2. TỔNG HỢP PHẨM VẬT TRUNG GIAN
Phần lớn các loại thuốc nhuộm hữu cơ đều được tổng hợp từ các hợp chất trung
gian. Những hợp chất trung gian thường là những hợp chất vòng thơm, chúng được tổng
hợp từ các nguyên liệu như: benzen, naphtalen, antraxen. Các nguyên liệu này chính là
sản phẩm quan trọng của công nghiệp chế biến than đá và công nghiệp dầu mỏ.
Từ những nguyên liệu ban đầu đó người ta có thể thu được hàng trăm phẩm vật
trung gian bằng các phản ứng hoá học cơ bản sau:
- Phản ứng thế nguyên tử hyđro trong nhân thơm: phản ứng sunfo hoá, phản ứng
nitro hoá, phản ứng nitrozo hoá và phản ứng halogen hoá;
- Phản ứng biến đổi nhóm thế ở nhân thơm nhằm đưa một số nhóm thế khác vào
nhân thơm mà bằng phương pháp trực tiếp không thể thực hiện.
- Phản ứng đóng vòng nhằm tạo ra các hợp chất đa nhân và các dẫn xuất đa vòng
hoặc các hợp chất dị vòng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 93 trang
93 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Lý thuyết màu sắc và nguyên tắc tổng hợp thuốc nhuộm (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
- Đường kính mắt đo. 
- Các điều kiện chiếu sáng. 
- Góc quan sát: 2o và 10o. 
- Miền quang phổ: 380 - 760 nm. 
- Khoảng rộng băng đo. 
- Miền đo. 
- Thời gian đo. 
- Thời gian sử dụng đèn chiếu. 
- Nhiệt độ môi trường làm việc. 
- Nhiệt độ môi trường bảo quản. 
- Kích thước. 
Sau khi đo mẫu, đầu đo chuyển tín hiệu vào phần mềm để xử lý kết quả đo. 
3.4.3. Phần mềm phối màu 
Chức năng quan trọng nhất của phần mềm là phối màu thuốc nhuộm và hiệu chỉnh 
đơn nhuộm gắn với các chỉ tiêu so sánh giữa mẫu chuẩn và mẫu phối bằng máy như thông 
qua giá trị ΔE chỉ số về sai lệch ánh màu (metamerism), khả năng hiệu chỉnh đơn nhuộm, 
giá cả. 
Có thể kết nối với các máy đo màu bất kỳ. 
Chương trình phần mềm phải giao diện với người sử dụng một cách tiện lợi, dễ hiểu 
và dễ thao tác.. 
a. Xây dựng cơ sở dữ liệu màu 
Để có thể phối màu bằng máy tính thì bước đầu tiên phải xây dựng cơ sở dữ liệu 
màu. Máy tính dựa trên cơ sở dữ liệu màu để tính toán đơn nhuộm. Do vậy quá trình xây 
dựng ngân hàng màu phải được tiến hành một cách cẩn thận, sau mỗi mẫu phải kiểm tra 
độ bền màu và độ lặp lại của mẫu nhuộm. 
 38 
b. Phương pháp đánh giá độ đều màu 
Các mẫu nhuộm sau khi sấy khô trong một khoảng thời gian nhất định phải được 
kiểm tra độ đều màu. Độ đều màu được đánh giá trên cơ sở đo giá trị ΔE giữa các điểm 
trên một mẫu màu. Mẫu đều màu khi giá trị ΔE 1 thì mẫu 
đó được coi là loang màu. Đối với những mẫu nhuộm loang thì phải tiến hành nhuộm lại 
cho đến khi giá trị ΔE đo đạt được theo quy định. 
Khi kiểm tra độ đều của mẫu nhuộm cần chú ý những điểm sau: 
• Chuẩn bị mẫu đo: Mẫu được gấp thành nhiều lớp và đảm bảo bề mặt phải phẳng. 
Tiến hành đo đạc lấy giá trị chuẩn tại ba điểm trên mẫu, các giá trị so sánh được so với giá 
trị chuẩn và ghi lại giá trị ΔE. 
• Các điều kiện đo màu được chọn cho quá trình đo như sau: 
- Loại ánh sáng chuẩn: cố định. 
- Góc đo hình học: cố định. 
- Góc quan sát chuẩn: cố định. 
Xin xem thêm mục 4, chương IV. 
Mẫu chuẩn Cơ sở dữ liệu 
Kết hợp 
Mẫu 
Đo màu 
Đường cong 
phản xạ và các 
giá trị L*, a*, b* 
Nhuộm thử 
Tỷ lệ thuốc nhuộm
lần 1 
Đơn hiệu chỉnh 
Nhuộm thử 
Đơn nhuộm 
So sánh 
So sánh 
ΔE < 1 
ΔE < 1 
ΔE > 1 
So sánh 
ΔE < 1 
ΔE < 1 
ΔE > 1 
Hình 1.10. Sơ đồ màu thuốc nhuộm. 
 39
c. Kiểm tra độ lặp lại 
Sau khi kiểm tra động đều màu của lần nhuộm thứ nhất, tiếp tục nhuộm mẫu lần thứ 
hai để kiểm tra độ lặp lại. Trong lần nhuộm thứ hai tiến hành kiểm tra lặp lại tại một số 
nồng độ thuốc nhuộm. Qui trình công nghệ của lần nhuộm thứ hai giống hệt như qui trình 
nhuộm mẫu lần thứ nhất. Sau đó tiến hành kiểm tra độ đều của mẫu nhuộm lần thứ hai. Độ 
lặp lại giữa hai lần nhuộm thoả mãn khi giá trị ΔE đo được nhỏ hơn 1. Nếu giá trị ΔE của 
một mẫu nào đó lớn hơn 1 thì phải tiến hành nhuộm lại lần thứ ba để so sánh với hai lần 
trước. Chuẩn bị mẫu đo và các điều kiện đo màu khi kiểm tra độ lặp lại được chọn giống 
như khi đánh giá độ đều màu. 
d. Tính toán tỷ lệ thuốc nhuộm cho màu phối 
Sau khi hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu màu, có thể sử dụng phần mềm để 
thiết lập các đơn công nghệ phối màu. 
Trong số các đơn nhuộm mà máy đưa ra với giá trị sai màu cho phép, cần lựa chọn 
dựa trên các tiêu chí phù hợp về giá trị chi phí, công thức nhuộm theo yêu cầu khách hàng 
v.v. 
Xin xem thêm mục b, 3.4.1, chương I. 
3.4.4. Các phương pháp đánh giá sự sai lệch màu 
Mắt người dễ nhận rõ trước tiên là sự sai khác về ánh màu, sau đó là cường độ màu 
và cuối cùng mới là độ sáng. Chính vì vậy mà các hệ thống tính toán màu sẽ đưa ra những 
sự sai lệch khác nhau để dẫn đến sự chấp nhận tùy theo yêu cầu cụ thể. 
Qui ước theo CIELAB: Thể hiện bởi hình hộp vuông; các giá trị ΔL, Δa, Δb có thể có 
những số liệu bị ra ngoài sự cảm nhận của mắt người nên khó có thể chấp nhận. 
Qui ước theo CIELCH: Thể hiện bởi hình hộp ép xung quanh điểm chuẩn; nó nằm 
trong hệ toạ độ cực nên hộp có thể quay trong định hướng theo góc ánh màu ΔH, các giá 
trị ΔC, ΔH, ΔL xích gần hơn tới sự chấp nhận của quan sát mắt người. Điều đó giảm bớt 
những bất đồng giữa người quan sát và máy đo được các giá trị chuẩn. 
ΔH (metamerism): = Hue 
ΔH > 0 qui định quay ngược chiều kim đồng hồ, có nghĩa là khi đó ánh màu dịch 
chuyển từ đỏ sang vàng đến lục, lam. 
ΔH < 0 qui định quay theo chiều kim đồng hồ, có nghĩa là khi đó ánh màu sẽ dịch 
chuyển từ đỏ sang lam đến lục, vàng. 
Qui ước theo CMC: Đây không phải là không gian màu nhưng nó là một hệ thống 
cho phép sự sai lệch màu dựa trên không gian màu CIELCH. Cơ sở của nó dựa vào sự 
thoả thuận cho phép tùy thuộc vào sự cần thiết để quan sát sai lệch màu. Trong đó có tính 
đến yếu tố thương mại C1, người ta qui định nếu C1 = 0,5 thì hình elip nhỏ, nếu C1 = 1 thì 
hình elip sẽ lớn hơn đảm bảo độ chính xác cao hơn, khi đó ΔE nhỏ hơn 1 sẽ chấp nhận độ 
sai lệch màu, nếu ΔE lớn hơn 1 sẽ không cho phép. 
CMC (2:1): Thể hiện sự sai khác về độ sáng gấp hai lần sự sai khác về cường độ 
màu, điều này cho phép đạt kết quả tốt nhất trong đánh giá so sánh màu giữa máy và mắt 
người. 
Qui ước theo CIE1994 giống như CMC, trong đó người sử dụng phải kiểm tra tỷ lệ 
giá trị độ sáng k1 và giá trị cường độ màu kc cùng các yếu tố thương mại cf như CMC; sự 
khác nhau cơ bản ở qui ước này chính là bề mặt đo. CMC thường sử dụng cho các sản 
 40 
phẩm có bề mặt thô ráp không đều, còn CIE1994 được sử dụng cho các bề mặt nhẵn đều và 
mịn như các sản phẩm in hoặc sơn phủ v.v. 
Kết luận 
• Mặt dù có nhiều qui ước về sự sai lệch màu nhưng không có một hệ thống nào 
hoàn hảo, sự chấp nhận tốt nhất khi hệ thống mô tả sự sai khác giống như mắt người cảm 
nhận được. Có thể so sánh các phương pháp đánh giá như trong bảng 1.4. 
Bảng 1.4 
Phương pháp đánh giá Tỷ lệ sai khác so với quan trắc, % 
CIELAB 75 
CIELCH 85 
CMC (2:1) 95 
CIE1994 95 
• Khi quyết định tính toán về sự sai khác màu cần phải xem xét các nguyên tắc sau: 
- Lựa chọn phương pháp phù hợp, đơn giản nhất trong việc tính toán và sử dụng 
chúng một cách cố định. 
- Luôn luôn xác định một cách chính xác việc tính toán đã được thực hiện như thế 
nào. 
Không bao giờ được sửa đổi giữa những sự sai khác màu đã được tính toán bằng 
những sai số tương ứng thông qua việc sử dụng các yếu tố trung bình. Sử dụng các sự sai 
khác màu chỉ khi sự xấp xỉ đầu tiên đã được thiết lập cho đến khi chúng được ấn định 
bằng sự điều chỉnh bằng thị giác. Phải luôn nhớ rằng không ai có thể chấp nhận hay phản 
đối màu sắc chỉ dựa vào các con số vì chúng chỉ là cách để nhận ra là nó đã được tính toán 
mà thôi. 
 41
Chương II 
TỔNG HỢP THUỐC NHUỘM 
l. PHÂN LOẠI THUỐC NHUỘM THEO CẤU TẠO HOÁ HỌC 
Trước đây thuốc nhuộm được phân loại theo nguồn gốc của chúng như: thuốc 
nhuộm vô cơ, thuốc nhuộm hữu cơ, thuốc nhuộm từ nguồn thực vật, thuốc nhuộm từ 
nguồn động vật v.v. 
Từ khi hoá học hữu cơ phát triển, các học thuyết về cấu tạo của các hợp chất hữu cơ 
ra đời và đặc biệt là các lý thuyết về màu sắc phát triển đã khẳng định sự liên quan giữa 
cấu tạo hợp chất với màu sắc thì sự phân loại thuốc nhuộm theo đặc trưng của các hệ 
mang màu trong phân tử thuốc nhuộm càng được thể hiện rõ nét. 
Sự phân loại này giúp cho các nhà sản xuất thuốc nhuộm dễ dàng định hướng 
phương pháp tổng hợp các loại thuốc nhuộm, mặt khác nó còn giúp cho những người sử 
dụng thuốc nhuộm nắm vững các tính chất hoá học của thuốc nhuộm. 
Phương pháp phân loại hoá học chia thuốc nhuộm hữu cơ thành các lớp thuốc 
nhuộm như sau. 
1.1. Thuốc nhuộm azo 
Trong phân tử loại thuốc nhuộm này có một hoặc nhiều nhóm azo (−N=N−). Dựa 
vào số nhóm azo có trong hệ mang màu của thuốc nhuộm mà người ta chia ra các nhóm 
thuốc nhuộm: 
− monoazo: Ar−N=N−Ar’; 
− điazo: Ar−N=N−Ar’−N=N−Ar”; 
− tri và polyazo: Ar−N=N−Ar’−N=N−Ar”−N=N−Ar”’−...; 
trong đó Ar, Ar’, Ar”... là những gốc hữu cơ nhân thơm có cấu tạo đa vòng, dị vòng rất 
khác nhau. 
Thuốc nhuộm azo là lớp thuốc nhuộm quan trọng nhất và có lịch sử phát triển rất lâu 
đời. Nó bao gồm hầu hết các loại thuốc nhuộm theo phân lớp kỹ thuật: thuốc nhuộm hoạt 
tính, thuốc nhuộm trực tiếp, thuốc nhuộm bazic, thuốc nhuộm cation, thuốc nhuộm axit, 
thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm cầm màu, thuốc nhuộm azo không tan và pigment. 
Thuốc nhuộm azo được sản xuất nhiều nhất, chiếm tới gần 50% tổng sản lượng thuốc 
nhuộm. 
1.2. Thuốc nhuộm antraquinon 
Trong phân tử loại thuốc nhuộm này có một hoặc nhiều nhân antraquinon hoặc các 
dẫn xuất của nó. 
Những dẫn xuất khác nhau ở các vị trí 1, 4, 5, 8 sẽ cho các loại thuốc nhuộm tương 
ứng như sau: 
- thuốc nhuộm amino antraquinon; 
- thuốc nhuộm hyđroxyl antraquinon; 
- thuốc nhuộm axylamino antraquinon; 
- thuốc nhuộm antrimit; 
 42 
- thuốc nhuộm antraquinon đa vòng. O
O
1
2
3
45
6
7
8 9
10
Thuốc nhuộm antraquinon chiếm vị trí thứ hai sau 
thuốc nhuộm azo. Nó bao gồm các loại thuốc nhuộm cầm 
màu, thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm cation, thuốc 
nhuộm axit, thuốc nhuộm hoạt tính, thuốc nhuộm trực tiếp 
và thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng. 
1.3. Thuốc nhuộm inđigoit 
Loại thuốc nhuộm này trước đây có nguồn gốc từ thực vật, đó là màu xanh sẫm trích 
được từ lá cây chàm. Khi hoá học thuốc nhuộm phát triển, dựa trên gốc thuốc nhuộm 
inđigo có trong lá chàm người ta đã tổng hợp được thuốc nhuộm inđigoit với nhiều màu 
sắc phong phú bằng cách đưa thêm các nhóm thế vào phân tử inđigo. Gốc mang màu của 
loại thuốc nhuộm này có công thức: 
X
C
C Y
C
C
O
O
trong đó X, Y là O, S, Se, NH,... 
1.4. Thuốc nhuộm arylmetan 
Chúng là những dẫn xuất của metan mà trong đó nguyên tử cacbon trung tâm sẽ 
tham gia vào mạch liên hợp của hệ mang màu: 
 Ar−C=Ar’ 
 R 
Nếu R là nguyên tử hyđro hoặc gốc hyđrocacbon mạch thẳng thì sẽ có thuốc nhuộm 
điarylmetan, nếu R là Ar” thì sẽ có thuốc nhuộm triarylmetan. 
Theo cấu tạo phân tử, thuốc nhuộm arylmetan được chia thành các phân nhóm sau: 
- thuốc nhuộm xanten: nếu giữa gốc thơm được nối với nhau bằng nguyên tử oxy ở 
các vị trí o, o’ đối với cacbon trung tâm 
Ar
O
CH
Ar'
Ar"
Ar
O
CH2
Ar' 
- thuốc nhuộm acryđin: nếu các gốc thơm nối với nhau qua cầu nối NH 
Ar
NH
CH
Ar'
Ar"
Ar
NH
CH2
Ar'
Phạm vi cấu tạo của họ thuốc nhuộm arylmetan rất rộng, ngoài những gốc chính, 
chúng còn tồn tại ở các dạng dẫn xuất như: điamino, triamino, hyđroxyl, đihyđroxyl. Nó 
bao gồm các loại thuốc nhuộm bazic, thuốc nhuộm axit và một số chất tăng nhạy quang học. 
 43
1.5. Thuốc nhuộm nitro 
Thuốc nhuộm nitro có cấu tạo đơn giản nhất và cũng có ý nghĩa không lớn. Phân tử 
thuốc nhuộm có từ hai hoặc nhiều nhân thơm (benzen, naphtalen), có ít nhất là một nhóm 
nitro (NO2) và một nhóm cho điện tử (NH2, OH). 
Thí dụ, 
NH NO2
NO2
Thuốc nhuộm loại này chỉ bao gồm một số thuốc nhuộm phân tán. 
1.6. Thuốc nhuộm nitrozo 
Trong phân tử của thuốc nhuộm này có nhóm nitrozo (NO), thuốc nhuộm β-naphtol-
nitrozo có khả năng tạo phức nội phân tử với sắt có màu xanh lục thường được sử dụng 
làm pigment. 
N O
O
O N
O
Fe
Na+
FeSO4
N O
OH
N OH
O
N
O O
Nếu tiến hành tạo phức với Cr3+ sẽ cho màu gạch, với Ni2+ và Zn2+ cho màu vàng. 
Nhìn chung lớp thuốc nhuộm này ít có ý nghĩa thực tế. 
1.7. Thuốc nhuộm polymetyn 
Chúng có công thức tổng quát là Ar−(CH=CH)n−CH=Ar’, trong đó Ar, Ar’ tương 
ứng phải có nhóm cho và nhóm nhận điện tử, chúng có thể là các vòng thơm như benzen, 
naphtalen hoặc các gốc dị vòng như quinolin, piriđin, inđol. Màu của thuốc nhuộm phụ 
thuộc chủ yếu vào hai nhóm cho và nhóm nhận điện tử trong hệ mang màu nhưng nhìn 
chung chúng đều có màu tươi, thuần sắc. Trong lớp thuốc nhuộm này phần lớn là các 
thuốc nhuộm bazic, thuốc nhuộm cation, có một số là thuốc nhuộm phân tán. 
1.8. Thuốc nhuộm lưu huỳnh 
Chúng là những thuốc nhuộm mà trong phân tử có nhiều nguyên tử lưu huỳnh. Gốc 
mang màu của thuốc nhuộm thường là các nhóm có cấu tạo như sau: 
N
S
H S
S
N
N N
S
S
HC
C
S
CH
N
H
 thiazin thiazol thiantren dibenzenthiophen azin 
Những gốc trên quyết định màu sắc của thuốc nhuộm và trong lớp thuốc nhuộm này 
không có màu đỏ và màu tím. 
 44 
1.9. Thuốc nhuộm arylamin 
Trong phân tử thuốc nhuộm arylamin có hệ mang màu là mạch nối các gốc thơm với 
nhau qua nguyên tử nitơ trung tâm Ar−N=Ar’, trong đó Ar là gốc thơm chứa nhóm cho 
điện tử, Ar’ là gốc thơm chứa nhóm nhận điện tử. Theo cấu tạo, lớp thuốc nhuộm này có 
thể chia thành các phân nhóm: điarylamin Ar −NH−Ar’: 
Ar
NH
Ar
NH
Ar
S
Ar'
NH
Ar
O
Ar'
NH
 osazin thiazin azin; ;
Lớp thuốc nhuộm này bao gồm các loại thuốc nhuộm trực tiếp thuốc nhuộm bazic, 
thuốc nhuộm lưu huỳnh, thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm hoàn nguyên, pigment, thuốc 
nhuộm lông thú, thuốc nhuộm in ảnh màu. 
1.10. Thuốc nhuộm azometyn 
Trong phân tử của chúng có chứa hệ mang màu là Ar−CH=N−Ar’. Lớp thuốc nhuộm 
này ít được sản xuất và chỉ được sử dụng để nhuộm xơ axetat, xơ sợi tổng hợp và in ảnh 
màu. 
1.11. Thuốc nhuộm hoàn nguyên đa vòng 
Trong phân tử của chúng có hệ mang màu là các hợp chất đa tụ giữa antraquinon 
(hoặc dẫn xuất) với các vòng dị thể khác, tạo nên các mạch đa vòng. Hợp chất đa tụ của 
lớp thuốc nhuộm này gồm các nhóm sau: 
O
N
O
O
2,3-antraquinonaxazol
O
O
O
N
1,2-antraquinonoxazol
O
O N
N
antraquinonpirazin
 O
N
N
O
O
O HN
NH O
O
indantronphlavantren
O
O O
O
O
NH CO Ar
axylaminoantraquinon benzantrenantantren
 45
1.12. Thuốc nhuộm phtaloxianin 
Chúng là lớp thuốc nhuộm tương đối mới; hệ thống mang màu trong phân tử của 
chúng là một hệ liên hợp khép kín. 
Thí dụ: 
N
N
N
N
N
H
N
NN
H
N
N
N
N
N
H
N
NN
H
tetrazaporphin
phtaloxianin
Đặc điểm chung của lớp thuốc nhuộm này là: những nguyên tử hyđro trong nhóm 
imin dễ dàng bị thay thế bởi các ion kim loại; còn các nguyên tử nitơ khác thì lại tham gia 
tạo phức với kim loại làm cho màu sắc của thuốc nhuộm thay đổi. Sự thay đổi này phụ 
thuộc vào bản chất của ion kim loại. Những thuốc nhuộm có gốc phtaloxianin có độ bền 
màu với ánh sáng rất cao. 
Lớp thuốc nhuộm này gồm các loại thuốc nhuộm pigment, thuốc nhuộm hoàn 
nguyên, thuốc nhuộm axit, thuốc nhuộm hoạt tính và một số azotol. 
2. TỔNG HỢP PHẨM VẬT TRUNG GIAN 
Phần lớn các loại thuốc nhuộm hữu cơ đều được tổng hợp từ các hợp chất trung 
gian. Những hợp chất trung gian thường là những hợp chất vòng thơm, chúng được tổng 
hợp từ các nguyên liệu như: benzen, naphtalen, antraxen. Các nguyên liệu này chính là 
sản phẩm quan trọng của công nghiệp chế biến than đá và công nghiệp dầu mỏ. 
Từ những nguyên liệu ban đầu đó người ta có thể thu được hàng trăm phẩm vật 
trung gian bằng các phản ứng hoá học cơ bản sau: 
- Phản ứng thế nguyên tử hyđro trong nhân thơm: phản ứng sunfo hoá, phản ứng 
nitro hoá, phản ứng nitrozo hoá và phản ứng halogen hoá; 
- Phản ứng biến đổi nhóm thế ở nhân thơm nhằm đưa một số nhóm thế khác vào 
nhân thơm mà bằng phương pháp trực tiếp không thể thực hiện. 
- Phản ứng đóng vòng nhằm tạo ra các hợp chất đa nhân và các dẫn xuất đa vòng 
hoặc các hợp chất dị vòng. 
2.1. Phản ứng thế vào nhân thơm 
Phản ứng này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đưa các nhóm thế như: nhóm sunfonic, 
nhóm nitro, nhóm nitrozo và nguyên tử halogen vào nhân thơm. Những hợp chất này có 
vai trò quyết định đến nhiều tính chất của thuốc nhuộm. 
Các nguyên liệu ban đầu của phản ứng thế là: benzen, naphtalen, antraquinon. 
Những hợp chất vòng thơm này đều là các hệ thống giàu các điện tử π linh động nên rất 
dễ tham gia các phản ứng thế electrophin, còn với các tác nhân nucleophin chúng chỉ tham 
gia phản ứng trong những điều kiện khắc nghiệt. 
 46 
2.1.1. Phản ứng thế electrophin (thế ái điện tử) 
Các tác nhân electrophin thường là các cation E+ hoặc các phân tử phân cực 
δ−δ+ − YX . 
Cơ chế của phản ứng thế electrophin phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sau đây là một số trường 
hợp cụ thể. 
a. Qui luật thế vào nhân benzen 
Benzen có cấu tạo sáu cạnh đồng phẳng, các electron π rải đều trên toàn bộ vòng 
thơm khiến cho phân tử benzen đặc biệt bền vững. Benzen có khuynh hướng tham gia các 
phản ứng thế mạnh hơn là phản ứng cộng hợp nhằm bảo toàn hệ thống liên hợp trong 
vòng. 
Cơ chế của phản ứng thế electrophin vào nhân benzen có thể biểu diễn như sau: 
H E
E
E
+ H
+
+
phức σ 
Trong đó phức σ là một cation không bền vì bốn điện tử π rải đều trên năm nguyên 
tử cacbon nên nó có xu thế tách proton để tạo lại hệ thống electron π của nhân thơm. 
Các tác nhân electrophin có thể là các cation như −NO2, −HSO3 ... hoặc có thể là 
phân tử phân cực như Cl−Cl, ClSO3H, RCOCl, RBr. 
Khi trong nhân benzen chưa có nhóm thế thì tác nhân electrophin có thể tấn công 
vào bất kỳ vị trí nào. Nhưng khi trong nhân đã có một nhóm thế thì sự tấn công sẽ có tính 
chọn lọc. Nếu trong nhân benzen đã có sẵn một nhóm thế loại I - là nhóm thế có khả năng 
làm tăng mật độ điện tử của nhân thơm - thì tác nhân electrophin sẽ tấn công vào vị trí 
octo và para so với nhóm thế đã có. Nhóm thế loại I gồm: −OH, −O, −OR, −OC6H5, 
−NH2, −NR2, −NHCOCH3, −CH3, −C(CH3)3, −C6H5, −Cl, −Br, −CH2Cl, −CH=CH−NO2. 
Nếu trong nhân đã có sẵn một nhóm thế loại II - là các nhóm thế có khả năng kéo 
điện tử ra khỏi nhân thơm - thì chúng sẽ gây khó khăn cho phản ứng thế electrophin và sẽ 
định hướng tác nhân electrophin vào vị trí meta so với nhóm thế cũ. Nhóm thế loại II 
gồm: −NO2, −NH3+, −+NR3, −CF3, −COOH, −COOR, −CONH2, −CN, −CHO, −COR, 
−SO3H, −SO2R. 
Qui luật thế vào nhân thơm nói chung dựa vào một số yếu tố sau: 
l- mật độ điện tử ở nguyên tử cacbon trong nhân thơm; 
2- sự bền vững của các phức trung gian; 
3- sự cản trở của không gian; 
4- hoạt độ của tác nhân thế. 
Dựa vào các yếu tố trên có thể giải thích sự định hướng của các nhóm thế là do 
chúng ảnh hưởng đến năng lượng hoạt hoá của các phản ứng dẫn tới tốc độ của chúng 
khác nhau và tạo ra các sản phẩm khác nhau ở các vị trí đã định hướng. Nhóm thế loại I có 
sẵn trong nhân benzen sẽ có tác dụng bù trừ phần điện tích dương ở phức σ khi có tác 
nhân electrophin tấn công vào nhân benzen. Ví dụ, phản ứng thế electrophin vào nhân 
anilin và nitrobenzen xảy ra như sau: 
 47
H E
NH2
H E
NH2
H
E
NH2
H
E
NH2
H
E
NH2
H
E
NH2
+
δ+
δ+ δ+
δ+ δ+
δ+
δ+ δ+
δ+
+ + 
NH2
δ+
δ+
δ −δ −
δ+
E+
 NO2
E+
Xét yếu tố thứ nhất về sự phân bố mật độ điện tử như trên nhận thấy: trong nhân 
anilin tại các vị trí octo và para có điện tích âm nên chắc chắn tác nhân electrophin E+ 
phải tấn công vào đó. Còn trong nhân nitrobenzen, điện tích dương ở các vị trí meta nhỏ 
hơn tại các vị trí octo và para nên tác nhân E+ tấn công vào vị trí meta. 
Xét yếu tố thứ hai: các nhóm thế có tác dụng bù trừ phần điện tích dương trong phức 
σ trung gian. Sự bù trừ này càng có hiệu quả khi nhóm thế loại I càng ở gần một trong các 
điện tích dương σ+. Như vậy trong trường hợp anilin (có nhóm thế loại I) thì tác nhân 
electrophin ở vị trí octo và para làm cho điện tích dương σ+ được bù trừ lớn hơn hẳn ở các 
vị trí meta. Ngược lại trong nitrobenzen (có nhóm thế loại II), nhóm thế càng làm tăng 
điện tích dương σ+ khi nó càng ở gần điện tích này và làm cho phức trung gian σ không 
tồn tại. Chỉ có ở các vị trí meta thì ảnh hưởng của nhóm thế tới σ+ mới giảm đi làm cho 
phức σ ổn định. 
Trong trường hợp ở nhân benzen đã có sẵn hai nhóm thế thì cả hai nhóm này đều có 
ảnh hưởng đến hoạt độ của nhân và sự định hướng nhóm thế tiếp theo sẽ tuân theo các qui 
luật sau: 
- nếu hai nhóm thế có cùng định hướng nhóm thứ ba thì phản ứng xảy ra dễ dàng, thí 
dụ: 
- nếu hai nhóm thế định hướng nhóm thứ ba vào các vị trí khác nhau thì vị trí của nó 
thường được quyết định bởi nhóm có ảnh hưởng mạnh hơn, thí dụ: 
HE
NO2
E
NO2
H
E
NO2δ+ δ+
Hδ+ δ+
δ+ δ+
δ+ δ+δ+δ+m 
δ+o 
δ+mδ+p 
δ+o
δ+m δ+o δ+< , p
+ H2SO4
NO2
Cl
NO2
Cl
SO3H
 48 
 NO2
CH3
NO2+
+
NO2
CH3
O2N
b. Qui luật thế vào nhân naphtalen 
Naphtalen có trong nhựa than đá với hàm lượng khoảng 5 - 6% và trước đây nó chỉ 
thu được từ nguồn này. Ngày nay, naphtalen được sản xuất nhiều hơn từ dầu mỏ. Cấu tạo 
của naphtalen gồm 10 nguyên tử cacbon phân bố thành hai vòng sáu cạnh cùng với 8 
nguyên tử hyđro. Phân tử naphtalen có cấu tạo đồng mặt phẳng và các electron π được 
phân bố một cách đối xứng. Như vậy, hai vòng sáu của naphtalen hoàn toàn có giá trị như 
nhau tạo nên một hệ thống thống nhất với 10 electron π. Để biểu diễn 
phân tử naphtalen người ta thường dùng hai vòng benzen giáp nhau. 
Tuy nhiên, sự phân bố các electron trong hệ thống naphtalen không 
được đều đặn như ở benzen. Các bậc liên kết trong phân từ naphtalen 
không như nhau. Người ta quy ước các vị trí 1, 4, 5, 8 là vị trí α, còn 
2, 3, 6, 7 là vị trí β. Nhìn chung, khả năng tham gia phản ứng của 
naphtalen mạnh hơn nhiều so với benzen; phản ứng vào các vị trí α mạnh hơn vào các vị 
trí β vì liên kết α−β hoạt động hơn nhiều so với các liên kết β−β. 
2
3
4
10
5
6
7
8 9 1
Khi trong nhân naphtalen chưa có nhóm thế thì phản ứng thế nguyên tử hyđro sẽ xảy 
ra ở các vị trí α nhiều hơn. Tuy nhiên, số đồng phân β của các dẫn xuất thế naphtalen 
thường tồn tại nhiều hơn vì đồng phân β có độ bền nhiệt động cao hơn đồng phân α. 
Thí dụ, sản phẩm thế một lần naphtalen bằng tác nhân sunfo hoá sẽ có hai đồng phân: 
SO3H
SO3H
160oC
40 - 60oC 
H2SO4
160oC 
H2SO4
Trong trường hợp thế lần hai thì nhóm thế tiếp theo có thể vào nhân thơm đã thế 
cũng như nhân chưa bị thế. Sự định hướng sẽ tuân theo một số qui tắc sau: 
- nếu trong nhân đã có nhóm thế loại I thì tác nhân electrophin sẽ định hướng vào vị 
trí octo hay para ở chính nhân đã có nhóm thế 
+ H2SO4
OH
SO3H
OH 
- nếu trong nhân đã có nhóm thế loại II thì tác nhân electrophin sẽ định hướng vào 
nhân chưa bị thế 
+ HNO3
SO3H
và 
SO3H
NO2
SO3HNO2
 49
- khi trong nhân naphtalen đã có hai nhóm thế thì vị trí thế tiếp theo được xác định 
bởi khả năng định hướng của các nhóm thế đó và các vị trí α còn tự do. 
c. Qui luật thế vào nhân antraquinon 
Antraquinon được điều chế thông công nghiệp bằng hai phương pháp: 
- phương pháp oxy hoá antraxen (antraxen được chế biến từ nhựa than đá): 
oxy hoá
HNO3 + H2CrO4
O
O
- phương pháp đi từ các nguyên liệu dầu mỏ: 
CO
O
CO
+
AlCl3 H2SO4
anhiđric phtalic benzen 
antraquinon
O
O
C
COOH
O
Antraquinon được sử dụng nhiều trong sản xuất các loại thuốc nhuộm. Cấu tạo của 
phân tử antraquinon được coi là hợp chất đa nhân ngưng tụ. Phân tử cấu tạo từ hai vòng 
benzen nối với nhau bởi hai nhóm xeton: 
Các vị trí 1, 4, 5, 8 được coi là vị trí α. 
Các vị trí 2, 3, 6, 7 là vị trí β. 
Khi tác nhân electrophin tấn công vào nhân antraquinon thì 
phản ứng xảy ra ở các vị trí α mạnh hơn vì tại các vị trí đó 
nguyên tử hyđro linh động hơn. Tuy nhiên, trong thực tế phản 
ứng thế electrophin vào nhân antraquinon lại theo một qui luật khác biệt: trong một số 
phản ứng (phản ứng sunfo hoá không có xúc tác) chỉ thu được sản phẩm đồng phân β do 
đồng phân này có độ bền nhiệt động cao hơn đồng phân α. Các phản ứng nitro hoá và 
halogen hoá cho sản phẩm là đồng phân α. 
5
6
7
8
O
O
2
3
4
1
Khi trong nhân antraquinon đã có một nhóm thế loại I thì phản ứng electrophin sẽ 
xảy ra ở các vị trí octo hoặc para so với nhóm thế cũ của chính vòng đó. Còn khi trong 
nhân antraquinon đã có một nhóm thế loại II thì vòng benzen thứ hai vẫn giữ nguyên khả 
năng tham gia phản ứng và tác nhân electrophin sẽ vào các vị trí α của vòng benzen đó, vì 
vậy sản phẩm thường có hai đồng phân. 
2.1.2. Phản ứng thế nucleophin (thế ái nhân) 
Như đã trình bày ở trên, các hợp chất vòng thơm giàu điện tử, khi chưa chứa các 
nhóm thế sẽ khó tham gia vào phản ứng thế nucleophin. Tuy nhiên, nhóm thế loại II có 
sẵn trong nhân thơm tức là làm cho nhân thơm tích điện dương tạo khả năng cho chúng 
tham gia phản ứng thế nucleophin: 
 NO2
+ KOH
NO2
OH 
 50 
Sự định hướng tác nhân nucleophin (Nu−) thường vào các vị trí octo và para được 
giải thích như sau: 
 NO2
δ+m
δ+o 
δ+m δ+p 
δ+o 
δ+m
δ+o
δ+mδ+p
δ+o
SO3H
trong đó > > , vì vậy tác nhân nucleophin sẽ vào vị trí có điện tích dương lớn 
nhất. 
+δo +δp +δm
Các tác nhân nucleophin gồm: −NH2, ArS, RO−, R2NH, ArO−, −OH, ArNH2, các 
anion halogen, H2O, ROH. 
Nhìn chung phản ứng thế nucleophin trong nhân thơm thay thế nguyên tử hyđro ít 
xảy ra. Trong thực tế, phản ứng thế nucleophin thay thế các nhóm thế khác thường gặp 
nhiều hơn và có nhiều ý nghĩa trong lĩnh tổng hợp phẩm vật trung gian. 
2.2. Phản ứng biến đổi nhóm thế 
Trong công nghiệp sản xuất phẩm vật trung gian, có một số hợp chất không thể điều 
chế bằng cách thay thế trực tiếp nguyên tử hyđro trong nhân thơm mà phải bằng phương 
pháp biến đổi nhóm thế - tức là thay những nhóm thế đã có sẵn trong nhân thơm bằng 
những nhóm thế khác mà ta mong muốn. Phản ứng biến đổi nhóm thế có thể thực hiện 
bằng một số phản ứng đặc trưng sau. 
2.2.1. Phản ứng thế nucleophin 
Chúng gồm các phản ứng tạo nhóm hyđroxyl bằng cá
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_trinh_ly_thuyet_mau_sac_va_nguyen_tac_tong_hop_thuoc_nh.pdf giao_trinh_ly_thuyet_mau_sac_va_nguyen_tac_tong_hop_thuoc_nh.pdf