thiết bị này. Đầu đọc/ghi
có tác dụng đọc dữ liệu từ đĩa hoặc ghi dữ liệu lên đĩa.
• Đĩa: là những miếng đĩa nhỏ hình tròn được phủ một lớp từ tính, đĩa này có thể được sử
dụng hai mặt trên và dưới.
• Mạch xử lý dữ liệu: dùng để xử lý những thông tin được truy xuất từ đĩa.
• Bộ đệm: là nơi tạm lưu dữ liệu trong quá trình truy xuất, HDD có bộ nhớ đệm lớn sẽ có tốc
độ truy xuất dữ liệu cao hơn.
• Hộp bảo vệ: những thiết bị trên được bao bọc bởi hộp bảo vệ rất kín để đĩa không thể tiếp
xúc với mội trường bên ngoài và chịu được sự va chạm nhẹ.
5. GIAO TIẾP
Hai giắc cắm SATA trên bảng mạch chủ
Có nhiều chuẩn giao tiếp khác nhau giữa ổ đĩa cứng với hệ thống phần cứng. Sự đa dạng này
xuất phát từ yêu cầu tốc độ đọc/ghi dữ liệu khác nhau giữa các hệ thống máy tính. Các chuẩn ATA
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
được sử dụng phổ biến trong máy tính cá nhân trong khi chuẩn SCSI và Fibre Channel có tốc độ
cao hơn được sử chủ yếu nhiều trong máy chủ. Các chuẩn giao tiếp ổ cứng phổ biến gồm:
• ATA
• Ultra ATA
• Fibre Channel
• SCSI
• Ultra SCSI
• Ultra160 SCSI
• Ultra320 SCSI
• Serial ATA
OÅ ÑÓA MEÀM (Floppy disk )
Có 2 loại ổ dĩa mềm : loại 5.25 inch (1.2 Mb) và 3.5 inch (1.44 Mb). Là thiết bị dùng để lưu trữ
(đọc ghi) dữ liệu với dung lượng nhỏ. Hiện nay chỉ còn phổ biến loại ổ dĩa 3.5 inch do thiết kế của
nó an toàn và nhỏ gọn, các dĩa mềm 1.44 Mb đã từ từ thay thế loại dĩa 1.2 Mb trong các máy tính
cá nhân.
Trong quá khứ với dung lượng của ổ đĩa mềm thực sự là hữu ích và rất tiện dụng. Chúng ta có
thể dùng đĩa mềm chạy hệ điều hành. Nó thực sự hữu dụng trong việc di chuyển dữ liệu vì chúng
có thể tháo rời ra một cách dễ dàng. Nhưng với thời điểm hiện tại nó thực sự là một thiết bị 'lỗi thời'
khi USB đang chiếm lĩnh toàn bộ thị trường với giá cả hợp lí và độ bền vượt trội. Trong khi đĩa
mềm trở thành một thứ không hợp thời vì độ bền, kinh tế cũng như công nghệ. Nhưng dù sao nó
cũng đã có một thời hoàng kim trong lịch sử máy tính.
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
OÅ ÑÓA CD ROM
(Compact Disk Read Only Memory)
Ổ dĩa CD-ROM là một bước đột phá mới trong việc lưu trữ dữ liệu. Ổ đĩa CD-ROM đã thay thế
ổ đĩa mềm và trở thành phương tiện lưu trữ thông dụng nhất ngày nay.
Có 2 loại ổ dĩa CD: Loại chỉ đọc và loại có chức năng vừa đọc vừa ghi. Mỗi kiểu ổ đĩa Cd-Rom
có tính năng khác nhau dựa vào loại IDE hoặc SCSI.
Những tốc độ thông dụng:
Data Transfer Speeds
Tốc độ Megabytes/s Megabits/s Mebibits/s
1x 0.15 1.2 1.1444
2x 0.3 2.4 2.2888
4x 0.6 4.8 4.5776
8x 1.2 9.6 9.1553
10x 1.5 12.0 11.4441
12x 1.8 14.4 13.7329
20x 3.0 24.0 22.8882
32x 4.8 38.4 36.6211
36x 5.4 43.2 41.1987
40x 6.0 48.0 45.7764
48x 7.2 57.6 54.9316
50x 7.5 60.0 57.2205
52x 7.8 62.4 59.5093
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
OÅ ÑÓA GAÉN NGOAØI
1. Ổ ĐĨA "ZIP"
Là thiết bị lưu trữ có thể di chuyển được với mức lưu trữ trung bình, được giới thiệu bởi
Iomega vào năm 1994. Ban đầu nó lưu trữ được 100 MB, nhưng những phiên bản sau này được
tăng lên 250 MB rồi đến 750 MB
Nó được kết nối vào cổng COM hoặc LPT để đọc ghi dữ liệu.
2. Ổ ĐĨA USB
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
USB là sự tích hợp của thiết bị lưu trữ dữ liệu dùng bộ nhớ flash với giao tiếp USB. Chúng nhỏ
, nhẹ, di chuyển được và ghi chép được. Dung lượng bộ nhớ thường là 8 MB đến 64 GB. Khi dung
lượng bộ nhớ tăng lên, giá cả cũng tăng theo, như năm 2006 nhiều sản phẩm với dung lượng 1 đến
4 GB với giá không mắc hơn nhiều so với sản phẩm dung lượng 128 MB vào năm 2002.
Có những phiên bản dùng côg nghệ Firewire, nhưng khi chuẩn IEEE1394 không còn phổ biến
bằng USB, nó cũng ít được sản xuất.
Đĩa USB có rất nhiều ưu điểm hơn so với các thiết bị lưu trữ cầm tay khác, đặc biết là đĩa A.
Nó nhanh hơn, lưu trữ nhiều hơn và uyễn chuyễn hơn ổ đĩa A.Loại đĩa này dùng chuẩn USB, được
hổ trợ bởi các hệ điều hành hiện đại như Linux, Mac OS X, và Window XP.
Đĩa flash bao gồm nhiều mạch điện tích hợp rất nhỏ được đống gói trong lớp vỏ nhựa hay kim
loại, làm cho đỉa đủ cứng để mang theo trong túi. Chỉ có đầu nối USB được đưa ra ngoài để giao
tiếp hay để kết nối với các thiết bị khác. Hầu hết đĩa flash sử dụng chuẩn USB loại A , nó cho phép
kết nối trực tiếp với các cổng của máy tính cá nhân
Hầu hết đĩa flash hoạt động chỉ khi cung cấp nguồn từ cổng USB của máy tính, và không cần
nguồn pin từ bên ngoài. Để truy cập dữ liệu trong đĩa flash, đĩa flash phải đựoc kết nối với máy tính
bằng cách kết nối trực tiếp với cổng USB của máy tính hoặc thông qua USB hub
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
1. USB connector
2. USB mass storage controller device
3. Test points
4. Flash memory chip
5. Crystal oscillator
6. LED
7. Write-protect switch
8. Space for second flash memory chip
Crrative MuVo - thiết bị USB có thể chơi nhạc số
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
CAÙC LOAÏI CARD
1. VIDEO CARD
Có nhiệm vụ chuyển đổi thông tin của hệ thống và hiển thị lên màn hình (Monitor) máy tính.
Ngày nay thường thấy có 2 loại bus hệ thống card là PCI và AGP.
Card PCI
Card AGP
GeForce 6600GT (NV43) GPU
Radeon 9800 Pro (R350) GPU
Graphics processing unit (GPU) là thiết bị lưới đồ họa của máy tính cá nhân, máy trạm. Nó hiệu
quả trong việc thao tác và hiển thị đồ họa máy tính, và cấu trúc song song làm cho chúng hiệu quả
hơn các kiểu CPU vói những giải thuật phức tạp. Với một số tác vụ nguyên thủy đồ họa để hiện
thực GPU làm cho chúng chạy nhanh hơn là vẽ trực tiếp lên màn hình thực thi bởi CPU. Phổ biến
2D. Nhưng vẫn hỗ trợ 3D nhưng có lẽ với thời điểm hiện tại phục vụ nhiều cho chơi game.
Các chức năng tính toán
GPU sử dụng transitor để tính toán với đồ họa 3D. Chúng thường sử dụng giải pháp lưới và ánh
xạ, theo hệ thống tọa độ theo chuẩn của máy tính. Hiện nay thì các nhà sản xuất phần cứng cũng
như các giải pháp phần mềm đang cải tiến giải thuật và công nghệ cũng như kỹ thuật làm cho tính
năng ngày càng mở rộng và phát triển. Trong tương lai chúng ta sẽ sử dụng với công nghệ 3D. Bởi
vì nó đang trở nên phổ biến và thân thiện người dùng hơn tất cả.
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
2. SOUND CARD
Có nhiệm vụ chuyển đổi tính hiệu âm thanh kỹ thuật số sang tín hiệu tương tự và xuất ra loa
hay ngược lại để thu tín hiệu âm thanh vào máy tính. Có 2 loại bus hệ thống cho card âm thanh là
PCI và ISA
Card âm thanh là một card mở rộng của máy tính, cho phép âm thanh vào ra dưới sự điều
khiển của chương tình máy tính. đặc trưng của card âm thanh là cung cấp âm thanh ở lớp đa
phương tiện như nhạc, video, gameMộ số máy tính card âm thanh được tích hợp, một số tách rời.
Bo mạch âm thanh (sound card) là thiết bị cho phép chuyển đổi tín hiệu số (digital) thành tín
hiệu tương tự (analog). Tín hiệu số cấu thành từ hàng lọat là các chuỗi ký tự nhị phân 0 hoặc 1, tín
hiệu tương tự là tín hiệu sóng điện từ có dạng hình sin khi nhìn trên biểu đồ hay màn hình máy đo
sóng. Sau khi tín hiệu số được chuyển thành tín hiệu tương tự, chúng sẽ đi qua bộ khuếch đại trong
loa hoặc cũng có thể là dàn ampli lớn rồi được truyền tới màng rung tại các loa và cuối cùng
chuyển hóa thành dạng sóng âm dưới những tần số thích hợp mà tai người có thể nghe (cảm nhận)
thấy được.
Hầu hết card âm thanh đều có đường kết nối đến tín hiệu âm thanh nào đó như đầu ghi băng
hoặc nguốn âm thanh nào khác. Card âm thanh có thể số hoá và lưu trữ âm thanh trên ổ cứng máy
tính hoặc chỉnh sửa lại. Nét đặc trưng khác là có đường kết nối microphone và thông qua đó có thể
dùng phần mềm để nhận dạng giọng nói.
3. SCSI CARD
Là loại card điều khiển giao tiếp thông tin giữa hệ thống và các thiết bị có giao diện thiết kế
theo chuẩn SCSI như ổ dĩa cứng SCSI, máy Scan SCSI, Ổ CD-ROM ...
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
THIEÁT BÒ NGOAÏI VI
1. MÀN HÌNH (Monitor)
Màn hình là thiết bị những tín hiệu hình ảnh, dữ liệu từ một máy vi tính (như một hình ảnh trên
một màn ảnh). Có rất nhiều loại màn hình, nhưng chúng thường tuân theo những chuẩn hiển thị. Vì
đây là một thiết bị ngoại vi quan trọng nên nó đã đã được chuẩn hóa từ rất lâu.
Những loại màn hình thông dụng hiện nay : CRT (Cathode ray tube), LCD (Liquid crystal
display), plasma.
Màn hình CRT Màn hình LCD
Màn hình Plasma
2. BÀN PHÍM (Keyboard)
Một bàn phím máy vi tính là một thiết bị ngoại vi dùng để nhập những kí tự (hay những chữ số)
để điều khiển các hoạt động của máy vi tính.
Một cách cơ bản, bàn phím dùng gồm có những nút nhấn, hay còn gọi là “keys”. Trong nhiều
trường hợp, việc nhấn vào một nút nhấn để có kí tự in ra màn hình cũng giống như việc ta viết
những kí tự vào giấy. Tuy nhiên, đôi khi việc cần chọn một kí tự đòi hỏi phải nhấn và giữ nhiều
nút, bởi vì mỗi nút nhấn có thể xuất ra nhiều kí tự nếu ta biết cách kết hợp chúng với nút “shift”.
Xem thêm tác vụ nhập phím.
Chỉ có 50% nút nhấn là chữ cái, chữ số và các kí hiệu khác. Những nút nhấn khác được dùng
riêng hoăc kết hợp lại với nhau để tạo nên những tín hiệu điều khiển.
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Thông thường, bàn phím có từ 101 đến 104 phím, đôi khi có những bàn phím có đến trên 130
phím nhằm phục vụ một tác vụ nào đó. Nhưng cũng có bàn phím chỉ có khoảng 90 phím, thường
thấy trên máy vi tính xách tay hoặc máy vi tính để bàn mà có kích thước nhỏ. Có nhiều chuẩn khác
nhau để kết nối bàn phím với máy vi tính. Những bo mạch chủ đời 80846 thường dùng chuẩn AT
(DIN-5), nhưng bây giờ đã được thay thế bằng chuẩn PS2 hoặc USB.
3. CHUỘT (Mouse)
Trong ngữ cảnh máy vi tính, một mouse chứa một pointing device cầm tay, được thiết kế nằm
gọn trong một bàn tay của người dùng để xác định sự di chuyển trên bề mặt hai chiều của mouse.
Thêm vào đó mouse còn có thể được gắn thêm những button hoặc thiết bị khác, điều này cho phép
người sử dụng thực hiện những thao tác khác nhau.
Sự di chuyển hai chiều của mouse được chuyển dịch sang sự di chuyển của một con trỏ trên
màn hình hiển thị. Có nhiều kỹ thuật để xác định sự di chuyển của mouse do vậy có nhiều loại
mouse trên thị trường, thông dụng là mouse “bi” (ball) và mouse quang.
Mouse Ball Mouse Quang
4. MÁY IN (Printer)
Máy in là thiết bị ngoại vi cho phép chuyển tài liệu được lưu trữ trong máy tính sang những vật
liệu vật lý như giấy
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
Phaàn II : CAØI ÑAËT PHAÀN MEÀM
XAÙC LAÄP BIOS
CAØI ÑAËT WINDOWS
CAØI MICROSOFT OFFICE
Khoa CNTT, boä moân Kyõ Thuaät Maùy Tính CLB phaàn cöùng
XAÙC LAÄP BIOS CHO MAÙY TÍNH
BIOS (Basic Input/Output System - hệ thống xuất nhập cơ bản) là các chức năng quản lý phần
cứng và các hoạt động cơ bản của máy tính. Các chương trình và dữ liệu trong BIOS được lưu trữ
trong ROM
Sau khi khởi động máy tính, tại màn hình đầu tiên khi xuất hiện dòng thông báo Press DEL
to enter SETUP. Ta nhấn và giữ phím Del để vào trang xác lập BIOS. Khi đó màn hình Setup
được thể hiện gồm các menu kéo xuống, để lựa chọn các mục dùng các phím mũi tên di chuyển đến
mục đó và nhấn phím Enter.
YÙ NGHÓA CAÙC MUÏC TRONG CMOS
1. STANDARD CMOS SETUP:
Đây là phần khai báo các thông số cơ bản của hệ thống. Đối với các máy 386 thì các thông số
này phải khai báo đúng thì hệ thống mới làm việc được. Nhưng từ đời 486 trở đi, nếu ta khai báo
sai hay giá trị trong Cmos không đúng thì ta có thể chọn LOAD DEFAULTS.
• Date, Time: khai báo ngày giờ hệ thống. Mục này không quan trọng, ta có thể vào Control
Panel của Windows để chỉnh lại.
• Floppy Disk: khai báo các ổ đĩa mềm đang sử dụng trên hệ thống.
• Hard Disk: khai báo thông số về ổ cứng, bao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ky_thuat_may_tinh_phan_i_gioi_thieu_linh_kien_va.pdf