BÀI 1 : ĐẠI CƯƠNG VỀ LOGIC HỌC . 4
BÀI 2 : NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY .11
BÀI 3 : NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY .18
BÀI 4 : ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN CHIA MỘT KHÁI NIỆM .24
BÀI 5 : PHÁN ĐOÁN .31
BÀI 6 : PHÁN ĐOÁN (TT) .39
BÀI 7 : ÔN .46
BÀI 8 : SUY LUẬN .53
BÀI 9 : SUY LUẬN (TT) .61
BÀI 10 : SUY LUẬN (TT) .66
BÀI 11 : NGỤY BIỆN .73
BÀI 12 : ÔN .80
75 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 531 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Logic (Bản mới), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính: Cho biết giữa chủ từ và thuộc từ là có hay không có tính
chất nào đó.
Ký hiệu: S: P (không khí thì nhẹ).
S ≠ P (Gỗ không hòa tan trong nước)
Phán đoán quan hệ: Cho biết mối quan hệ giữa chủ từ và thuộc từ là như thế
nào (so sánh).
Ký hiệu: r P
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Đà Lạt đẹp
Bằng
Đà Nẵng
Hơn
Thua
S ~ r P
Đà lạt không đẹp
Bằng
Đà Nẵng
Hơn
Thua
4.2. PHÁN ĐOÁN PHỨC HỢP
Là phán đoán được tạo thành từ các phán đoán đơn, bởi các từ nối như và,
hoặc, nếu... thì v.v... Phán đoán phức hợp lại được chia thành hai loại phán
đoán phức hợp cơ bản và phán đoán đa phức hợp.
4.2.1. Phán đoán phức hợp cơ bản
Đó là những phán đoán được tạo thành trực tiếp từ các phán đoán đơn, gồm
có:
Phán đoán liên kết: Do các phán đoán hợp thành bởi từ nối "và".
Ký hiệu: p ^ q
Ví dụ: Tôi đang trình bày bài giảng và các bạn đang ghi chép.
Phán đoán lựa chọn: Do các phán đoán đơn hợp thành bởi từ nối "hoặc".
Ký hiệu: p v q
Ví dụ: Một bà mẹ nói với con: "hoặc là con phải đi học, hoặc là con ăn đòn,
con muốn cái nào".
Phán đoán giả định: Do các phán đoán đơn hợp thành bởi từ nối "nếu
thì"
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Ký hiệu: p q
Ví dụ: Nếu ta nung kim loại, thì kim loại giãn nở.
(Xem: Sách đã dẫn, tr. 111).
4.2.2. Phán đoán đa phức hợp
Là những phán đoán được tạo thành từ các phán đoán phức hợp cơ bản. Để
tìm ra giá trị của các phán đoán đa phức hợp, trước tiên ta cần tìm ra giá trị của
các phán đoán đơn, kế đó tìm giá trị của các phán đoán phức hợp cơ bản, cuối
cùng tìm ra giá trị của phán đoán đa phức hợp. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 121).
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trả lời các câu hỏi: 26, 27, 30, 32, 33, 34. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 280 –
287).
2. Trả lời các câu trắc nghiệm: 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 59, 60, 61, 62,
63. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 370 – 375).
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
BÀI 6
PHÁN ĐOÁN (TT)
5. CHUYỂN HOÁN PHÁN ĐOÁN
5.1. ĐỊNH NGHĨA
Chuyển hoán phán đoán là đảo vị trí của chủ từ và thuộc từ trong một phán
đoán cho nhau, làm sao cho nội dung của phán đoán không thay đổi.
Ví dụ:
Logic học là khoa học về các qui luật và hình thức tư duy. (1a)
(Khoa học về các qui luật và các hình thức của tư duy là Logic học) (1b)
Người Na Uy không phải là người Thụy Điển. (2a)
(Người Thụy Điển không phải là người Na Uy) (2b)
Người Nhật là người châu Á. (3a)
(Một số người châu Á là người Nhật) (3b)
Một số sinh viên là công nhân. (4a)
(Một số công nhân là sinh viên) (4b)
Một số đoàn viên không phải là học sinh. (5a)
(Một số học sinh không phải là đoàn viên) (5b)
5.2. PHÂN LOẠI
Quan sát các ví dụ trên đây, ta thấy có những câu, sau khi chuyển hoán,
ngoại diên của chủ từ và thuộc từ không thay đổi. Ví dụ: câu 1b, 2b.
Nhưng cũng có những câu, sau khi chuyển hoán thì ngoại diên của chủ từ và
thuộc từ thay đổi. Chẳng hạn như các câu 3b, 4b, 5b. Do đó có hai loại chuyển
hoán là chuyển hoán hoàn toàn và chuyển hoán không hoàn toàn.
Chuyển hoán hoàn toàn: Gồm các phán đoán, sau khi chuyển hoán, ngoại
diên thuộc từ của phán đoán gốc (1a, 2a) được đưa xuống làm chủ từ của
phán đoán biến thể (1b, 2b) không có gì thay đổi.
Chuyển hoán không hoàn toàn: Gồm các phán đoán, sau khi chuyển hoán,
ngoại diên thuộc từ của phán đoán gốc (3a, 4a, 5a) được đưa xuống làm chủ
từ của phán đoán biến thể (3b, 4b, 5b) có thay đổi, từ lớn xuống nhỏ.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
5.3. QUI TẮC
Trong số những ví dụ vừa nêu, ta thấy phán đoán 1a và 3a là những phán đoán
khẳng định chung (viết tắt là phán đoán A). Nhưng phán đoán 1a vốn là một định
nghĩa nên vế thứ nhất (Logic học) và vế thứ hai (khoa học về các qui luật và hình thức
của tư duy) là hoàn toàn bằng nhau. Còn ở ví dụ 3a, vế thứ nhất (người Nhật) và vế
thứ hai (người châu Á) không bằng nhau. Người Nhật chỉ là một bộ phận của người
châu Á mà thôi. Vì vậy ví dụ 1a có thể chuyển hoán "hoàn toàn", nghĩa là nếu phán
đoán A mang tính chất định nghĩa thì chuyển thành phán đoán A. Còn phán đoán A
không mang tính chất định nghĩa (như câu 3a) mà chỉ là một phán đoán bình thường
thì phải chuyển thành I (khẳng định riêng) như ở ví dụ 3b.
Nếu phán đoán A mà mang tính chất đơn nhất (vợ tôi là người Huế) thì phải
chuyển thành A đơn nhất (một trong số những người Huế là vợ tôi).
Đối với phán đoán E (phủ định chung), ta chuyển hoán được thành một phán
đoán E khác, như ở ví dụ 2a và 2b.
Còn đối với phán đoán I (khẳng định riêng), 0 (phủ định riêng) thì:
Phán đoán I chuyển thành phán đoán I (Ví dụ 4a, 4b).
Phán đoán O chuyển thành phán đoán 0 (Ví dụ 5a, 5b).
Tóm lại: (Xem: Sách đã dẫn, tr. 127).
Chuyển hoán hoàn toàn
A (định nghĩa) A
A (đơn nhất) A
E E
Chuyển hoán không hoàn toàn
A (bình thường) I
I I
O O
6. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC PHÁN ĐOÁN (ĐƠN)
Ta hãy vẽ hình vuông và đặt 4 phán đoán đơn ở 4 góc (Xem: Sách đã dẫn, tr.
133)
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Hình vuông này được gọi là "hình vuông logic"
L
ệ thuộc
Đối chọi dưới
Đối chọi trên
Lệ
th
uộ
c
A
I O
E
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Với hình vuông ấy, ta có 4 mối quan hệ:
Quan hệ mâu thuẫn: giữa phán đoán A và O, E và I: Khi phán đoán này
đúng thì phán đoán kia sai. Ngược lại khi phán đoán này sai thì phán đoán
kia đúng.
Ví dụ: Khi A (Mọi kim loại đều dẫn điện) đúng, thì O (Một số kim loại
không dẫn điện) sai.
Quan hệ lệ thuộc: giữa phán đoán I và A, O và E: Khi phán đoán trên (A, E)
đúng thì phán đoán dưới (I, O) cũng đúng. Nhưng khi phán đoán trên mà sai
thì phán đoán dưới có thể đúng hoặc sai (tùy trường hợp cụ thể, cần phải
xem xét).
Ví dụ: Nếu phán đoán trên đúng (A: Mọi kim loại đều dẫn điện), thì phán
đoán dưới cũng đúng (I: các bộ phận của kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm v.v
dẫn điện).
Còn nếu phán đoán trên sai, thì phán đoán dưới có hai khả năng:
Trên sai dưới sai
E: Mọi kim loại không dẫn điện (S).
O: Một số kim loại không dẫn điện (S).
Trên sai dưới đúng:
E: Mọi tiểu thuyết đều không lành mạnh (S).
O: Một số tiểu thuyết không lành mạnh (Đ).
Quan hệ đối chọi (trên): giữa phán đoán A và E: Nếu phán đoán này đúng
thì phán đoán kia sai.
Ví dụ: A: Mọi người đều là sinh vật (Đ)
E: Mọi người không phải là sinh vật (S).
Nhưng khi phán đoán này sai thì phán đoán kia có hai khả năng:
Bên này sai bên kia đúng
A: Mọi người đều sống mãi (S).
E: Mọi người không sống mãi (Đ).
Bên này sai bên kia sai:
A: Mọi phim ảnh đều đồi trụy (S).
E: Mọi phim ảnh đều không đồi trụy (S).
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Quan hệ đối chọi (dưới): giữa phán đoán I và O: Nếu phán đoán này sai, thì
phán đoán kia đúng.
Ví dụ: I: Một số người thở bằng gan (S).
O: Các tộc người trên thế giới không thở bằng gan (Đ).
Nhưng nếu phán đoán này đúng thì phán đoán kia có hai khả năng:
Bên này đúng bên kia sai
I: Đồng, chì, thiếc... thì dẫn điện (Đ).
O: Đồng, chì, thiếc... không dẫn điện (S).
Bên này đúng bên kia đúng:
I: Một số bài ca thì hay (Đ).
O: Một số bài ca không hay (Đ).
7. NGOẠI DIÊN CỦA CHỦ TỪ VÀ THUỘC TỪ TRONG PHÁN ĐOÁN
Ngoại diên hay sức chứa của một khái niệm luôn luôn hoặc đầy đủ, hoặc
thiếu (không đầy đủ).
Trong một phán đoán, mỗi khái niệm hoặc đóng vai trò chủ từ, hoặc đóng
vai trò thuộc từ. Bây giờ ta xem xét, chủ từ và thuộc từ trong các phán đoán, khi
nào thì đầy đủ (ta ký hiệu bằng dấu +) và khi nào thì thiếu (ta ký hiệu bằng dấu -
). Cần lưu ý, dấu + và dấu – ở đây không có nghĩa là có hay không, khẳng định
hay phủ định mà có nghĩa là đầy đủ hay thiếu. Sau đây ta xét 4 phán đoán A, I,
E, O.
Ví dụ: A: Tất cả cá đều sống ở trong nước. Chữ "tất cả" đi trước khái niệm
cá cho biết ngoại diên của chủ từ là đầy đủ. Còn ngoại diên của thuộc từ "sống
trong nước" thì không đầy đủ vì rằng loài sống trong nước, ngoài cá ra còn có
những thứ khác nữa như nghêu, sò, ốc, hến, tôm, cua v.v... chứ không phải chỉ có
cá.
I: Một số cá sống dưới nước. Chữ "một số" đi trước khái niệm cá cho biết
ngoại diên của chủ từ không đầy đủ. Còn ngoại diên của thuộc từ thì vẫn
thiếu, vì nếu cả loài cá chưa chiếm hết ngoại diên của khái niệm "sống trong
nước" thì một số cá lại càng không thể trám hết ngoại diên của khái niệm "sống
trong nước".
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
E: Tất cả cá không sống trên cạn (tức bên ngoài môi trường nước). Chữ "Tất
cả" đi trước khái niệm cá cho biết ngoại diên của chủ từ là đầy đủ. Còn ngoại
diên của thuộc từ "sống trên cạn cũng đầy đủ vì không có con nào sống trên
cạn là cá cả.
O: Một số cá không sống trên cạn. Chữ "Một số" đi trước khái niệm cá cho
biết ngoại diên của chủ từ không đầy đủ. Còn ngoại diên của thuộc từ (tức khái
niệm "sống trên cạn") thì vẫn đầy đủ vì nếu không có con nào sống trên cạn là
loài cá, thì cũng không có con nào sống trên cạn là "một số cá" đó.
Tóm lại, để biết chủ từ có ngoại diên đầy đủ hay không đầy đủ, việc này
khá dễ dàng. Nếu đi trước chủ từ là các từ như mọi, tất cả, hết thảy, toàn thể
v.v... thì chủ từ có ngoại diên đầy đủ. Nhưng nếu đi trước chủ từ là các từ như
một số, đa số, nhiều, phần đông v.v... thì chủ từ không có ngoại diên đầy đủ.
Còn đối với thuộc từ thì các phán đoán khẳng định (A và I) nói chung có
thuộc từ không đầy đủ và các phán đoán phủ định thì có thuộc từ đầy đủ. (Xem:
Sách đã dẫn, tr. 129)
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Tên
phán đoán Chủ từ Thuộc từ
A + - +
I - - +
E + +
O - +
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trả lời các câu hỏi: 28, 29, 31. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 280 – 281).
2. Trả lời các câu trắc nghiệm: 58, 64, 65, 66, 67. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 373
– 376).
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
BÀI 7
ÔN
Hôm nay chúng ta ôn lại sáu bài vừa nghiên cứu xong.
Bài thứ nhất
ĐẠI CƯƠNG VỀ LOGIC HỌC
Đây là bài tìm hiểu về Logic học một cách đại cương: Logic học là gì? Đối
tượng của Logic học nằm ở đâu trong quá trình nhận thức của con người? Logic
học đã ra đời và phát triển qua thời gian như thế nào? Nghiên cứu Logic học có
ích lợi gì?
1. Trước hết ta cần nhớ định nghĩa: Logic học là khoa học các quy luật và hình
thức của tư duy (đúng, chính xác).
2. Về phân loại, không phải chỉ có một cách phân loại duy nhất là Logic hình
thức và Logic biện chứng mà còn một cách phân loại nữa cũng rất phổ biến.
Đó là Logic hình thức và Logic ứng dụng.
3. Ngoài ra, chúng ta cần hiểu tại sao Logic học (với tư cách là khoa học về các
quy luật và hình thức của tư duy) thì không có tính giai cấp và chữ "hình
thức" trong Logic học khác với chữ hình thức theo nghĩa thông thường như
thế nào?
4. Về vị trí của các quy luật và hình thức của tư duy trong quá trình nhận thức,
ta thấy xuất hiện ở giai đoạn thứ hai, tức giai đoạn nhận thức lý tính (hay tư
duy trừu tượng). Tuy nhiên không nên tách rời hẳn hai giai đoạn này ra khỏi
nhau, tách nhận thức lý tính ra khỏi nhận thức cảm tính vì hai giai đoạn này
có mối quan hệ qua lại (biện chứng) với nhau.
5. Trong quá trình phát triển của Logic học, ta cần nhớ những cột mốc lớn,
bước ngoặc lớn. Những cột mốc lớn của Logic hình thức là Aristote, Bacon,
Leibniz... còn những cột mốc lớn của Logic biện chứng là Hegel, Marx,
Engels...
6. Về công dụng, Logic học có công dụng rất phổ biến trong đời thường cũng
như trong mọi lĩnh vực khoa học. Không ai trong cuộc sống hằng ngày,
muốn diễn đạt một điều gì đó mà không cần mạch lạc và hợp lý. Không có
khoa học nào mà lại không có một đối tượng rõ ràng và một phương pháp
thích hợp để đạt được đối tượng của mình. Nhưng nói đến phương pháp là
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
nói đến vấn đề phương pháp luận, mà phương pháp luận lại là một bộ phận
của Logic học ứng dụng như ta đã biết. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 11-34).
Bài thứ hai
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY
1. Những qui luật cơ bản của tư duy là những quy luật làm cơ sở cho mọi nhận
thức và suy luận của con người. Không có những quy luật này, ta không thể
nhận thức và suy luận được gì cả.
Ví dụ: A = B
B = C
Vậy: A = C
Qua ví dụ hết sức đơn giản này, sở dĩ tôi suy luận được A = C và các bạn
nhận thức được A = C là do cả người suy luận lẫn người nhận thức đã dùng đến
một qui luật của tư duy là qui luật đồng nhất. Không có qui luật này chúng ta
không thể nào đi đến kết luận A = C được.
2. Theo cách phân loại của Leibniz, có hai qui luật chính của tư duy là qui luật
đồng nhất và qui luật lý do đầy đủ. Từ hai qui luật này, phát sinh những qui
luật khác.
Chẳng hạn, trước hết là luật đồng nhất. Luật đồng nhất phản ảnh tình hình
tương đối ổn định của các sự vật vật chất. Nhờ tính ổn định này của các sự vật
mà ta xác định được bây giờ ở đây đang có cái đèn, cái bàn, cây bút, v.v...
Từ luật đồng nhất sẽ phát sinh ra luật mâu thuẫn, nếu cùng một lúc ta vừa
khẳng định rằng có cây bút, lại vừa phủ định rằng không có cây bút; như vậy là
mâu thuẫn. Do lẽ đó mà Leibniz mới nói rằng luật mâu thuẫn là trường hợp
phủ định của luật đồng nhất.
Thế rồi từ luật mâu thuẫn lại phát sinh ra luật triệt tam. Phân tích trường hợp
mâu thuẫn trên đây, ta thấy nếu bây giờ trên tay bạn có cây bút là đúng thì ai đó
nói không có là sai, chứ không có trường hợp thứ ba: vừa đúng lại vừa sai. Vì lẽ
đó Leibniz bảo rằng qui luật triệt tam là trường hợp phân tích của qui luật mâu
thuẫn.
Còn đối với luật lý do đầy đủ, rõ ràng ta thấy "mọi vật tồn tại đều có lý do
để tồn tại". Ví dụ: đây là cây bút. Hẳn nhiên cây bút này không phải tự nhiên mà
có.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Nếu ta hỏi cây bút này do đâu mà có (ai làm ra, làm với chất liệu gì...) thì
lập tức phát sinh Luật nhân quả. Còn hỏi cây bút này để làm gì thì sẽ phát sinh ra
luật hướng đích.
3. Việc phân loại các qui luật cơ bản của tư duy hầu như không có sự khác biệt
nhiều giữa các nhà logic học, nhưng lại có sự khác biệt thật lớn lao giữa các
nhà logic duy tâm và duy vật khi nói về nguồn gốc của các qui luật cơ bản
của tư duy. (Xem: Sách đã dẫn, tr. 35 - 54).
Bài thứ ba
NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY
KHÁI NIỆM
Có 3 hình thức cơ bản của tư duy là khái niệm, phán đoán và suy luận. Khái
niệm là hình thức đầu tiên. Nhờ hình thức tư duy này mà ta phản ảnh được
những thuộc tính chung, chủ yếu và bản chất của các sự vật, hiện tượng.
Để diễn đạt các khái niệm phải có từ. Từ là phương tiện để chuyển tải khái
niệm từ trong đầu ta ra ngoài, Bởi vậy giữa từ và khái niệm có một mối quan
hệ hết sức mật thiết. Nhưng mối quan hệ này cũng vô cùng phức tạp vì có
khi một từ chuyển tải nhiều khái niệm, ngược lại có khi một khái niệm được
chuyển tải bởi nhiều từ.
Bất cứ khái niệm nào cũng có hai phần: nội hàm và ngoại diên. Nội hàm chỉ
toàn thể những thuộc tính bản chất có trong khái niệm đó. Còn ngoại diên
chỉ tất cả những cá thể nào có chứa những thuộc tính vừa nói.
Quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên là quan hệ theo tỷ lệ nghịch. Giữa các
khái niệm với nhau, có tất cả 6 mối quan hệ:
Quan hệ đồng nhất
Quan hệ lệ thuộc
Quan hệ ngang hàng
Quan hệ giao nhau
Quan hệ đối chọi
Quan hệ mâu thuẫn
Định nghĩa và phân chia khái niệm. Để tìm hiểu bất cứ khái niệm nào, ta có
hai cách. Cách thứ nhất, tìm hiểu về mặt nội hàm tức định nghĩa khái niệm.
Cách thứ hai, tìm hiểu về mặt ngoại diên tức phân chia khái niệm.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Định nghĩa khái niệm: Muốn định nghĩa một khái niệm, ta cần phải tuân
theo các qui tắc sau:
Ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa (A) và ngoại diên của phần
dùng để định nghĩa (B) phải bằng nhau.
Phần B (tức phần được dùng để định nghĩa) đọc lên phải hiểu được, vì
phần B nhằm giúp làm sáng tỏ phần A. Nếu B không rõ thì A cũng
không rõ.
Định nghĩa phải đầy đủ, tức là nêu lên hết những thuộc tính bản chất
của khái niệm đó.
Định nghĩa không được phủ định. A là B, chứ không được nói A
không phải là B, vì phủ định thì không cho biết một thuộc tính nào rõ
ràng cả.
Định nghĩa phải ngắn gọn
Phân chia khái niệm: Muốn phân chia một khái niệm, ta cần phải tuân
theo những qui tắc sau đây:
Sự phân chia phải cân đối. Ngoại diên của các hạng cộng lại phải bằng
ngoại diên loại của nó.
Phải có cùng một cơ sở phân chia. Chẳng hạn nếu ta chọn "cạnh" làm
cơ sở để phân chia khái niệm tam giác, thì chỉ được dùng một cơ sở
duy nhất đó mà thôi.
Phải có các thành phần phân chia khác nhau, nghĩa là không trùng
lắp, lẫn lộn. Từ tam giác, ta chia ra tam giác thường, tam giác cân,
tam giác đều. Ba thành phần phân chia ấy là hoàn toàn khác nhau.
Phân chia phải liên tục, nghĩa là chuyển sang cấp thấp hơn và gần
nhất.
(Xem: Sách đã dẫn, tr. 55 - 93).
Bài thứ năm và sáu
PHÁN ĐOÁN
1. Phán đoán là một hình thức của tư duy nhờ đó ta nối liền được khái niệm lại
với nhau và cho biết giữa các khái niệm đó có hay là không có mối quan hệ
với nhau.
2. Vì vậy phán đoán nào cũng có 3 bộ phận:
Chủ từ là đối tượng ta đang nghĩ tới.
Thuộc từ là tính chất thuộc về chủ từ.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Hệ từ thì thiết lập quan hệ giữa chủ từ và thuộc từ, cho biết giữa hai bên có
quan hệ (quả đất thì tròn) hay không có quan hệ (quả đất không vuông).
Bất cứ phán đoán nào cũng phải nhờ một câu để chuyển tải từ trong đầu ta ra
ngoài thì người khác mới biết được. Do đó giữa câu và khái niệm có mối quan hệ
hết sức mật thiết. Nhưng mối quan hệ này cũng rất phức tạp, do 1 câu có thể
chuyển tải nhiều phán đoán khác nhau, hoặc 1 phán đoán được chuyển tại bởi
nhiều câu khác nhau.
3. Để phân loại phán đoán, ta có nhiều cách.
Nếu căn cứ vào việc một phán đoán được tạo thành bởi một câu hay nhiều
câu, ta sẽ có phán đoán đơn hay phán đoán phức hợp.
Đối với phán đoán đơn, ta lại có thể xét về chất hoặc lượng. Chất nằm ở hệ
từ, cho biết tính chất của phán đoán đó là khẳng định hay phủ định. Còn lượng
nằm ở chủ từ, cho biết ngoại diên của chủ từ có số lượng đầy đủ hay không đầy
đủ.
Tuy nhiên, bất kỳ phán đoán nào cũng bao hàm cả chất là lượng cho nên ta
có 4 phán đoán cơ bản sau đây:
Khẳng định chung (ký hiệu là A)
Khẳng định riêng (ký hiệu là I)
Phủ định chung (ký hiệu là E)
Phủ định riêng (ký hiệu là O)
Về mặt hình thái, phán đoán có 3 loại:
Phán đoán cái nhiên ( S: P hoặc S ≠ P)
Phán đoán minh nhiên ( S: P hoặc S ≠ P)
Phán đoán tất nhiên ( S: P hoặc S ≠ P)
Về tính chất của thuộc từ đối với chủ từ, có hai loại:
Phán đoán đặc tính (S: P hoặc S ≠ P)
Phán đoán quan hệ (S r P hoặc S ~ r P)
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Đối với phán đoán phức hợp (được tạo thành bởi nhiều phán đoán đơn), có
hai nhóm là phán đoán phức hợp cơ bản và phán đoán đa phức hợp.
Phán đoán phức hợp cơ bản gồm:
Phán đoán liên kết (p q)
Phán đoán lựa chọn (p q)
Phán đoán giả định (p q)
Còn phán đoán đa phức hợp thì gồm nhiều phán đoán phức hợp cơ bản tạo
thành.
4. Với phép chuyển hoán, từ phán đoán này ta có thể rút ra một phán đoán
khác, gọi là suy luận trực tiếp từ một tiền đề. Tất nhiên muốn chuyển hoán
cho đúng thì cần phải biết qui tắc.
5. Về quan hệ giữa các phán đoán, ta cần nhớ bảng tóm tắt trong hình vuông
logic để từ một phán đoán này, ta có thể rút ra một phán đoán khác, một
cách nhanh chóng.
6. Còn một vấn đề nữa chúng ta cần ghi nhớ để áp dụng trong bài suy luận
sắp tới. Đó là ngoại diên của chủ từ và thuộc từ, khi nào đầy đủ và khi nào
thì thiếu.
(Xem: Sách đã dẫn, tr. 95 - 146).
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
BÀI 8
SUY LUẬN
1. ĐỊNH NGHĨA
Suy luận là hình thức tư duy mà từ một hay nhiều phán đoán đã có, ta rút ra
được một phán đoán mới.
Phán đoán đã có gọi là tiền đề. Còn phán đoán mới gọi là kết luận. Kết luận
bao giờ cũng được rút ra từ tiền đề một cách tất yếu. Nghĩa là nếu ta đã thừa
nhận tiền đề thì nhất thiết phải nhận kết luận. Tuy nhiên, để có một suy luận
đúng thì luôn luôn phải hội đủ hai điều kiện sau đây:
Tiền đề phải có nội dung đúng.
Tiền đề phải được sắp xếp đúng qui tắc logic (các qui tắc ấy ra sao, ta sẽ tìm
hiểu sau).
(Xem: Sách đã dẫn, tr. 107)
2. PHÂN LOẠI
Có thể phân suy luận thành 3 loại chính:
Những suy luận thông thường gồm suy luận diễn dịch, suy luận qui nạp và
suy luận loại suy.
Chứng minh và bác bỏ.
Ngụy biện.
Sau đây ta sẽ nghiên cứu loại thứ nhất.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
3. NHỮNG LOẠI SUY LUẬN THÔNG THƯỜNG
3.1. SUY LUẬN DIỄN DỊCH
Định nghĩa: Suy luận diễn dịch là lối suy luận đi từ nguyên lý chung đến
những trường hợp riêng lẻ, cá biệt.
Ví dụ: Tất cả kim loại đều dẫn điện.
Chì là kim loại. Vậy chì dẫn điện.
(Xem: Sách đã dẫn, tr. 155)
Phân loại: Suy luận diễn dịch có hai thứ là diễn dịch trực tiếp và diễn dịch
gián tiếp.
Nếu kết luận được rút ra từ một tiền đề mà thôi, đó là suy luận diễn dịch
trực tiếp.
Ví dụ: Hiện nay có một số sinh viên là công nhân (Tiền đề)
Vậy hiện nay có một số công nhân là sinh viên (Kết luận)
Áp dụng "phép chuyển hoán phán đoán".
Bảo rằng mọi người đều thích hòa bình là sai (Tiền đề).
Vậy có một số người không thích hòa bình là đúng (Kết luận).
Áp dụng "mối quan hệ giữa các phán đoán trong hình vuông
logic".
Nếu kết luận được rút ra từ nhiều tiền đề, đó là suy luận diễn dịch gián
tiếp
Ví dụ:
Mọi sinh vật đều có tính di truyền Tiền đề Cá là sinh vật
Vậy cá cũng có tính di truyền Kết luận
Suy luận gián tiếp mà tiêu biểu nhất là tam đoạn luận, tức lối suy luận gồm có 3
đoạn (cũng gọi là 3 phán đoán hay 3 mệnh đề). Hai phán đoán đi trước là tiền đề.
Còn phán đoán thứ ba được rút ra từ hai tiền đề trên. Sau đây là một số tam đoạn luận
chính:
3.1.1. Tam đoạn luận không điều kiện
Chung
Riêng
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
QUA TRUYỀN HÌNH - TRUYỀN THANH – MẠNG INTERNET
In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm. Tái bản lần 2, ngày 1 tháng 12 năm 2006. Lưu
hành nội bộ.
Tam đoạn luận không điều kiện là tam đoạn luận mà đại tiền đề (tiền đề thứ
nhất) là một phán đoán không có điều kiện.
Ví dụ: Mọi kim loại đều dẫn nhiệt.
Nhôm là kim loại.
Vậy nhôm dẫn nhiệt.
Bất cứ tam đoạn luận không điều kiện nào cũng có cấu trúc như sau: Có 3
phán đoán (nên mới có tên là tam đoạn luận). Hai phán đoán trên gọi là tiền đề.
Phán đoán thứ ba gọi là kết luận.
Trong một tam đoạn luận, chủ từ (S) và thuộc từ (P) trong một phán đoán
được gọi là các hạn từ. Lý ra ta có 6 hạn từ. Nhưng 2 hạn từ ở kết luận không
được kể vì lặp lại 2 hạn từ đã có ở tiền đề. Như vậy với hai phán đoán ở tiền đề,
ta có 4 hạn từ. Tuy nhiên, bốn nhưng cuối cùng chỉ còn có ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_logic_ban_moi.pdf