Kế toán vốn pháp định
Vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước do Ngân sách Nhà nước cấp khi
thành lập Ngân hàng Nhà nước và được điều chỉnh theo từng thời kỳ (hiện nay
vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước được quy định là 5000 tỷ đồng)
Số vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước được quản lý tập trung tại Ngân
hàng Nhà nước Trung ương để đảm bảo hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
theo luật định.398
Tại Vụ Kế toán - Tài chính NHNN khi vốn pháp định do Nhà nước cấp, căn
cứ các chứng từ cấp thích hợp sẽ kiểm soát lại và hạch toán tăng vốn pháp định:
Nợ: TK thích hợp
Có: TK vốn pháp định (Số hiệu 601)
Việc hạch toán giảm vốn pháp định phải theo quyết định của Chính phủ
khi có những thay đổi lớn. Ngân hàng Nhà nước không được tuỳ tiện ghi giảm
vốn pháp định
268 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 440 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn học Kế toán ngân hàng (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nợ (thu < chi), ghi:
Nợ: TK liên hàng đi hay chuyển tiền đi
Có: TK chênh lệch thu, chi năm trước (TK 692)
4.2.2. Kế toán tại Vụ Kế toán - Tài chính Ngân hàng Nhà nước
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Vụ Kế toán - Tài chính có trách
nhiệm tập hợp chênh lệch thu chi trong toàn hệ thống và tiến hành trích lập quỹ,
nộp chênh lệch thu, chi tài chính cho Ngân sách Nhà nước.
4.2.2.1. Tập hợp chênh lệch thu, chi tài chính toàn hệ thống.
Nhận được các chuyển tiền từ các chi nhánh và đơn vị trực thuộc chuyển
tới, Vụ Kế toán - Tài chính hạch toán khôi phục chênh lệch thu, chi tài chính vào
tài khoản 692 “Chênh lệch thu chi năm trước” toàn hệ thống (Số hiệu 692).
- Nhận các chuyển tiền dư Có TK 692 từ chi nhánh, ghi:
Nợ: TK chuyển tiền đến
Có: TK 692 toàn hệ thống
- Nhận các chuyển tiền dư Nợ TK 692 từ chi nhánh, ghi:
Nợ: TK 692 toàn hệ thống
Có: TK chuyển tiền đến
Sau khi tập hợp hết các chuyển tiền từ các chi nhánh, đơn vị trực thuộc,
tài khoản 692 toàn hệ thống có thể dư Có hoặc có thể dư Nợ
+ Nếu TK 692 dư Có tức là toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước
thu lớn hơn chi lãi
411
+ Nếu TK 692 dư Nợ tức là toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước thu
nhỏ hơn chi lỗ
Trích lập quỹ và nộp Ngân sách Nhà nước.
a. Trích lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo Luật định, hàng năm Ngân hàng Nhà nước được lập quỹ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia để phục vụ điều hành thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia. Quỹ này được trích bằng 10% chênh lệch giữa tổng thu nhập trừ tổng
chi phí (nếu tổng thu lớn hơn tổng chi).
Công thức tính:
Quỹ thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia
= Số dư Có tài khoản 692 toàn hệ thống x 10%
Ví dụ:
Dư Có TK 692 toàn hệ thống là 500 tỷ, vậy quỹ thực hiện chính sách
TTQG là:
500 tỷ x10% = 50 tỷ
Sau khi tính toán được số tiền trích lập quỹ, kế toán lập phiếu chuyển
khoản, hạch toán:
Nợ: TK 692 toàn hệ thống
Có: TK “quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia” (Số hiệu 621)
b. Nộp chênh lệch thu chi vào Ngân sách nhà nước.
Sau khi hoàn thành trích lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, số
còn lại phải nộp hết cho Ngân sách Nhà nước. Theo ví dụ trên số tiền phải nộp
Ngân sách Nhà nước là :
500 tỷ – 50 tỷ = 450 (tỷ)
Hạch toán nộp Ngân sách Nhà nước:
Nợ TK 692 toàn hệ thống
Có TK thích hợp
412
- Tài khoản tiền gửi của Kho bạc Nhà nước (nếu trước đây chưa
tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước)
- Hoặc tài khoản tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước (nếu trước
đây đã tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước)
Trường hợp trước đây tạm ứng nộp Ngân sách Nhà nước còn thiếu thì
hạch toán nộp thêm số chênh lệch thiếu. Nếu tạm ứng nộp thừa thì Ngân sách
Nhà nước sẽ thoái trả số tạm ứng nộp thừa.
Sau khi hoàn thành hạch toán trích lập quỹ thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia và nộp Ngân sách Nhà nước tài khoản 692 được tất toán.
Phản ánh bút toán tiếp nhận số dư TK 692 và phân phối chênh lệch thu,
chi trên sơ đồ tài khoản chữ T tại Ngân hàng Nhà nước:
413
x x
x x
x x
x x
5. Lập kế hoạch tài chính trong Ngân hàng Nhà nước
Năm tài chính của Ngân hàng Nhà nước bắt đầu từ ngày 1/1và kết thúc
vào cuối ngày 31/12 năm dương lịch. Trong năm tài chính Ngân hàng Nhà nước
phải xây dựng kế hoạch tài chính theo quy định.
Các kế hoạch tài chính chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước lập hàng năm
theo hướng dẫn của Bộ Tài chính gồm:
Kế hoạch thu nhập và chi phí (kèm theo thuyết minh chi tiết về các
mục thu chi và các định mức chi tiêu cụ thể dự kiến cho năm kế hoạch)
Kế hoạch xây dựng cơ bản và mua sắm tài sản cố định (kèm theo
thuyết minh chi tiết về dự kiếm xây dựng cơ bản và cân đối các nguồn vốn).
Kế hoạch biên chế - tiền lương - thu nhập.
TK 692
Toàn hệ thống ngõn
hàng Nhà nước
TK 621
“quỹ thực hiện
CSTT quốc gia”
TK chuyển tiền
đến bên Nợ
TK ti n g i
KBNN
TK chuyển tiền
đến
Tập hợp thu > chi
Trích quỹ thực hiện CSTT
Tập hợp thu < chi
Nộp chênh lệch
thu > chi vào NSNN
414
Câu hỏi
1. Đặc điểm cơ chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước?
2. Vì sao trong Ngân hàng Nhà nước không áp dụng nguyên tắc tính dồn
tích (dự thu, dự trả lãi)
3. Các khoản thu nhập và chi phí của Ngân hàng Nhà nước có những đặc
điểm gì? Cách hạch toán các khoản thu nhập, chi phí.
4. Sự khác nhau giữa phân phối lợi nhuận của ngân hàng thương mại so
với phân phối chênh lệch thu, chi tài chính của Ngân hàng Nhà nước?
Tài liệu đọc thêm
- Nghị định số 100/1998/NĐ - CP ngày 10/12/1998 của Chính phủ về
chế độ tài chính của Ngân hàng Nhà nước.
- Thông tư số 111/1999/TT - BTC của Bộ Tài chính ngày 17/9/1999.
1
CHƯƠNG XI
KẾ TOÁN THANH TOÁN VỐN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG
----------------------------------------------
1 - Những vấn đề chung về tổ chức thanh toán vốn giữa các ngân hàng
1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của thanh toán vốn giữa các ngân hàng
1.1.1. Sự cần thiết
Trong chương IV chúng ta đã đề cập đến các phương thức và kỹ thuật
sử dụng các công cụ thanh toán qua ngân hàng, theo đó khi hai khách hàng đều
có tài khoản tại ngân hàng thì việc trả tiền cho nhau chính là việc ngân hàng
trích tài khoản của bên trả tiền để chuyển vào tài khoản của bên thụ hưởng.
Điều này tiếp tục đặt ra vấn đề rằng, liệu việc thanh toán của khách hàng có
ảnh hưởng gì đến vốn của ngân hàng và ngân hàng làm thế nào để kiểm soát
chặt chẽ các khoản thanh toán để đảm bảo an toàn tài sản? Trong trường hợp
bên trả tiền và bên thụ hưởng đều mở tài khoản tại một đơn vị ngân hàng (chi
nhánh, sở giao dịch) thì đương nhiên là không có tác động gì và việc kiểm soát
không gặp phải khó khăn lớn, nhưng nếu bên trả tiền và bên thụ hưởng mở tài
khoản ở hai đơn vị ngân hàng khác nhau cùng hệ thống hoặc khác hệ thống
ngân hàng thì không những ngân hàng phục vụ bên trả tiền và ngân hàng phục
vụ bên thụ hưởng không chỉ phải thực hiện việc thanh toán tiền theo yêu cầu
của khách hàng mà còn phải thanh toán về vốn với nhau đầy đủ, chính xác và
kịp thời, đồng thời phải có biện pháp thích hợp để kiểm soát tính xác thực của
các khoản thanh toán nhằm đảm bảo an toàn tài sản. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu và xác lập phương thức, quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng là hết sức
cần thiết trong hoạt động ngân hàng.
Thanh toán giữa các ngân hàng là nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các
ngân hàng nhằm tiếp tục hoàn thành quá trình thanh toán giữa các xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, cá nhân với nhau mà họ không cùng mở tài khoản tại một ngân
hàng hoặc thanh toán vốn trong nội bộ các hệ thống ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng, các ngân hàng
liên quan không những phải tiếp tục hoàn thành quá trình việc thanh toán tiền
2
cho các khách hàng mà còn phải tiến hành thanh toán vốn với nhau một cách
đầy đủ và kịp thời.
1.1.2. ý nghĩa:
Thanh toán giữa các ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn:
- Thể hiện chức năng tập trung thanh toán của ngân hàng đối với nền
kinh tế quốc dân và điều hòa vốn trong nội bộ ngân hàng.
- Thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng chính là thực
hiện được yêu cầu của công tác thanh toán không dùng tiền mặt: Nhanh chóng,
chính xác, an toàn tài sản, tăng nhanh vòng quay của vốn.
- Giảm chi phí lưu thông do không phải vận chuyển tiền mặt từ nơi này
đến nơi khác; Giảm chi phí kiểm đếm, giao nhận tiền; Tạo điều kiện để các
ngân hàng sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả.
- Tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước thực thi có hiệu quả chính
sách tiền tệ thông qua việc tăng cường quản lý vốn khả dụng và làm cho các
giao dịch trên thị trường liên ngân hàng diễn ra mạnh mẽ, sôi động hơn. Điều
này chỉ có thể có được do hiện đại hoá các hệ thống thanh toán sẽ dẫn đến việc
quản lý tập trung các tài khoản thanh, quyết toán của các Tổ chức tín dụng mở
tại Trung ương và đẩy nhanh tốc độ xử lý thanh quyết toán.
Để làm tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng đòi hỏi ngân hàng
phải cải tiến thể lệ, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp với
yêu cầu của việc trao đổi thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của toàn xã hội.
Tăng cường trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ thanh toán nhanh chóng, chính
xác, cải tiến việc điều hành và quản lý vốn trong ngân hàng. Chính vì vậy mà
làm cho hoạt động ngân hàng phát triển phong phú về trình độ và cơ sở vật
chất kỹ thuật.
1.2. Điều kiện để tổ chức thanh toán giữa các ngân hàng
Do tính chất phức tạp của nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng nên
khi tổ chức thực hiện mặt nghiệp vụ này cần phải có các điều kiện sau đây:
1.2.1. Điều kiện về pháp chế
Thanh toán giữa các ngân hàng có liên quan đến việc chuyển giao quyền
sở hữu vốn giữa các ngân hàng nên nghiệp vụ này phải được điều chỉnh bởi
các văn bản pháp quy của Nhà nước và của NHNN. Theo đó, phải xây dựng
3
một hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ về chuyển tiền điện tử, thanh toán
bù trừ điện tử, về chữ ký điện tử, về sử dụng dữ liệu trên các vật mang tin hoặc
truyền qua mạng máy tính trong hạch toán kế toán v.v... để các ngân hàng vận
dụng trong việc tổ chức hệ thống thanh toán của mình cũng như là tham gia
vào hệ thống thanh toán Liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức.
1.2.2. Điều kiện về mô hình tổ chức và hoạt động
Trước hết phải xây dựng được các hệ thống thanh toán phù hợp với mô
hình tổ chức và hoạt động của các ngân hàng. Các hệ thống thanh toán phải
đáp ứng yêu cầu thanh toán vốn trong điều kiện từng bước hiện đại hoá công
nghệ NH, tiến tới hội nhập với khu vực và quốc tế.
Phải có đội ngũ cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, có chuyên môn
nghiệp vụ tốt, hiểu biết và sử dụng thành thạo các máy móc, trang thiết bị tin
học.
1.2.3. Điều kiện về kỹ thuật
Phải có đầy đủ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật như hệ thống máy vi
tính cùng các thiết bị ngoại vi, chương trình phần mềm tin học, đường truyền,
trụ sở - để đảm bảo thanh toán nhanh, chính xác, an toàn tài sản, tiết kiệm chi
phí.
1.2.4. Điều kiện về vốn trong thanh toán
Các đơn vị tham gia thanh toán phải có đầy đủ vốn để đảm bảo thanh
toán kịp thời, sòng phẳng các khoản thanh toán qua lại với nhau. Vốn để đảm
bảo thanh toán gồm:
- Dự trữ thanh khoản bằng tiền mặt.
- Tiền gửi thanh toán tại NHNN và các TCTD khác.
- Vay NHNN hoặc các TCTD khác.
1.3. Các hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam
Tổ chức hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng ở Việt Nam gắn liền
với việc hoàn thiện mô hình tổ chức của các hệ thống ngân hàng Việt Nam qua
các thời kỳ:
- Thời kỳ trước năm 1989: Thời kỳ này hệ thống ngân hàng Việt Nam
tổ chức thành ngân hàng 1 cấp (không tách biệt giữa NHNN và các TCTD),
nên hệ thông thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân hàng cũng chỉ có một hệ
4
thống. Phương thức thanh toán vốn giữa các NH được sử dụng là phương thức
thanh toán liên chi nhánh ngân hàng, trong đó các chi nhánh trong hệ thống
trực tiếp chuyển tiền thanh toán vốn với nhau, ngân hàng trung ương làm
nhiệm vụ kiểm soát, đối chiếu liên hàng cho toàn hệ thống.
- Thời kỳ từ 1989 đến nay: Thời kỳ này nền kinh tế nước ta đã chuyển
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, theo đó hệ thống NH
1 cấp cũng được chuyển thành NH 2 cấp với nhiều hệ thống khách nhau như
hệ thống NH Nhà nước, các hệ thống Ngân hàng thương mại... Việc cân đối
vốn, điều hoà vốn được tổ chức theo từng hệ thống, do vậy mỗi hệ thống NH
đã tổ chức 1 hệ thống thanh toán để giải quyết quan hệ thanh toán trong nội bộ
hệ thống.
Ngoài thanh toán nội bộ của từng hệ thống NH, có hệ thống thanh toán
liên ngân hàng để giải quyết quan hệ thanh toán vốn giữa các đơn vị ngân hàng
khác hệ thống.
Trong thời kỳ kinh tế mở, mối quan hệ kinh tế giữa các vùng, miền, khu
vực không ngừng tăng lên. Khoa học tính toán, kỹ thuật điện tử không ngừng
phát triển nên xu hướng chung là phải mở rộng hệ thống thanh toán liên ngân
hàng với các trung tâm thanh toán hiện đại để đảm bảo thanh toán liên ngân
hàng trong phạm vi khu vực và toàn quốc đạt hiệu quả cao.
Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng ở Việt Nam hiện
nay tương đối phong phú, gồm:
+ Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống (bằng giấy
và điện tử).
+ Thanh toán bù trừ khác hệ thống (bằng giấy và điện tử).
+ Thanh toán điện tử liên ngân hàng
+ Uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ.
+ Mở tài khoản lẫn nhau để thanh toán.
Sau đây trình bày khái quát nội dung các phương thức thanh toán:
1.3.1. Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng (TTLCNNH)
Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng là phương thức thanh toán vốn
giữa các chi nhánh ngân hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng.
5
Thực chất của thanh toán liên chi nhánh ngân hàng là việc chuyển tiền
từ chi nhánh ngân hàng này đến chi nhánh ngân hàng khác để phục vụ thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ của hai khách hàng (mua và bán) khi cả hai khách
hàng không cùng mở tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng: hoặc là chuyển cấp
vốn, điều hoà vốn trong nội bộ một hệ thống ngân hàng.
Tuỳ theo đặc điểm của từng hệ thống ngân hàng để tổ chức hệ thống
thanh toán liên chi nhánh ngân hàng một cách thích hợp. Chẳng hạn có những
hệ thống ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán liên chi nhánh ngân hàng toàn
hệ thống, nhưng có một số hệ thống ngân hàng bên cạnh hệ thống TTLCNNH
toàn hệ thống, có thời gian, các ngân hàng còn thiết lập thêm hệ thống
TTLCNNH nội tỉnh để phục vụ cho việc thanh toán giữa các chi nhánh ngân
hàng trong cùng một tỉnh, một thành phố và thực hiện kiểm soát, đối chiếu liên
chi nhánh ngân hàng nội tỉnh theo sự uỷ quyền của cấp TW (Hội sở chính).
Hiện nay ở Việt Nam có các hệ thống TTLCNNH sau:
1- Hệ thống TTLCNNH (chuyển tiền điện tử) của NHNN.
2- Các hệ thống TTLCNNH của 4 ngân hàng thương mại nhà nước
3- Các hệ thống TTLCNNH của các ngân hàng thương mại cổ phần.
4- Các hệ thống TTLCNNH của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
5- Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước.
Vấn đề mấu chốt của TTLCNNH là phải xác định phương thức kiểm
soát và đối chiếu trong thanh toán, bởi lẽ kiểm soát và đối chiếu trong
TTLCNNH chẳng những đảm bảo cho số liệu trong TTLCNNH được hoàn
toàn chính xác, an toàn tài sản mà còn kiểm soát nguồn vốn của các đơn vị
ngân hàng tham gia thanh toán (các chi nhánh ngân hàng tuy là những đơn vị
trực thuộc những là đơn vị hạch toán nội bộ nên khi tham gia thanh
TTLCNNH phải có nguồn vốn để đảm bảo cho các khoản thanh toán của đơn
vị mình). Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam và để từng bước hội
nhập với các ngân hàng khu vực và quốc tế, ngân hàng Việt Nam đã áp dụng 3
phương thức kiểm soát, đối chiếu:
- Từ năm 1951 (khi thành lập NHQG Việt Nam) đến năm 1962 áp dụng
phương thức "Đại lý liên hàng". Nội dung chủ yếu của phương thức này là các
chi nhánh ngân hàng trực tiếp gửi chuyển tiền cho nhau, ngân hàng TW làm
6
nhiệm vụ kiểm soát và đối chiếu thông qua các tài khoản liên hàng phản ánh
trên bảng cân đối tài khoản hàng tháng của các chi nhánh gửi về NHTW.
- Từ năm 1963 đến nay áp dụng 2 phương thức là "Kiểm soát tập trung,
đối chiếu phân tán" và "Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung". Cả 2 phương
thức đều áp dụng mô hình chữ "V" ngược. Theo mô hình này thì ngoài 2 chi
nhánh tham gia thanh toán còn có trung tâm thanh toán làm nhiệm vụ kiểm
soát, đối chiếu tất cả các khoản chuyển tiền thanh toán trong hệ thống và theo
dõi nguồn vốn của các chi nhánh để thực hiện thanh toán vốn giữa các chi
nhánh khi có một khoản chuyển tiền thanh toán xảy ra.
+ Phương thức "Kiểm soát tập trung, đối chiếu phân tán": Theo phương
thức này, các chi nhánh trực tiếp gửi chuyển tiền cho nhau, trung tâm thanh
toán làm nhiệm vụ kiểm soát tất cả các chuyển tiền sau đó lập sổ đối chiếu gửi
các chi nhánh nhận chuyển tiền để ngân hàng này đối chiếu (đối chiếu phân
tán ở các ngân hàng nhận chuyển tiền)
Sơ đồ phương thức "Kiểm soát tập trung, đối chiếu phân tán"
Phương thức này áp dụng trong TTLCNNH truyền thống.
+ Phương thức "Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung": Theo
phương thức này, ngân hàng chuyển tiền gửi chuyển tiền cho ngân hàng nhận
chuyển tiền thông qua Trung tâm thanh toán (truyền qua mạng), Trung tâm
1- NH chuy n ti n g i chuy n ti n cho NH nh n ti n qua b u i n.
2- NH chuy n ti n g i gi y báo chuy n ti n cho TTTT ki m soát.
3- TTTT sau khi ki m soát l p s i chi u g i NH nh n
Trung tâm thanh
toán
Ngân h ng
chuy n ti n
Ngân h ng
nh n ti n
(2) (3)
(1)
7
thanh toán làm nhiệm vụ kiểm soát và đối chiếu tất cả các chuyển tiền trong
toàn hệ thống.
Sơ đồ phương thức "Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung".
Phương thức kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung được áp dụng
trong thanh toán liên hàng điện tử.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và những ứng dụng rộng rãi của
nó trong lĩnh vực ngân hàng đã tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam
chuyển từ thanh toán liên hàng truyền thống sang thanh toán liên hàng điện tử
nhằm xử lý các khoản thanh toán chuyển tiền một cách nhanh chóng, chính
xác, an toàn và quản lý chặt chẽ vốn trong thanh toán.
1.3.2. Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng
Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng (TTBT) là phương thức thanh
toán vốn giữa các ngân hàng được thực hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu,
phải trả và trên cơ sở đó chỉ thanh toán với nhau số chênh lệch (kết quả bù
trừ). TTBT phát sinh trên cơ sở các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ của hách
hàng mở TK ở các NH khác nhau hoặc thanh toán vốn của bản thân ngân
hàng. TTBT được áp dụng giữa các ngân hàng khác hệ thống với nhau (TTBT
khác hệ thống) hoặc có thể áp dụng giữa các đơn vị ngân hàng thuộc cùng một
1- NH chuy n ti n g i chuy n ti n qua m ng v TTTT TTTT chuy n
ti p v NH nh n
2- TTTT truy n chuy n ti n v NH nh n
3- Cu i ng y TTTT i chi u cho t t c các NH
4- Các NH xác nh n i chi u g i TTTT
Trung tâm thanh toán
Ngân h ng chuy n
ti n
Ngân h ng nh n
chuy n ti n
(3) (4)
(1) (2)
(4) (3)
8
hệ thống ngân hàng (TTBT cùng hệ thống). Tùy thuộc vào phương pháp trao
đổi chứng từ, chuyển số liệu mà có cơ chế TTBT trên cơ sở chứng từ giấy
(TTBT giấy) và TTBT điện tử.
TTBT giấy có một số đặc trưng về tổ chức và kỹ thuật nghiệp vụ như
sau:
- Các ngân hàng, tổ chức tín dụng và Kho bạc Nhà nước, kể cả các chi
nhánh và đơn vị trực thuộc được phép làm dịch vụ thanh toán (sau đây gọi
chung là ngân hàng) tham gia TTBT được gọi là ngân hàng thành viên. Các
ngân hàng thành viên phải mở tài khoản tại ngân hàng chủ trì. Đối với TTBT
khác hệ thống thì các ngân hàng thành viên phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng chủ trì là NHNN trên địa bàn.
- Ngân hàng chủ trì chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả thanh toán của
các ngân hàng thành viên và thanh toán số chênh lệch trong TTBT cho từng
ngân hàng thành viên. Ngân hàng chủ trì được quyền chủ động tính TK tiền
gửi của các NH thành viên để thanh toán.
- TTTB có thể tổ chức trong phạm vi địa bàn (nội thành, nội thị và các
đơn vị NH lân cận có cự li gần để đảm bảo giao nhận chứng từ TTBT theo
phiên giao dịch trong ngày). Hoặc có thể tổ chức TTBT theo khu vực hay toàn
quốc (khi đã thực hiện TTBT điện tử, nối mạng trực tiếp giữa các NH thành
viên và trung tâm TTBT).
- Về luân chuyển chứng từ:
+ Thanh toán bù trừ truyền thống (luân chuyển chứng từ giấy). Tuỳ theo
hình thức hoạt động của các ngân hàng thành viên trong địa bàn để quy định
phiên giao nhận chứng từ trong ngày. Đến giờ giao nhận chứng từ, các NH
thành viên phải mang các chứng từ TTBT đến địa điểm giao dịch (tại NH chủ
trì) để giao, nhận chứng từ giữa các ngân hàng thành viên và giữa NH thành
viên với NH chủ trì.
+ Thanh toán bù trừ điện tử: Qua mạng máy tính, các NH thành viên
truyền chứng từ điện tử đến Trung tâm TTBT để thực hiện TTBT theo chương
trình phần mềm TTBT điện tử.
1.3.3. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước:
9
Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN được áp dụng trong thanh
toán qua lại giữa hai ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống đều có
tài khoản tiền gửi tại NHNN (cùng hoặc khác chi nhánh, Sở giao dịch NHNN).
Các khoản thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN của các ngân hàng
cũng đều phát sinh trên cơ sở các khoản thanh toán của khách hàng và của nội
bộ các ngân hàng như các khoản điều chuyển vốn, các khoản vay trả giữa các
ngân hàng với nhau.
Để các ngân hàng thực hiện thanh toán qua TK tiền gửi tại NHNN, trên
cơ sở chứng từ giấy, cần có các điều kiện sau:
- Các ngân hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch hoặc chi
nhánh NHNN và phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký trong giao dịch thanh toán với
NHNN nơi mở tài khoản.
- Dấu và chữ ký trên chứng từ thanh toán và bảng kê chứng từ thanh
toán qua NHNN phải đúng với mẫu đã đăng ký với NHNN nơi mở tài khoản.
- Tài khoản tiền gửi tại NHNN của ngân hàng trả tiền (ngân hàng phát
sinh nghiệp vụ thanh toán) phải có đủ số dư để bảo đảm thanh toán kịp thời.
1.3.4. Thanh toán theo phương thức uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ
Uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ là một phương thức thanh toán giữa hai ngân
hàng theo sự thoả thuận và cam kết với nhau, ngân hàng này sẽ thực hiện thu
hộ hoặc chi hộ cho ngân hàng kia trên cơ sở các chứng từ thanh toán của các
khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng kia.
Phạm vi áp dụng: Phương thức này được áp dụng trong thanh toán:
- Giữa 2 đơn vị ngân hàng trong cùng hệ thống; và
- Giữa 2 ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống.
Để tiến hành thanh toán theo phương thức uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ, hai
ngân hàng phải ký hợp đồng để thống nhất với nhau về nguyên tắc, thủ tục và
nội dung thanh toán. Các nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được
hạch toán vào tài khoản thu hộ, chi hộ giữa các ngân hàng. Theo định kỳ thoả
thuận, hai ngân hàng đối chiếu doanh số phát sinh và số dư tài khoản thu, chi
hộ để thanh toán cho nhau và tất toán số dư của tài khoản này.
1.3.5. Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán
Phạm vi áp dụng: Phương thức này được áp dụng trong thanh toán:
10
- Giữa 2 đơn vị ngân hàng trong cùng hệ thống; và
- Giữa 2 ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống.
Điều kiện để thực hiện thanh toán: Để thanh toán theo phương thức này
đòi hỏi ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng này (sau đây gọi chung là ngân
hàng) phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng kia hoặc ngược lại, thanh toán
theo phương thức này đòi hỏi phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký của người có
thẩm quyền ra lệnh thanh toán qua tài khoản tiền gửi.
1.3.6. Thanh toán điện tử liên ngân hàng: Cho đến nay, thanh toán điện
tử liên ngân hàng đã và đang được Ngân hàng Nhà nước triển khai trên phạm
vi toàn quốc theo hai phân hệ là Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và
Thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng.
a/ Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (hệ thống TTĐTLNH): là
hệ thống thanh toán tổng thể, bao gồm hệ thống bù trừ liên ngân hàng, hệ
thống xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán và cổng giao diện với hệ thống
chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống TTĐTLNH hiện đã
được triển khai tại Trung ương (Sở Giao dịch NHNN) và 05 tỉnh, thành phố là
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Tp. Hồ Chí Minh. Hệ thống
TTĐTLNH có các đặc trưng sau đây:
- Về mô hình tổ chức:
Hệ thống TTĐTLNH có Trung tâm thanh toán quốc gia đặt tại Hà Nội,
Trung tâm này thực hiện các chức năng tiểu hệ thống giá trị cao, chuyển mạch
tiểu hệ thống giá trị thấp, xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán; giao diện với hệ
thống chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước và các chức năng kiểm tra
hệ thống bao gồm phần cứng, phần mềm và truyền thông. Kết nối với Trung
tâm thanh toán quốc gia có các Trung tâm xử lý tỉnh - đặt tại một số chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước,
thực hiện chức năng xử lý các lệnh thanh toán của tiểu hệ thống giá trị thấp và
chuyển mạch tiểu hệ thống giá trị cao trong phạm vi hệ thống TTLNH.
Các thành viên trực tiếp của hệ thống TTĐTLNH là các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán có đủ điều kiện và được chấp nhận tham gia hệ thống
TTLNH. Các thành viên trực tiếp phải có tài khoản tài khoản tiền gửi thanh
toán tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước và phải đăng ký danh sách các chi
11
nhánh trực thuộc của mình (gọi là đơn vị thành viên) tham gia TTĐTLNH để
được kết nối trực tiếp vào hệ thống. Ngoài ra, hệ thống còn có các thành viên
gián tiếp. Thành viên gián tiếp là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
được tham gia hệ thống TTLNH thông qua thành viên trực tiếp.
- Về kỹ thuật nghiệp vụ xử lý thanh, quyết toán: Hệ thống TTLNH xử
lý các lệnh thanh toán giá trị cao hoặc khẩn thông qua tài khoản tiền gửi thanh
toán của ngân hàng thành viên mở tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước theo
phương thức quyết toán tổng tức thời. Đối với các lệnh thanh toán giá trị thấp
sẽ được xử lý thông qua thanh toá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_mon_hoc_ke_toan_ngan_hang_phan_2.pdf