MỤC LỤC
A. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 3
B. MỤC TIÊU 4
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO 4
D. CÁC HOẠT ĐỘNG 6
Hoạt động 1. Chất lượng và chất lượng giáo dục mầm non . 6
Hoạt động 2. Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng
giáo dục . 20
Hoạt động 3. Định hướng đổi mới quản lý chất lượng giáo dục trường mầm non
. 37
Hoạt động 4. Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non . 39
Hoạt động 5. Các văn bản liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục trường
mầm non. 41
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 46 trang
46 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 745 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Module 1: Kiến thức chung về quản lý chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầy đủ, chính xác, kịp 
thời sự phát triển của trẻ, những nhu cầu được giáo dục của từng trẻ; 
(2) Năng lực đáp ứng để đưa ra được những nội dung, biện pháp giáo dục 
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu của mục tiêu 
giáo dục; 
(3) Năng lực đánh giá để nhìn nhận kết quả sự thay đổi trong nhận thức, kỹ 
 18 
năng, thái độ và tình cảm của trẻ; 
(4) Năng lực triển khai chương trình dạy học: năng lực tiến hành dạy học 
và giáo dục căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục đã quy đinh nhưng phù hợp 
với đặc điểm của đối tượng học; 
(5) Năng lực đánh giá nhằm hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển 
của trẻ em ở tuổi mầm non; 
(6) Năng lực đáp ứng trách nhiệm xã hội để tạo nên những điều kiện thuận 
lợi cho giáo dục trong và ngoài nhà trường,... 
Như vậy, chất lượng giáo viên hiện nay không chỉ được giới hạn ở việc dạy 
được các môn học trong nhà trường mà còn phải đảm nhiệm được sứ mệnh của 
một nhà giáo dục: xây dựng tính cách, thái độ tích cực và tạo dựng các giá trị cho 
trẻ và thực hiện được các nhiệm vụ giáo dục khác. 
Xuất phát từ mục tiêu và các yêu cầu đối với giáo viên và cán bộ quản lý 
như trên, sự cần thiết thực hiện đầy đủ các giải pháp sau: 
(1) Xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 
và cán bộ quản lý gắn với quy hoạch phát triển giáo dục của từng địa phương và 
cả nước; đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non và nhu cầu phát triển kinh 
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Khắc phục tình 
trạng phân tán các cơ sở đào tạo nhà giáo; tập trung xây dựng một số trường sư 
phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; điều phối hệ thống trường sư phạm 
theo mục tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý trên phạm 
vi cả nước. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để chọn được những người 
thực sự có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm; 
(2) Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, 
đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo, cán bộ 
quản lý theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức nhà giáo, cán bộ 
quản lý và năng lực nghề nghiệp gắn với mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới giáo dục 
mầm non; 
(3) Thực hiện chuẩn hóa độ ngũ nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp, tiêu 
chuẩn chức danh bậc học mầm non và chuẩn trình độ đào tạo; 
 19 
(4) Tiếp tục hoàn thiện chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý 
cho phù hợp với tình hình đổi mới; 
(5) Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản 
lý học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 
3.3. Môi trường sư phạm 
3.3.1. Khái niệm 
3.3.1.1. Khái niệm về môi trường 
Có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường: 
- Xem xét môi trường từ vị trí của một cá nhân; theo đó môi trường được 
quan niệm là một hệ thống gồm nhiều cá nhân hoặc nhiều nhóm mà một cá nhân 
nhất định có tiếp xúc. “Chúng tôi gọi môi trường xã hội của một người là toàn bộ 
các nhóm và các cá nhân mà trong suốt cuộc đời mình, người đó tiếp xúc riêng tư 
hay công khai trước công chúng, tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp, thoáng qua hay 
lâu dài, giữa cá nhân với cá nhân hay thông qua sự vật” (F. Znaniecki). 
- Môi trường như một hệ thống những trạng thái của sự vật, những hiện 
tượng, những quan hệ và quá trình tự tại, riêng biệt trong một không gian nhất 
định; theo đó chúng ta có những môi trường địa phương (nông thôn, thành thị), 
những môi trường nghề nghiệp (nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,), 
những môi trường văn hoá (văn học, nghệ thuật, khoa học,),... 
- Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con 
người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con 
người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế 
3.3.1.2. Khái niệm về môi trường sư phạm 
Cũng có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường sư phạm: 
- Môi trường sư phạm là tập hợp phức tạp các yếu tố khác nhau (vật chất, 
gia đình, xã hội, nghề nghiệp,) và các giá trị khác nhau (trí tuệ, tình cảm, thẩm 
mĩ, văn hoá, đạo đức, tôn giáo,) tác động đến hoạt động dạy - học. 
- Môi trường sư phạm là một hoàn cảnh bao gồm các tình huống, cá nhân, 
lý tưởng, hệ thống, tập quán, sự kiện, trong đó hoạt động sư phạm tồn tại và 
phát triển. 
 20 
- Môi trường sư phạm là một hệ thống gồm bất kỳ những nhân tố kích thích 
hay những ảnh hưởng nào có phương hướng nhằm đạt những mục tiêu giáo dục 
nhất định. 
3.3.2. Mối quan hệ giữa môi trường và môi trường sư phạm 
Rõ ràng là trong những môi trường khác nhau (nông thôn hay thành thị, các 
vùng còn thuần nông nghiệp hay đang trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị 
hoá,), môi trường sư phạm của các cơ sở giáo dục cũng không giống nhau. 
Tuy cùng một loại hình trường (công lập hay tư thục, ) nhưng trên thực 
tế, các trường lại khác nhau về nhiều mặt: chúng là những yếu tố của những cộng 
đồng xã hội khác nhau, có những học sinh với những thành phần khác nhau, khác 
nhau ở những vấn đề cần phải giải quyết; để giải quyết những vấn đề đó, chúng 
có những lực lượng và phương tiện khác nhau, Ví dụ: tình hình không gian và 
tầm cỡ của một xã có ảnh hưởng nhất định đến quy mô của các cơ sở giáo dục, 
cũng như sẽ quy định cơ cấu, chất lượng của học sinh theo học tại cơ sở giáo dục 
đó. 
Môi trường sư phạm là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giáo 
dục, do vậy cần được chú ý đánh giá đúng mức. 
Hoạt động 2. Các mô hình quản lý chất lượng và công cụ quản lý chất lượng 
giáo dục 
Thảo luận những nội dung sau: 
1. Các mô hình quản lý chất lượng? Ưu điểm và nhược điểm của mô của 
từng mô hình quản lý chất lượng? 
2. Các công cụ quản lý chất lượng giáo dục? Để quản lý hiệu quả chất 
lượng giáo dục trường mầm non, nên sử dụng công cụ nào? 
Thông tin phản hồi 
Với sự phát triển của xã hội loài người, công nghiệp và dịch vụ ngày càng 
phát triển, hàng hoá được sản xuất ngày càng nhiều, con người ngày càng quan 
tâm đến chất lượng và muốn có các mặt hàng tốt hơn, muốn được phục vụ tốt 
hơn; chất lượng đã trở thành yếu tố cạnh tranh vô cùng quan trọng và hơn bao giờ 
hết, nó khiến các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của 
việc đưa chất lượng vào nội dung quản lý của mình. Chính vì lẽ đó mà khoa học 
 21 
quản lý chất lượng được hình thành, trước hết ở trong công nghiệp, sau đó được 
đưa vào áp dụng trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ khác. 
Quản lý nói chung là những hoạt động liên quan đến tổ chức, kiểm soát và 
điều phối các nguồn lực để đạt mục tiêu. Quản lý chất lượng là hoạt động tổ chức, 
kiểm soát và phân bổ các nguồn lực để đạt được những mục tiêu chất lượng. 
Quản lý chất lượng được hình thành dựa trên nhu cầu ngăn chặn, loại trừ những 
lỗi hay thiếu sót trong chế biến, sản xuất sản phẩm. 
Trong nhiều tài liệu phổ biến hiện nay, các mô hình quản lý chất lượng 
được nhắc đến nhiều nhất là: Kiểm soát chất lượng (Quality Control), Bảo đảm 
chất lượng (Quality Assurance) và Quản lý chất lượng tổng thể (Total Quality 
Management). 
1. Các mô hình quản lý chất lượng 
1.1. Kiểm soát chất lượng 
Kiểm soát chất lượng là thuật ngữ lâu đời nhất về mặt lịch sử. Theo định 
nghĩa, kiểm soát chất lượng là những hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, 
định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu 
nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Như vậy kiểm soát chỉ là một sự 
phân loại sản phẩm đã được chế tạo, một cách xử lý "chuyện đã rồi". Nó là công 
đoạn xảy ra sau cùng: khi sản phẩm đã được làm xong mới tính tới việc loại bỏ 
hoặc từ chối những hạng mục hay sản phẩm có lỗi. Việc làm này thường kéo theo 
lãng phí tương đối lớn vì phải loại bỏ hay làm lại các sản phẩm không đạt yêu 
cầu, đặc biệt khi mở rộng quy mô sản xuất và vẫn không tránh được những lỗi, 
thiếu sót trong sản xuất. 
Nhìn chung, kiểm soát chất lượng là một quá trình, trong đó một sản phẩm 
hay một dịch vụ, hoặc bất cứ bộ phận nào trong quá trình có liên quan đến việc 
sản xuất hay vận chuyển sản phẩm, được kiểm tra theo một tiêu chuẩn đã được 
định trước và sẽ bị loại bỏ hay làm lại nếu như nó dưới chuẩn đó. Nói cách khác, 
kiểm soát chất lượng tập trung vào việc theo dõi lại các lỗi trong quá khứ. Kiểm 
soát chất lượng trong môi trường sản xuất là “một phương thức cần thiết cho việc 
thanh tra và loại bỏ, những sản phẩm có khiếm khuyết (mặc dù có một số phương 
pháp thống kê của lý thuyết này có thể được sử dụng nhằm tránh khả năng có các 
 22 
sản phẩm này)” (Freeman, 1994). 
Russo (1995) định nghĩa kiểm soát chất lượng như “một quá trình thanh tra 
mà ở đó mỗi một sản phẩm, hay một mẫu sản phẩm, được kiểm soát.” Theo 
Russo, đặc điểm chủ yếu trong kiểm soát chất lượng là “quá trình này không 
nhằm vào gốc rễ của vấn đề. Kiểm soát chất lượng chỉ giải quyết các vấn đề sau 
khi chúng bị phát hiện”. 
Theo Vroeijenstijn (1992), kiểm soát chất lượng là việc tóm tắt các thông 
tin và hàm ý là sẽ có các quyết định trừng phạt hay khen thưởng. Kiểm soát chất 
lượng “vốn dĩ là nhằm trừng phạt, áp đặt các hình phạt cho việc làm thiếu hiệu 
quả, nhưng đồng thời nó cũng cho thấy rằng một khi sản phẩm đã đạt được mức 
độ tối thiểu thì không cần phải nỗ lực để cải tiến” (Vroeijenstijn, 1992). Do đó, 
kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử 
dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng, liên quan đến việc chấp nhận hay từ 
chối một sản phẩm. 
Để kiểm soát chất lượng, tổ chức/doanh nghiệp phải kiểm soát được mọi 
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng. Việc kiểm soát này 
nhằm ngăn ngừa sản xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nói chung, kiểm soát chất 
lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây: con người; phương pháp và quá trình; đầu 
vào; thiết bị; môi trường, 
Phù hợp quan niệm đó về kiểm soát chất lượng, chất lượng có thể được 
hiểu như sau: 
- Đánh giá về mức độ mà các đặc điểm của sản phẩm đáp ứng được các 
yêu cầu mà ngay từ đầu một quy trình sản suất đã quy định; hoặc: 
- Mức độ mà một sản phẩm đáp ứng được yêu cầu về các đặc điểm mà một 
sản phẩm phải có theo các tiêu chí cố định nào đó; hoặc: 
- Đánh giá về mức độ mà một sản phẩm phải được các thanh tra viên 
chấp nhận. 
Kiểm soát chất lượng là hình thức quản lý chất lượng đã được sử dụng lâu 
đời nhất, được thực hiện ở khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất /đào tạo nhằm 
phát hiện và loại bỏ toàn bộ hay từng phần sản phẩm cuối cùng không đạt các 
chuẩn mực chất lượng (ví dụ không đạt các thông số kỹ thuật). Đây là quá trình 
xảy ra sau khi sản phẩm đã được tạo ra, nên nếu phải loại bỏ sản phẩm sẽ dẫn đến 
 23 
lãng phí nguyên vật liệu, thời gian và công sức. 
Sơ đồ 2: Quá trình kiểm soát chất lượng 
1.2. Bảo đảm chất lượng 
Bảo đảm chất lượng là mô hình quản lý hướng đến việc phòng chống những 
sai phạm có thể xảy ra ngay từ bước đầu tiên. Chất lượng của sản phẩm được quản 
lý ngay trong quá trình sản xuất ra nó từ khâu đầu đến khâu cuối theo những tiêu 
chuẩn nghiêm ngặt, đảm bảo không có sai phạm trong bất kỳ khâu nào. 
Theo Russo (1995), bảo đảm chất lượng là sự “xem xét các quá trình được 
sử dụng nhằm kiểm soát và sản xuất sản phẩm hay các dịch vụ và nhằm tránh các 
phế phẩm. Nếu như chúng ta có hệ thống bảo đảm chất lượng, sẽ tránh đi việc có 
thể có các phế phẩm”. 
Theo Freeman (1994), bảo đảm chất lượng là “một cách tiếp cập mà công 
nghiệp sản xuất sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt nhất Bảo đảm chất 
lượng là một cách tiếp cận có hệ thống nhằm xác định nhu cầu thị trường và điều 
chỉnh các phương thức làm việc nhằm đáp ứng được các nhu cầu đó”. Theo cách 
hiểu này, bảo đảm chất lượng là một cách tiếp cận việc tổ chức công việc, nhằm 
đảm bảo rằng: 
- Sứ mạng và mục đích của tổ chức được tất cả mọi người trong tổ chức 
Kiểm soát chất lượng 
Chất lượng đề nghị 
Cơ chế quản lý 
Quá trình 
Phương pháp làm việc 
Các nguồn lực 
Sản phẩm 
Loại bỏ sản phẩm kém 
Nhận thức của khách hàng 
 24 
biết một cách rõ ràng (sự phổ biến, sự minh bạch); 
- Hệ thống mà theo đó công việc được thực hiện là được suy tính cẩn thận, 
rõ ràng và được truyền đạt đến tất cả mọi người (có kế hoạch); 
-Tất cả mọi người đều biết rõ trách nhiệm của mình (tính tự chịu trách nhiệm); 
- Cái mà tổ chức cho là chất lượng đều được định nghĩa rõ ràng và có lưu 
trữ lại trong tài liệu của tổ chức (sự đồng tâm); 
Không giống như kiểm soát chất lượng, bảo đảm chất lượng phải diễn ra 
trước và trong quá trình hoạt động nhằm tránh lỗi và dựa rất nhiều vào việc công 
khai các hoạt động. 
Sơ đồ 3: Bảo đảm chất lượng như một hệ thống tránh lỗi ngay từ đầu 
Một hệ thống bảo đảm chất lượng hiệu quả là một hệ thống có thể cho phép 
phòng tránh, tìm ra và sửa các lỗi có thể xảy ra trong cả quá trình. Nó được thiết kế 
nhằm hỗ trợ một tổ chức đạt được các mục tiêu đã được đề ra. Freeman (1994) gọi 
bảo đảm chất lượng là một hệ thống học tập và tự sửa lỗi: “nó thay đổi để thể hiện các 
nhu cầu đang thay đổi”. Bảo đảm chất lượng, do đó, vượt khỏi việc chỉ chấp nhận hay 
loại bỏ sản phẩm. Người ta mong muốn rằng hệ thống này được thiết kế một cách 
mềm dẻo và dễ thay đổi theo môi trường đang không ngừng thay đổi. Theo Freeman, 
để làm cho việc thay đổi được diễn ra thuận lợi hơn, cần thiết phải có việc sửa các lỗi 
trong một hệ thống bảo đảm chất lượng. Có hai dạng lỗi: một dạng do con người gây 
Hệ thống ĐBCL 
Hệ thống sửa lỗi 
Chất lượng đề nghị 
Cơ chế quản lý 
Quá trình 
Phương pháp làm việc 
Các nguồn lực 
Sản phẩm 
Nhận thức của khách hàng 
 25 
ra, và một dạng là do hệ thống đã lỗi thời. Đối với dạng thứ nhất, hệ thống bảo đảm 
chất lượng sửa các lỗi hay các sai sót có thể có. Đối với dạng thứ hai, cần phải thay 
đổi phương pháp. 
Bảo đảm chất lượng là cấp độ quản lý chất lượng tiến bộ hơn kiểm soát 
chất lượng, được thực hiện trước và trong quá trình sản xuất nhằm phòng ngừa sự 
xuất hiện những sản phẩm có chất lượng thấp. Sản phẩm được thiết kế theo các 
chuẩn mực và mỗi người tham gia vào quá trình sản xuất đều có trách nhiệm bảo 
đảm chất lượng sản phẩm. Từ ý tưởng này, người ta quan tâm đến việc tạo nên 
một nền văn hoá chất lượng để những người trực tiếp làm ra sản phẩm luôn luôn 
tự nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng, biết cách làm thế nào để đạt 
được chất lượng cao hơn và tự mình mong muốn làm điều đó, hơn thế nữa còn tác 
động để người khác cùng làm tốt như hoặc làm tốt hơn bản thân họ. 
1.3. Quản lý chất lượng tổng thể 
Như đã biết, chất lượng không tự sinh ra; chất lượng không phải là một kết 
quả ngẫu nhiên mà là kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố, quá trình có 
liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải 
quản lý một cách đúng đắn tổng thể các yếu tố, quá trình này; hoạt động quản lý, 
lý tưởng nhất trong lĩnh vực quản lý chất lượng được gọi là quản lý chất lượng 
tổng thể (Total Quality Management - TQM). 
TQM là cách tiếp cận về quản lý chất lượng ở mọi công đoạn nhằm nâng 
cao năng suất và hiệu quả chung của doanh nghiệp hay của tổ chức. Mặc dù có 
nhiều quan niệm, triết lý khác nhau của nhiều tác giả, nhưng nhìn chung mọi 
người đều cho rằng TQM là phương pháp quản lý của một tổ chức, định hướng 
vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại sự 
thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn tối đa khách hàng và lợi ích của mọi 
thành viên của công ty đó cũng như của xã hội. Cụ thể hơn, TQM là: 
- T: Đồng bộ, toàn diện, tổng hợp, nghĩa là bao gồm tất cả các công việc 
trong chu trình, quản trị từ việc nhỏ đến việc lớn, mỗi người đều có vai trò nhất 
định trong chu trình đó với yêu cầu chất lượng cao. TQM coi trọng sự cam kết và 
tham gia của mọi thành viên trong tổ chức trong việc bảo đảm chất lượng công 
 26 
việc. 
- Q: Chất lượng quản lý quyết định chất lượng sản phẩm. Chất lượng được 
thể hiện qua ba khía cạnh: hiệu năng, độ tin cậy, an toàn; giá thành hợp lý (hiệu 
quả tương xứng với chi phí đầu tư); đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 
Trong sản xuất, kinh doanh, để đạt được mục tiêu chính của quản lý chất 
lượng là thỏa mãn người tiêu dùng, chất lượng quản lý đòi hỏi không chỉ áp dụng 
vào các quá trình xảy ra trước và trong quá trình sản xuất, kinh doanh như khảo 
sát thị trường, nghiên cứu, lập kế hoạch, thiết kế, sản xuất  mà còn phải áp 
dụng cho các quá trình xảy ra sau đó, như đóng gói, lưu kho, vận chuyển, phân 
phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng, 
- M: Quản lý có hiệu quả mọi giai đoạn công việc trên cơ sở sử dụng vòng 
tròn quản lý P-D-C-A; trong đó: P (Plan) - lập kế hoạch, Do - tổ chức thực hiện, C 
(Check) - lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát, A (Action) - điều chỉnh (xem Sơ đồ 4). 
Sơ đồ 4: Vòng tròn TQM 
Các đặc trưng của TQM cũng như những hoạt động của nó có thể gói gọn 
vào 12 điều mấu chốt dưới đây và đó cũng đồng thời là trình tự căn bản để xây 
dựng hệ thống TQM: 
- Nhận thức: Phải hiểu rõ những khái niệm, những nguyên tắc quản lý 
chung, xác định rõ vai trò, vị trí của TQM trong doanh nghiệp; 
- Cam kết: Sự cam kết của lãnh đạo, các cấp quản lý và toàn thể nhân viên 
trong việc bền bỉ theo đuổi các chương trình và mục tiêu về chất lượng, biến 
 27 
chúng thành cái thiêng liêng nhất của mỗi người khi nghĩ đến công việc; 
- Tổ chức: Đặt đúng người vào đúng chỗ, phân định rõ trách nhiệm của 
từng người; 
- Đo lường: Đánh giá về mặt định lượng những cải tiến, hoàn thiện chất 
lượng cũng như những chi phí do những hoạt động không chất lượng gây ra; 
- Hoạch định chất lượng: Thiết lập các mục tiêu, yêu cầu về chất lượng, 
các yêu cầu về áp dụng các yếu tố của hệ thống chất lượng; 
- Thiết kế chất lượng: Thiết kế công việc, thiết kế sản phẩm và dịch vụ, là 
cầu nối giữa marketing với chức năng tác nghiệp; 
- Hệ thống quản lý chất lượng: Xây dựng chính sách chất lượng, các phương 
pháp, thủ tục và quy trình để quản lý các quá trình hoạt động của doanh nghiệp. 
- Sử dụng các phương pháp thống kê: theo dõi các quá trình và sự vận hành 
của hệ thống chất lượng; 
- Tổ chức các nhóm chất lượng như là những hạt nhân chủ yếu của TQM 
để cải tiến và hoàn thiện chất lượng công việc, chất lượng sản phẩm; 
- Sự hợp tác nhóm được hình thành từ lòng tin cậy, tự do trao đổi ý kiến và 
từ sự thông hiểu của các thành viên đối với mục tiêu, kế hoạch chung của doanh 
nghiệp; 
- Đào tạo và tập huấn thường xuyên cho mọi thành viên của doanh nghiệp 
về nhận thức cũng như về kỹ năng thực hiện công việc; 
- Lập kế hoạch thực hiện TQM: Trên cơ sở nghiên cứu các cẩm nang áp 
dụng TQM, lập kế hoạch thực hiện theo từng phần của TQM để thích nghi dần, 
từng bước tiếp cận và tiến tới áp dụng toàn bộ TQM. 
Đặc trưng của mô hình TQM là ở chỗ nó không áp đặt một hệ thống cứng nhắc 
mà tạo ra một nền “Văn hoá chất lượng”(1) bao trùm lên toàn bộ quá trình sản 
xuất - một văn hoá đòi hỏi tất cả mọi người tham gia quy trình đều nhận thức sâu 
sắc được trách nhiệm của mình, đều thấy được việc hoàn thành nhiệm vụ của 
mình là một đóng góp quan trọng cho chất lượng chung, đều có được niềm vui và 
sự tự nguyện làm cho chất lượng chung ngày càng được đảm bảo và phát triển, 
Nguyên tắc quản lý cơ bản của TQM là dựa trên lòng tin, tin và mạnh dạn 
trao quyền cho tất cả mọi thành viên; mọi thành viên bất kỳ ở cương vị nào, vào 
(1) Văn hoá chất lượng được hiểu là sự hợp nhất/vận dụng/áp dụng chất lượng vào toàn bộ các hoạt động của hệ 
thống/tổ chức nhằm tạo ra môi trường tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo bên trong tổ chức và dẫn đến sự hài 
lòng của những người hưởng lợi từ tổ chức. 
 28 
bất kỳ thời điểm nào cũng đều là người quản lý chất lượng của phần việc mình 
được giao và hoàn thành nó một cách tốt nhất. Chất lượng sẽ được đảm bảo nhờ 
quá trình cải tiến liên tục, cải tiến từng bước với mục đích tối cao là thoả mãn nhu 
cầu của khách hàng. 
* Cải tiến liên tục 
Khái niệm cải tiến chất lượng liên tục chú trọng vào yếu tố tự quản lý. Hầu 
hết các cơ chế cải tiến chất lượng liên tục đều dựa trên tiền đề: không ai hiểu rõ 
cách thức tiến hành công việc bằng chính những người trực tiếp thực hiện công 
việc đó. Những cá nhân bên ngoài có thể đưa ra những gợi ý để cải thiện chất 
lượng, và một số những gợi ý đó sẽ có tác dụng nếu chúng phù hợp với các điều 
kiện thực tế, nhưng ý kiến cuối cùng phải là của chính những người đang trực tiếp 
thực hiện công việc 
Để tạo ra một quá trình cải tiến liên tục, các nhà quản lý phải sẵn sàng phân 
chia trách nhiệm về chất lượng và cùng với nó là trách nhiệm về các nguồn lực và 
quyền ra các quyết định nhằm tạo cho mỗi thành viên sự tự chủ trong công việc 
mà họ chịu trách nhiệm. 
Phân quyền thực sự không phải là một công việc dễ dàng. Nó đòi hỏi niềm 
tin đối với cấp dưới của cán bộ lãnh đạo và sự tự tin của cấp dưới khi được phân 
quyền quản lý. 
* Cải tiến từng bước 
TQM được thực hiện bằng một loạt dự án quy mô nhỏ có mức độ tăng dần. 
Về tổng thể, TQM có quy mô rộng, bao quát toàn bộ hoạt động của một tổ chức, 
song việc thực hiện nhiệm vụ đó trong thực tế lại có quy mô hẹp, khả thi, thiết 
thực và có mức độ tăng dần. Sự can thiệp mạnh không phải là phương sách tốt để 
tạo sự chuyển biến lớn trong TQM. Các dự án đồ sộ nhiều khi không phải là con 
đường tốt nhất vì thiếu kinh phí, và nếu thất bại sẽ dẫn tới sự thờ ơ, bất bình. Các 
dự án nhỏ sẽ dễ thành công và tạo ra sự tự tin và làm cơ sở cho các dự án sau lớn 
hơn. 
* Hệ thống tổ chức phải hướng tới khách hàng 
Một trong những bí quyết để thực hiện thành công TQM chính là mọi hoạt 
động đều phải xoay quanh nhân vật trung tâm là khách hàng. Doanh nghiệp/tổ 
 29 
chức phải có những chiến lược hiệu quả để lắng nghe và học hỏi từ khách hàng, 
đo lường sự hài lòng của khách hàng và xây dựng mối quan hệ hợp tác với khách 
hàng. Nhu cầu của khách hàng phải được liên kết chặt chẽ với chiến lược phát 
triển của doanh nghiệp/tổ chức, với thiết kế sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất 
và những hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, 
Quản lý chất lượng tổng thể là cấp độ quản lý chất lượng cao nhất hiện nay. 
Quản lý chất lượng tổng thể có mối quan hệ chặt chẽ với bảo đảm chất lượng, 
tiếp tục và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng. Đây là phương pháp quản lý 
của một tổ chức, định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành 
viên và nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng 
và lợi ích của mọi thành viên của tổ chức đó và của xã hội. 
Đặc điểm nổi bật của TQM so với các phương pháp quản lý chất lượng 
trước đây là nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến 
mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của mọi bộ 
phận và mọi cá nhân để đạt được mục tiêu chất lượng đã đặt ra. 
Như vây, có thể tóm tắt các mô hình quản lý chất lượng bằng sơ đồ sau đây: 
Sơ đồ 5: Các mô hình quản lý chất lượng 
 30 
2. Các công cụ quản lý chất lượng giáo dục 
2.1. Thanh tra giáo dục 
Thanh tra giáo dục là phương tiện của giám sát chất lượng giáo dục, là 
công cụ để đưa ra các tiêu chuẩn, là mối quan tâm lớn với các nhà hoạch định và 
thực thi chính sách giáo dục. Đây là việc của một nhóm người do các cơ quan hữu 
quan cử tới xem xét một cách kỹ lưỡng quá trình bảo đảm chất lượng và kiểm tra 
xem chất lượng tại trường đó có được thực hiện một cách hợp lý và có đúng kế 
hoạch hay không. 
Đặc tính giá trị nhất của công tác thanh tra là mang lại ảnh hưởng tích cực 
đối với sự cải thiện kinh nghiệm chất lượng của người học. Nếu thanh tra chỉ đơn 
giản đưa ra báo cáo và kết luận thì chưa đủ; thanh tra cần đánh giá nhằm mang 
đến sự cải thiện. 
Một đặc điểm chính liên quan đến các quá trình và sự phát triển của hệ 
thống thanh tra là mối quan hệ giữa các đánh giá bên ngoài (chức năng chính của 
thanh tra trường học) và đánh giá nội bộ (tự đánh giá). Có ý kiến cho rằng thanh 
tra bên ngoài là “thiết yếu với một hệ thống giáo dục lành mạnh, để đảm bảo việc 
tự đánh giá của các trường không trở thành việc tự lừa dối hay tự mãn”. Điều này 
là khác nhau trong những bối cảnh quốc gia khác nhau. Ví dụ, ở nước Anh, người 
ta chú trọng nhiều hơn đến công tác tự đánh giá của trường học; công nhận giá trị 
của việc tự đánh giá của trường học là một phần chính của quá trình thanh tra,... 
Ở Pháp, công tác thanh tra chủ yếu mang chức năng giám sát; thanh tra có quyền 
hạn rất lớn, có thể đình chỉ ngay công tác của một hiệu trưởng, giáo viên. Còn ở 
Úc thì hệ thống thanh tra đã không tồn tại từ những năm 70 của thế kỷ trước, 
Có hai thành tố quan trọng trong quá trình thanh tra trường học. Thứ nhất, tiêu 
chí sử dụng trong việc đánh giá chất lượng giáo dục, và thứ hai, tiến hành thanh tra 
trường học như thế nào. Thành tố thứ nhất quan tâm đến khái niệm về chất lượng giáo 
dục, thành tố thứ hai liên quan tới phương pháp sử dụng để thu thập các bằng chứng 
và dữ liệu về chất lượng giáo dục và chất lượng của cô
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_trinh_module_1_kien_thuc_chung_ve_quan_ly_chat_luong_va.pdf giao_trinh_module_1_kien_thuc_chung_ve_quan_ly_chat_luong_va.pdf