I. Đề cương chi tiết
II. Đề cương bài giảng
Chương 1. Những vấn đề chung về trẻ khiếm thị
1.1. Khái niệm . 4
1.2. Phân loại . 4
1.3. Nguyên nhân. 4
1.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thị. 4
1.4.1. Giao tiếp và tình cảm xã hội . 4
1.4.2. Nhận thức. 5
1.4.3. Ngôn ngữ . 8
Chương 2. Phát triển các kỹ năng cho trẻ khiếm thị
2.1. Dạy kỹ năng định hướng di chuyển cho trẻ khiếm thị. 11
2.2.1. Kỹ thuật đi với người dẫn đường. 11
2.2.2. Kỹ thuật sử dụng các thế tay an toàn . 12
2.2.3. Các kỹ thuật sử dụng gậy. 13
2.2. Phát triển kỹ năng xúc giác và dạy đọc và viết chữ nổi cho trẻ khiếm thị . 17
2.2.1.Phát triển kỹ năng xúc giác. 17
2.2.2. Dạy đọc và viết chữ nổi cho trẻ khiếm thị. 22
2.3. Phát triển kỹ năng thị giác cho trẻ khiếm thị . 27
Chương 3. Hệ thống phương tiện trợ thị
3.1. Phương tiện trợ thị quang học. 31
3.2. Phương tiện trợ thị phi quang học . 39
Chương 4. Giáo dục trẻ khiếm thị ở Việt Nam
4.1. Tình hình giáo dục trẻ khiếm thị ở Việt Nam. 43
4.2. Hệ thống giáo dục trẻ khiếm thị tại Việt Nam. 47
4.2.1. Các hình thức giáo dục trẻ khiếm thị ở Việt Nam . 47
4.2.2. Hệ thống dịch vụ đáp ứng nhu cầu cho trẻ khiếm thị ở Việt Nam . 48
III. Tài liệu tham khảo
31 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thị (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i vậy,
khi học phát âm những từ khó, trẻ mù thường khó nói gấp 2 lần so với trẻ bình thường.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ mù thường khó phát âm sai các âm s, gi, tr, d,
Ngôn ngữ phát triển kém còn thể hiện chữ viết. Những âm khó phát âm cũng dẫn tới
viết sai. Đó cũng là đặc điểm trong ngôn ngữ viết của trẻ mù.
Quá trình tích luỹ vốn từ phụ thuộc khả năng tri giác nhìn. Vốn từ ngữ của trẻ mù
thường không phong phú bằng trẻ sáng. Vì vốn từ phụ thuộc vào mức độ giao tiếp với mọi
người xung quanh, vào năng lực hiểu rõ nội dung lời nói, vào kết quả đọc sách, xem phim,
du lịch, So với trẻ sáng, trẻ mù rất ít có các cơ hội nói trên. Điều đó càng hạn chế vốn từ
của các em.
Như ta đã biết, hệ thống tín hiệu thứ hai hình thành và phát triển thông qua hệ thống
tín hiệu thứ nhất. Với trẻ mù, mối liên hệ giữa hai hệ thống tín hiệu này thường bị gián
đoạn. Bởi vậy, lời nói của trẻ mù thường mang tính hình thức, bắt chước máy móc câu nói
của người khác. Lượng thông tin của lời nói kém, thiếu logic. Quá trình nắm bắt ý nghĩa
của lời nói thường xuất phát từ cảm thụ đặc điểm đặc điểm đối tượng, nhận dạng rồi mới
gọi tên. Có hiểu rõ nội dung mới khái quát được tài liệu cảm nhận. Chỉ trên cơ sở ấy mới
tạo nên khả năng khái quát hoá ý nghĩa lời nói, không cần phụ thuộc tính chất cụ thể nữa. Ở
trẻ mù, quá trình này thường ngược lại; các em học lỏm cách nói trước, hiểu nội dung từ
ngữ sau. Lúc đầu nghe thoáng qua các em nói có vẻ logic, hợp lí với hoàn cảnh. Nhưng
thực tế là lời nói rỗng, thiếu mối quan hệ cụ thể.
Nhờ tri giác thính giác qua quá trình học tập, giao tiếp, bắt chước người xung
quanh, con người có khả năng nắm được quy luật chính tả, ngữ pháp. Ở trẻ mù, khả năng
này phát triển tốt nếu các em được chăm sóc, giáo dục. Hạn chế lớn nhất của trẻ mù là rất
khó hiểu được ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ. Trong giao tiếp, hàng loạt cử chỉ, điệu bộ như: gật,
- 10 -
lắc đầu, cau mày, hầu như không thấy ở trẻ mù. Vì vậy, khi nói chuyện, trẻ mù thường
biểu hiện rất yếu tình cảm, xúc cảm. Có không ít người mù, khi trò chuyện, họ nói quá to
hoặc ngược lại, do họ không xác định được khoảng cách đến người đối thoại. Khi nói, họ
cũng khó xác định mặt nên quay về hướng nào cho đúng phép xã giao.
Chương 2. PHÁT TRIỂN CÁC KỸ NĂNG CHO TRẺ KHIẾM THỊ
2.1. Dạy kỹ năng định hướng di chuyển cho trẻ khiếm thị
- 11 -
Định hướng và di chuyển là khả năng sử dụng các giác quan còn lại để xách định vị
trí của mình ở một không gian nhất định. Tìm hiểu và quyết định hướng đi, từ vị trí cố định
hiện tại đến vị trí mong muốn khác một cách an toàn, chính xác và thoải mái.
2.2.1. Kỹ thuật đi với người dẫn đường
* Kỹ thuật
- Cách nắm đúng khi đi với người dẫn sáng.
- Dấu hiệu khi được hướng dẫn: người hướng dẫn sáng sẽ dùng khuỷu tay chạm nhẹ
vào tay người mù.
Cách nắm đúng: Người mù dùng tay phải hoặc tay trái nắm lấy cánh tay của người
hướng dẫn, tỳ theo cánh tay của họ chạm nhẹ vào tay người mù.
Trên cùi chỏ (khuỷu tay) người hướng dẫn.
Ngón tay cái để ngoài, các ngón tay còn lại khép vào phía trong.
Khuỷu tay kẹp sát hông, như vậy người mù đi sau người hướng dẫn 1/2 bước (1/2
cánh tay)
Để đọc được cử động người hướng dẫn (nhận được báo hiệu) người mù không nắm
chặt quá hoặc lỏng quá
Đi thoải mái tự nhiên, theo tốc độ người hướng dẫn.
Chú ý:
- Nếu người hướng dẫn là một em bé, thì người mù sẽ đặt tay lên vai em bé.
- Nếu người hướng dẫn là một người lớn, người mù là em bé người mù sẽ nắm vào
cườm tay người hướng dẫn (cổ tay).
* Kỹ thuật đi qua lối hẹp với người dẫn sáng:
- Người hướng dẫn đưa cánh tay ra phía sau lưng, ép tay vào giữa lưng, đi hơi
chậm lại để báo hiệu qua lối hẹp.
- Người mù duỗi thẳng cánh tay và đi thẳng hàng sau người hướng dẫn cách nhau
một bước
- Qua hết lối hẹp, cánh tay người hướng dẫn sẽ trở lại vị trí cũ (sát hông) và người
mù đi trở lại bình thường (cách 1/2 bước)
* Qua thế đất gồ ghề - bước qua rãnh nước:
Người hướng dẫn dừng bước báo cho người mù biết, người mù sẽ:
- Chân bước cao (ở thế đất gồ ghề).
- Chân bước xa (bước ngang qua hào rãnh). Trước khi bước qua hào rãnh, người
hướng dẫn nên để cho người mù đứng ngang hàng với mình rồi báo mức độ rộng của hào,
rãnh cho người mù ước lượng và sau đó cùng bước một lượt với người hướng dẫn. Qua hết
người hướng dẫn báo cho người mù biết và đi trở lại như cũ.
* Kỹ thuật đi qua cửa với người hướng dẫn sáng
- Đến cánh cửa người hướng dẫn bằng lời cho người mù biết cửa đóng mở về phía
tay nào.
- Người mù đứng sau lưng người hướng dẫn một bước (duỗi thẳng cánh tay)
- Người mù phải đổi tay nếu người hướng dẫn mở cửa bằng chính cánh tay đang bị
người nắm, bàn tay rảnh đỡ phụ cánh cửa mở.
Qua khỏi cửa người hướng dẫn dừng lại chờ cho người mù đóng cửa lại rồi mới đi.
Chú ý:
- Cửa có 2 cánh khép lại hoặc một cánh lớn.
- Phân biệt cửa có 4 hướng chính: đẩy ra và kéo vào về phía tay phải, đẩy ra và kéo
vào về phía tay trái.
- 12 -
- Cánh cửa bật có gắn lò xo.
* Kỹ thuật lên cầu thang
- Người hướng dẫn báo cho người mù biết và tiến đến bậc cầu thang dừng lại, người
mù tiến đến đứng ngang hàng với người hướng dẫn, ngón chân sát mép cầu thang.
- Quang sát cầu thang có lan can hay không.
- Dùng chân đo chiều cao và chiều dài của bậc thang.
- Người hướng dẫn bước lên một bước rưỡi, cánh tay người mù duỗi thẳng, người
mù bước lên và hơi nghiêng người về phía trước.
- Hết thang người mù cách người hướng dẫn một bước rưỡi. Người hướng dẫn tiến
đến một bước, chờ người tiến lên hết nấc thang (tránh bước hụt) rồi lại đi như cũ.
* Kỹ thuật xuống cầu thang
- Người hướng dẫn đến mép bậc thang dừng lại, người mù tiến đến dùng chân tìm
mép cầu thang và đứng ngang hàng.
- Người hướng dẫn bước xuống một bước rưỡi cánh tay người mù duỗi thẳng và
bước xuống theo.
- Xuống hết cầu thang, người hướng dẫn tiến đến một bước dừng lại chờ người mù.
Sau đó tiếp tục đi như cũ, khi xuống thang phải đi thẳng người, tránh trường hợp bị chúi
người xuống dưới dễ bị té.
Chú ý:
- Lên xuống cầu thang nên đi bên phải.
- Trong trường hợp cầu thang có nấc thang đặc biệt (nấc đầu rộng hơn, cao hơn
hoặc thấp hơn nấc thang trên) thì người hướng dẫn phải cho người mù đứng hẳn lên nấc
thang đó rồi mới dò nấc thang kế tiếp.
- Cầu thang xoắn, người mù nên đi ở phía trước mặt nấc thang rộng, không nên đi
phía trước trục tròn cầu thang vì tiết diện nấc thang hẹp (nấc thang hình tam giác) sử dụng
lan can.
- Cầu thang gỗ lên gác thường hẹp, nấc thang khít hoặc quá thưa, người mù phải sử
dụng lan can, chân bước trọn hoặc nửa bàn chân tuỳ theo nấc thang.
- Tránh đừng để người mù bị té khi thực tập dễ mất tin tưởng vào bài học.
2.2.2. Kỹ thuật sử dụng các thế tay an toàn
* Thế tay an toàn trên
- Lòng bàn tay hướng ra ngoài, đầu ngón tay giữa chạm nhẹ chân tóc ở trán.
- Từ từ đưa tay ra trước mặt khoảng từ 20 đến 25 cm
- Các ngón tay khép lại và hướng lên trời
- Vừa đi vừa di chuyển nhẹ nhàng ra hai bên để bảo vệ toàn bộ khuôn mặt
Kỹ thuật này giúp cho người khiếm thị cảm thấy tự tin và an tâm khi đi lại trong
môi trường, tránh được những chướng ngại vật ở tầm ngang mặt
* Thế tay an toàn ngang
- Cánh tay và cổ tay song song với nền nhà, gập cánh tay lại sao cho các ngón tay
che chở bờ vai bên kia và cách vai khoảng 20 – 25 cm
- Các ngón tay khép lại, lòng bàn tay hướng ra ngoài.
- 13 -
Kỹ thuật này giúp trẻ khiếm thị tránh được các chướng ngại vật ở tầm ngang người,
bảo vệ an toàn cho trẻ khi đi qua cửa, những nơi không quen thuộc. Tìm các vật dụng thông
thường có tầm cao ngang vai
* Thế tay an toàn dưới
- Cánh tay duỗi thẳng xuống giữa người
- Các ngón tay khép lại
- Bàn tay đưa nhẹ nhàng qua hai bên để bảo vệ toàn thân
Lợi ích: Kỹ thuật này giúp người khiếm thị che chở phần dưới cơ thể khi nghi ngờ có
chướng ngại vật ở tầm thấp. Đồng thời có thể dùng kĩ thuật này để tìm những mục tiêu
thấp ngang tầm cánh tay thõng xuống như đầu gường, bàn ghế
2.2.3. Các kỹ thuật sử dụng gậy
Đặc điểm của gậy dò đường
Người mù thường sử dụng nhiều loại gậy làm phương tiện để di chuyển:
- Gậy mây.
- Gậy tre.
- Gậy nhôm.
- Gậy gỗ các loại.
Và kích thước các gậy này thường chỉ tuỳ thích. Đó là gậy của những người mù
đang sử dụng phương pháp “tự do”.
Với kỹ thuật định hướng di chuyển của Hoover, thì gậy sử dụng phải đúng kích
thước, tính chất của gậy phải tương đối bảo đảm theo yêu cầu.
Ông Russel. C. Williams ở Nha cựu chiến binh Hoa Kỳ, đã hoàn thành tính chất đặc
biệt của cây gậy dài cứng và không nối. Những cây gậy này đã được sử dụng tại trường đại
học Western Michigan, bệnh viện Nha cựu chiến binh Hines Illinois.
Đại cương thì hình dáng của cây gậy dài gồm có đầu ngoéo, tay cầm, thân gậy, đầu
gậy.
- Đầu ngoéo: uốn cong một vòng cung 1800 song song với thân cây gậy.
- Nắp đầu ngoéo: đậy đầu ngoéo bằng một nắp plasstic hay cao su để bọc những
phần sù sì của bờ ống.
- Thân gậy: phải thẳng từ khúc ngoéo đến nút vặn đầu gậy.
- Tay cầm: gắn vào cây gậy ở điểm nơi thân cây và khúc ngoéo. Cái tay nắm này
thường giống cái tay nắm gậy đánh gôn và phải làm thế nào để luồn qua khúc ngoéo. Cây
gậy nhôm Việt Nam thì người ta dùng nhựa đen quấn vào phần trên thân cây gậy để làm tay
nắm (cầm). Tay nắm chỉ dài hơn hai tấc.
- Đầu gậy: làm bằng nylon trắng đục, nylatron hay chất tương tự. Đầu gậy gắn vào
thân gậy hoặc vặn vào thân gậy. Phần này có thể rút ra thay cái khác khi bị mòn.
- Chiều dài: đo từ đỉnh khúc ngoéo đến cuối đầu gây, thường có 3 chiều dài cần
thiết: 1,1m; 1,2 m; 1,35 m, (cho trẻ em và những người cao thấp bất thường cần phải sửa
chữa lại).
Cây gậy nặng toàn thể trung bình từ : 228g --> 285 g... trọng lượng này có thể thay
đổi
Phần bọc ngoài gậy: Gồm hai đoạn băng dán mào vàng ngà và một băng dán đỏ sát
đầu gậy để bọc ngoài thân cây gậy. Loại băng này có đặc tính phản chiếu ánh sáng để đi
đêm.
Cách sử dụng gậy dài,cách nắm gậy đúng
- 14 -
Chọn gậy:
Gậy phải tương xứng với chiều cao thân người, chọn bằng cách đo từ xương ức
xuống
Nắm đúng:
- Tay nắm ở thân cây gậy dưới đầu ngoéo.
- Gậy để ngay giữa thân người: duỗi thẳng cánh tay.
- Ngón tay trỏ dọc theo thân cây gậy, ngón tay cái ép gậy, ngón giữa nâng gậy, các
ngón còn lại ôm theo thân gậy.
Chú ý:
- Không nắm chặt quá (khó vẽ cung) hoặc lỏng quá (dễ rơi)
- Đầu thân gậy ngang với cườm tay (muốn kiểm soát ta lấy ngón tay trỏ chiếu từ
nắp đầu ngoéo đến cườm tay)
- Đầu ngoéo luôn hướng xuống đất.
- Kỹ thuật khi cầm gậy
- Không cầm gậy chĩa lên trời (chạm người phía trước).
- Không quơ gậy lung tung.
- Không làm phương tiện đánh nhau.
- Khi ngồi để đầu ngoéo lên vai hay thành ghế cho gọn gàng.
- Đầu ngoéo kẹp vào nách khi đi với người dẫn sáng.
* Kỹ thuật lên cầu thang
Kỹ thuật
- Đầu gậy chạm nhẹ vào bậc thang đầu, giữ nguyên vị thế đầu gậy và tiến đến chỗ
đầu gậy thì dừng lại
- Dùng gậy đo chiều rộng, dài, chiều cao bậc thang và xác định ví trí đứng bên phải,
nhắm hướng thẳng
- Tay tuột xuống thân gậy, tay duỗi thẳng
- Xoay gậy chéo, đầu gậy chạm nhẹ vào mép bậc thang thứ 3
- Đi lên với nguyên vị thế của tay và gậy, đầu gậy sẽ bập vào mép bậc thang khi đi
lên
- Khi đầu gậy đi hết sẽ bật vào mép bậc thang báo hiệu cho ta biết đã hết nấc thang,
tuy nhiên người khiếm thị còn hai bậc nữa mới hết
- Giữ nguyên đầu gậy bước tiếp cho đến hết bậc thang thì quét gậy, trở về kĩ thuật
dò gậy để đi như bình thường.
Chú ý
- Giáo viên phải luôn theo sát trẻ khiếm thị để trợ giúp khi cần thiết
- Cho trẻ luyện tập kỹ thuật này ở cầu thang quen thuộc trước khi cho trẻ tới một
nơi lạ
- Trẻ có thể dễ bị hụt đầu gậy khi đi lên cho nên hướng dẫn trẻ bập gậy từ từ vào
mép bậc thang, xác định kĩ thuật chiều cao, chiều dài, chiều rộng bậc thang
- Khi đi lên cầu thang yêu cầu trẻ hơi ngả về phía trước
* Kỹ thuật xuống cầu thang
Kỹ thuật
- 15 -
- Khi đi đầu gậy hụt bậc thang báo hiệu đã đến cầu thang thì người khiếm thị phải
giữ nguyên đầu gậy tại vị trí đó và tiến sát tới mép bậc thang
- Dùng gậy đo chiều rộng cầu thang và giữ lối đi bên phải
- Dùng gậy đo chiều rộng, chiều cao bậc thang
- Cánh tay duỗi thẳng xuống, khuỷu tay khép sát hông, gậy hơi chéo ngang thân
mình.
- Đầu gậy cách mép bậc thang thứ 2 độ 1 – 2 cm
- Giữ nguyên vị thế tay và gậy đi xuống. khi gậy chạm đáy cầu thang sẽ báo hiệu
cho ta biết hết nấc thang khi đó còn hai bậc nữa mới đi hết cầu thang
- Quét gậy khi đi hết bậc thang, trở lại kĩ thuật dò gậy và tiếp tục đi.
Chú ý
- Giáo viên phải luôn theo sát trẻ, đi phía trước để đỡ trẻ nếu trẻ bị ngã
- Khi xuống cầu thang học viên có thể bị bước hụt gậy vì tay không duỗi thẳng,
khuỷu tay không kẹp sát hông, không giữ gậy ở vị trí cố định
- Khi xuống cầu thang người khiếm thị phải ở tư thế thẳng, không chúi xuống dưới
* Kỹ thuật băng qua đường một chiều
Kỹ thuật
Băng qua đường tức là chúng ta băng qua khoảng giữa của hai ngã tư
- Nhắm hướng thẳng trên lề hoặc dưới lề
- Lắng nghe để xác định chiều xe chạy là trái hay phải
- Nếu thấy vắng tiếng xe đưa gậy lên 5 giây rồi đi qua
- Bắt đầu đi với tốc độ vừa phải, đến nửa đường đi với tốc độ nhanh hơn
- Khi đi tới lề đối diện, quét gậy bước lên lề
Chú ý
- Luôn áp dụng kỹ thuật dò gậy căn bản
- Cho trẻ khiếm thị thực tập ở đường vắng một chiều trước khi ra đường một chiều
- Giáo viên nên băng qua đường cùng với trẻ để tránh nguy hiểm
- Giúp trẻ tự tin, tập trung chú ý để xác định loại phương tiện và chiều xe chạy rồi
mới qua đường
- Giáo viên hướng dẫn trẻ cách đưa gậy báo hiệu, tránh đưa cao quá và đầu gậy
hướng xuống đất.
- Đối với đường đông xe và có xe đạp đi sát lề dưới cạnh trẻ khiếm thị thì yêu cầu
trẻ thu gọn gậy để tránh chọc gậy bánh xe gây nguy hiểm.
* Kỹ thuật băng qua đường hai chiều
Kỹ thuật
- Nhắm hướng thẳng trên lề hoặc dưới lề
- Đầu gậy đặt giữa hai bàn chân
- Nhận xét chiều xe từ trái qua phải và ngược lại
- 16 -
- Trong lúc đi qua lề từ lề đến giữa đường, tiếp tục lắng nghe chiều xe bên kia từ
phải qua trái. Nếu xe vắng tiếp tục đi qua. Nếu đông xe thì dừng lại và thu gậy. Chờ dứt xe
đưa gậy lên 5 giây và đi với tốc độ vừa phải.
- Khi đi tới lề bên kia, quét gậy trước khi bước lên lề
Chú ý
- Đầu gậy chức xuống đường, không được đưa ngang vai
- Khi đã có còi xe hoặc xe đến ngần phải dừng lại và thu gậy
- Nếu có bị chọc gậy vào bánh xe phải yêu cần trẻ buông gậy và ngồi xuống ngay,
khi đứng lên phải sử dụng an toàn trên
- Cần giữ bình tĩnh đúng hướng khi qua đường
- Giáo viên luôn theo sát trẻ để trợ giúp khi cần thiết
* Kỹ thuật băng qua ngã tư có đèn
Kỹ thuật
- Xác định rõ ngã tư có đèn hoặc không có đèn bằng cách nghe dòng xe chạy
- Xác định hướng muốn qua
- Nhắm hướng thẳng trên lề hoặc dưới lề, gậy để sát thân người, chú ý dòng xe
trước mặt
- Xác định chiều xe bên hông bắt đầu chạy là có đèn xanh, dừng lại là có đèn đỏ để
biết được tín hiệu của đèn
- Đưa gậy lên 5 giây rồi đi qua
- Bắt đầu đi với tốc độ vừa phải sau đó đến nửa đường đi với tốc độ nhanh hơn.
Chú ý
- Chỉ băng qua khi nào biết trước hướng xe bên hông bắt đầu chuyển động
- Nếu không biết đèn xanh bật lâu chưa thì phải đứng lại chờ
- Trường hợp khi bắt đầu tính băng qua ngã tư thì dòng xe chuyển động (đèn xanh)
thì người khiếm thị phải dừng lại và chờ dịp khác
- Khi có còi xe phải dừng lại và thu gậy, chờ hết xe tiếp tục đi
- Để tránh nguy hiểm nên nhắm hướng thẳng trên lề đường, đề phòng những chiếc
xe lớn chạy qua sát lề
- Nếu phải băng qua ngã tư mà cả hai dòng xe trước mặt và bên hông đền là dòng xe
chạy hai chiều thì người khiếm thị phải lắng nghe để xác định dòng xe được phép rẽ phải
và dòng xe được phép rẽ trái.
* Kỹ thuật băng qua ngã tư không có đèn
Kỹ thuật
- Nghe và xác định rõ các loại ngã tư
- Nhắm hướng thẳng trên hay dưới lề. Gậy để sát thân người, chú ý dòng xe trước
mặt và bên hông vì xe chạy liên tục
- Nếu thấy xe thưa thì đưa gậy lên 5 giây để báo hiệu
- 17 -
- Đi qua đường với tốc độ vừa phải, khi đi đưa tay không cầm gậy lên cao
Chú ý
- Chỉ băng qua khi biết chắc đã vắng xe
- Sử dụng an toàn trên để tránh va đầu vào những xe hơi cao quá tầm gậy đang đậu
bên kia đường như xe vận tải
- Khi nghe tiếng còi xe hãy dừng và thu gậy lại, chờ hết xe tiếp tục đi
- Ngã tư ở bên phải khi qua đường nên hơi ép về phía trái
2.2. Phát triển kỹ năng xúc giác và dạy đọc, viết chữ nổi cho trẻ khiếm thị
2.2.1.Phát triển kỹ năng xúc giác
Đặc điểm xúc giác của trẻ khiếm thị
Làm việc với người khiếm thị chúng ta phải giáo dục và kích thích họ sử dụng xúc
giác.
Đối với người khiếm thị cảm giác về da là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Tất nhiên
những cơ quan cảm giác khác cũng cần chú ý tới.
Xúc giác thường phát triển theo một cách khác biệt khi bị khiếm thị. Cách thức này
quan trọng nhất khi một nguồn thông tin rõ ràng là cần phải được cấu trúc lại và được kích
thích.
Trong hướng dẫn phải chú ý rằng các khái niệm cần phải được xây dựng càng hoàn
chỉnh và chính xác càng tốt để có được ấn tượng thích hợp và đúng đắn.
Không thể chắc chắn rằng trẻ khiếm thị thì tinh thông, tinh nhạy hơn trong việc
khám phá thông qua xúc giác so với các bạn đồng lứa bình thường khác. Cho nên thật sai
lầm nếu nhiều người vẫn cho rằng trẻ khiếm thị không luyện tập về xúc giác cũng như kích
thích thính giác và các giác quan khác bởi quan niệm bản thân trẻ khiếm thị đã được trời
phú cho độ tinh nhạy các giác quan. Có nhiều trẻ khiếm thị nhỏ tuổi có tâm lí “phòng thủ
về xúc giác” và cũng tránh sờ chạm vào các vật/ hình nền xa lạ để luôn cảm giác an toàn
cho bản thân. Điều này dễ thấy ở trẻ mù rất nhỏ. Vì thế, giáo viên, nhất là giáo viên mầm
non nên đưa ra các chương trình học có tính khái quát thật tỉ mỉ, cụ thể để khuyến khích trẻ
khám phá và phân biệt được các kết cấu bề mặt những vật đơn giản khác nhau, và quan
trọng hơn là giúp trẻ mất dần cảm giác “phòng thủ” thái quá dẫn đến thụ động trong việc sử
dụng xúc giác ở trẻ; giúp trẻ có tâm thế sẵn sàng trong việc tìm kiếm và khám phá thế giới
xung quanh kênh xúc giác.
Một điều cần lưu ý là các phương pháp mà trẻ mù thu thập thông tin từ các biểu đồ
nổi là tương đối khác so với người sáng mắt tiếp nhận thông tin. Khi tri giác, người sáng
mắt thường thu nhận ngay lập tức các hình ảnh thị giác một cách tổng thể sau đó đi vào
xem xét một cách cụ thể nhận biết chi tiết. Còn trẻ mù nói riêng và người mù nói chung lại
tiếp nhận thông tin theo một thứ tự ngược lại: thông qua những khám phá chi tiết và tỉ mỉ
rồi dần dần kết nối các chi tiết lại thành một biểu tượng tổng thể. Quá trình phức tạp này
- 18 -
cần được hỗ trợ bởi những giải thích và hướng dẫn bằng lời để giúp trẻ mù nhỏ tuổi có thể
thông dịch được những gì chúng tri giác.
Qua các hoạt động ở trường mầm non, các đồ dùng nên tăng dần độ tinh vi, tinh tế
để đưa ra ra cho trẻ mù để giúp chúng phát triển các kĩ năng trong quá trình “thông dịch”,
thông qua xác giác để trí giác sự vật.
Nên hướng dẫn cho trẻ các cách thức để trẻ có thể sử dụng các đồ dùng xúc giác
một cách có hiệu quả và thành công. Ví dụ, ngay từ khi trẻ còn nhỏ nên dạy cho trẻ cách
tìm kiếm, cách sờ chi tiết như sau:
- Có thể trải các ngón tay trên khắp bề mặt và lướt từ trên xuống dưới để có một
thông tin chung chung nào đó về vật thể/ đồ dùng.
- Chọn lấy một điểm cố định nào đó trên vật cần tri giác (thường là ở rìa). Nếu là trẻ
quá nhỏ, có thể để cho trẻ một tay không thuận giữ cố định điểm này (coi như điểm mốc)
còn tay kia chuyển động theo chiều kim đồng hồ (nếu tay thuận là tay trái), cho đến khi sờ
được toàn bộ vật thể. Còn với trẻ mù đã lớn và được luyện tập cả hai tay thuần thục, trẻ có
thể sử dụng đồng thời cả hai tay một lúc để tri giác mà không bị bỏ sót các chi tiết.
Các biến số kích thích xúc giác
Hình dạng của đồ vật: trẻ xác định theo hình khối cố định hay biến đổi; trong không
gian hai chiều hay 3 chiều; đường nét rõ ràng hay không rõ ràng.
Kết cấu: Thay đổi, lạ hay quen thuộc, cường độ kích thích thấp hoặc cao, liên tục
hoặc đứt quãng.
Chất liệu tự nhiên hay các đặc tính tổng hợp.
Kích cỡ dễ tiếp xúc với đầu ngón tay, bàn tay, cánh tay, cơ thể và đồ vật quan hệ
giữa các đồ vật với nhau vị trí của các đồ vật trong không gian 2 chiều hay 3 chiều, hướng,
không đối xứng hay đối xứng, hình thể.
Trọng lượng:
Nhiệt độ:
Các nhân tố làm rối xúc giác( bề mặt, sự giao nhau, sự rối loạn, các dạng gần
giống)
Phương pháp tiếp xúc với đồ vật
Đó là cách trẻ tiếp xúc với đồ vật theo cách sờ tổng thể hay chi tiết. Suy nghĩ cách
tri giác đồ vật và sau đó mới hành động, sử dụng hoàn cảnh, sử dụng các điểm tham
chiếu
Sờ bằng một tay: chỉ cho kết quả thu nhận được một cách tương đối, hình ảnh
thường thiếu trọn vẹn, thời gian quan sát chậm hơn, thực hiện sờ một tay của giai đoạn đầu
tập luyện.
Sờ bằng hai tay thuận lợi hơn, hiệu quả sờ tốt hơn, cho ta hình ảnh trọn vẹn, chính
xác và nhanh hơn sờ một tay.
- 19 -
Rèn luyện kĩ năng sờ cho trẻ mù là rất cần thiết vì không những giúp trẻ nhận biết
sự vật đầy đủ nhất mà còn bước đầu giúp trẻ có những kĩ năng phân tích, tổng hợp, khái
quát, phát triển nhận thức.
Ví dụ: Dùng tờ giấy đặt lên tấm cao su( miếng săm xe đạp) dùng đinh nhọn ấn lõm
thành hàng trên tờ giấy.Lúc đầu khoảng cách giữa hai khoảng cách giữa các chấm lõm 3-
4mm, sau đó thu hẹp lại từ 3 thành 2mm, tf 5 thành 2 hoặc 3mm. Lật tờ giấy, sờ phía sau sẽ
thấy các chấm nổi. Gia đình có thể làm cách này giúp trẻ có kỹ năng sờ chấm nổi.
Phương pháp rèn luyện cách sờ để nhận biết vật thể
- Sờ bằng hai tay: giai đoạn đầu buộc trẻ phải sờ bằng hai tay đạt tới mức kỹ xảo,
thói quen mới có thể sờ bằng một tay. Sờ bằng hai tay cho ta hình ảnh trọn vẹn, mở rộng
trường xúc giác, sờ bằng hai tay vừa chính xác vừa nhanh, có thể nhanh gấp 1,5 đến 2 lần
sờ bằng một tay;
- Sờ bằng một tay: sử dụng khi nhận biết những vật thể nhỏ bé như quả táo, chiếc
cốc, những nốt sần trên vật thể. Sờ bằng một tay cho phép có kết quả một cách tương đối:
thời gian sờ chậm hơn, hình ảnh đem lại thiếu trọn vẹn.
Các bước tiến hành rèn luyện sờ (chú ý tư thế ngồi hoặc sờ)
- Thông báo cho trẻ biết trước nhiệm vụ cần được thực hiện để trẻ an tâm, cần chú
trọng khâu an toàn khi sờ con vật sống, cách thức sờ hiện vật.
- Đặt đối tượng sờ đúng chiều, như sờ bức tranh nổi: phía đầu lên trên, phía chân đặt
xuống dưới
- Giúp trẻ hướng đúng vào vật quan sát, đúng chỗ quan sát
- Sờ khái quát toàn vật thể cần quan sát, để tách đường viền với xung quanh, sau đó
sờ chi tiết để thấy vị trí, đặc điểm của mỗi bộ phận theo đặc điểm, hình dạng, độ lớn của vật
cần quan sát mà yêu cầu trẻ vận động một hoặc hai tay theo hướng nào khi sờ.
Những vật thể có hình đối xứng, chuyển động hai tay ngược chiều nhau
Nếu vật thể không đối xứng thì dùng một tay cố định là điểm xuất phát của tay kí,
tay kia sờ theo đường viền, để rổi trở lại điểm xuất phát. Sau đó đổi tay để hình ảnh được
xuất hiện trọn vẹn trên não bộ của trẻ.
Trong khi sờ, các ngón tay phải chuyển động nhiều (sờ đi, sờ lại) để vừa phát hiện
vừa ghi nhớ, vừa thực hiện những thao tác của tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh).
Kích thích và luyện tập xúc giác ở các mức độ khác nhau
Để hiểu các thông tin xúc giác, có quan niệm cho rằng người ta cần nhất hai đặc
tính là xúc giác bề mặt da và cảm giác nhận cảm.
Nhận biết xúc giác: có thể hiểu là khả năng trải nghiệm thụ động và tích cực, nhận biết các
kích thích xúc giác theo bất kỳ dạng nào dẫn tới chức năng xúc giác trở thành sự tương tác
giữa sự tiếp xúc tích cực, có mục đích và sự phân tích các kích thích tiếp xúc đó nhằm đem
lại một đáp ứng tương ứng.
Các dấu hiệu báo động:
- 20 -
Có một số dấu hiệu báo động liên quan đến chức năng xúc giác. Trong đó có hai
dấu hiệu quan trọng là sự bảo vệ xúc giác và sự giảm độ nhạy cảm xúc giác. Dấu hiệu bảo
vệ xúc giác xuất hiện là do một kích thích sai nào đó dẫn đến sự khó chịu hoặc thậm chí
làm đau đớn khiến trẻ cố gắng tránh tiếp xúc (chủ động) và cố gắng để cho trẻ không phải/
không bị tiếp xúc (thụ động). Ví dụ: trẻ cảm nhận thấy hơi nước bốc lên từ cốc nước, trẻ có
thể đoán là nước nóng, không dám sờ vào cốc nước. Khi bị chạm vào đồ vật thấy đau, trẻ
rụt tay lại hoặc có thể có các phản ứng tự vệ khác
Sự giảm độ nhạy cảm xúc giác: cơ chế này xuất hiện khi có một kích thích sai nào
đó tác động (ít kích thích) nhưng kích thích này kém, không đủ mạnh nên trẻ phải tìm đến
những kích thích mạnh hơn để cảm nhận được. Nhiều khi sự kém nhạy cảm xúc giác này
đòi hỏi trẻ cần những kích thích mạnh dẫn đến những tổn thương hoặc đau đớn đối với trẻ.
Như đã trình bày ở trên, chúng ta dạy trẻ mù các kỹ năng xúc giác trong chương
trình học. Nhưng mỗi trẻ lại có nhu cầu mức độ luyện tập khác nhau, điều đáng quan tâm ở
đây là làm thế nào để việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_mon_dai_cuong_ve_giao_duc_tre_khiem_thi_phan_1.pdf