1) Lấy một ống pipet pastơ hơ trên ngọn lửa đèn cồn, kéo thành ống rất nhỏ,
dài khoảng 4cm, gắn vào ống sắt trên cục nam châm D ( cố định bằng parafin
nóng chảy).
2) Cố định phần dụng cụ B vào vật kính 10
3) Gắn nam châm có ống thuỷ tinh vào rãnh kim loại của dụng cụ B.
4) Di chuyển phần thiết bị có gắn cục nam châm lên xuống cho đến khi nhìn
thấy đầu ống thuỷ tinh ở giữa vi trƣờng.
5) Gắn đầu kim hàn E vào biến thế A và đặt vào vị trí đặt tiêu bản của kính
hiển vi.
6) Chỉnh kính, tìm vi trƣờng, quan sát đầu kim hàn, điều chỉnh sao cho đầu
que hàn và ống thuỷ tinh sát nhau và đều quan sát đƣợc dƣới kính hiển vi.
7) Bật biến thế A nấc cao để đầu que hàn nóng đỏ và tiến về phía ống thuỷ
tinh, ấn que hàn chạm vào ống thuỷ tinh để ống thuỷ tinh bắt đầu nóng chảy,
kéo nhanh ống thuỷ tinh khỏi kim hàn tạo thành que thuỷ tinh thuôn nhọn.
8) Hạ nhiệt độ que hàn bằng cách giảm biến thế, dùng đầu que hàn chạm
nhẹ vào đầu que thuỷ tinh kéo nhẹ tạo thành hình chữ L.
Giờ đây ta có thể bắt đầu thực hành lấy từng bào tử đơn độc trên đĩa thạch.
713 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn Vi sinh vật học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được bao bọc bởi màng sinh
chất. Hai vi ống giữa xuất phát từ đĩa gốc (dense plates) và thể gốc (basal
body).
Màng sinh chất cũng giống như ở các sinh vật khác. Trong tế bào chất có
nhiều bào quan khác nhau. Sắc lạp (chromoplast) của tảo có cấu tạo như ở
thực vật, gồm hai lớp màng bao bọc, bên trong có chất nền (stroma) cùng với
hệ thống các túi dẹt gọi lầ thylakoid. Các thylakoid xếp chồng lên nhau tạo
thành loại cấu trúc giống như grana ở thực vật. Trên màng của thylakoid có
nhiều chất diệp lục (chlorophyll) và các enzim tham gia vào quá trình quang
hợp. Ngoài chất diệp lục (a,b,c,d) còn có thể có các sắc tố carotenoid, phổ biến
nhất là b-caroten. Nhiều tảo chứa sắc tố xanthophyll, phycobiliprotein...Trong
chất nền của sắc lạp còn có ADN dạng vòng và ribôsom. Đôi khi cắc lạp có một
vùng đậm đặc protein liên kết với các sản phẩm dự trữ tạo thành một cấu trúc
gọi là nhân tinh bột hay nhân protein (pyranoid). Sắc lạp còn có chứa các giọt
lipid nhỏ nằm giữa các thylakoid. Một số tảo còn có thêm một hai lớp mạng
lưới nội chất lục lạp (CER- chloroplast endoplasmic reticulum). Còn có các vô
sắc lạp gồm leucoplast và amyloplast. Chúng làm nhiệm vụ tích lũy chất dự
trữ. Ty thể của tảo cũng tương tự như ty thể của các sinh vật khác. Đó là bào
quan có hai lớp màng bao bọc, màng ngoài trơn nhẵn còn màng trong ăn sâu
vào phía trong chất nền và tạo thành những mào (crista) trên đó mang nhiều
loại enzim hô hấp. Chất nền của ty thể có chứa ADN và ribosôm. Tế bào của
tảo cũng có thể Golgi (Golgi body) như ở tế bào nhiều sinh vật khác. Đó là các
túi dẹp xếp hầu như song song với nhau và có hình vòng cung, phía lồi gọi là
mặt trans còn phía lõm gọi là mặt cis.Thể Golgi ở tảo làm nhiệm vụ tổng hợp
và tiết ra polysaccharide. Tế bào chất (cytoplasm) của tảo có chứa ribosom
80S và các giọt lipid. Một số tảo di động có các nhóm hạt lipid màu vàng cam
cấu tạo nên các điểm mắt (stigma). Chất dự trữ trong tế bào thuộc về nhiều
dạng khác nhau: tinh bột ở tảo lục, floridean ở Tảo đỏ, laminarian ở Tảo nâu,
leucosin ở Tảo roi Prymnesiophyta, fructosan ở Tảo lục Acetabularia... Ngoài ra
còn có các chất dự trữ phân tử thấp như đường, glycoside, polyol...Tảo có
không bào co rút (contractile vacuoles) giúp cho việc duy trì nước trong tế bào
và laọi bỏ chất thải ra khỏi tế bào.
Nhân tế bào ở tảo cũng không khác mấy so với các tế bào nhân thực
khác nhưng hầu hết là nhân đơn bội. Tảo silic và các pha bào tử thể ở Tảo nâu,
Tảo lục và một số Tảo đỏ có nhân lưỡng bội. Nhân có màng kếp bao bọc,
trong nhân có ADN.
Tảo đơn bào thuộc Tảo lục (Chlorophyta):
Tảo lục đơn bào có chứa chlorophyl a và b, xanthophyll. Hình thái rất khác
nhau, có loại đơn bào, có loại thành nhóm (định hình hay phi định hình), có
loại dạng sợi, có loại dạng màng, có loại dạng ống...Phần lớn có màu lục như
cỏ. Sắc lạp (chromoplast) có thể có hình phiến, hình dải, hình lưới, hình trụ,
hình cốc, hình sao...Thường có 2-6 thylakoid xếp chồng lên nhau. Phần lớn có
1 hay nhiều pyrenoid nằm trong sắc lạp. Nhiệm vụ chủ yếu của pyranoid là
tổng hợp tinh bột. Trên sắc lạp của lục tảo đơn bào hay tế bào sinh sản di động
thường có điểm mắt (stigma hay redeyespot) màu đỏ. Phần lớn tế bào di động
của lục tảo có sợi lông roi (tiên mao) dài bằng nhau và trơn nhẵn (gọi là
Isokontan). Một số loại lông roi ráp vì có lông nhỏ trên mặt. Có loại trên bề
mặt lông roi có 1 hay vài tầng vẩy nhỏ (scale). Lông roi của tế bào di động ở
tảo lục thường có 2 sợi, một số ít có 4 sợi, 8 sợi hay nhiều hơn. Cũng có khi chỉ
có 1 sợi lông roi. Phần lớn tế bào tảo lục có 1 nhân. Một số ít có nhiều nhân
(coenocytic).Thành tế bào của tảo lục chủ yếu chứa cellulose, một số ít chứa
xylan hoặc mannan.
Tảo lục có 3 loại phương thức sinh sản :
- Sinh sản sinh dưỡng: phân cắt tế bào, phân cắt từng đoạn tảo
- Sinh sản vô tính: hình thành các loại bào tử vô tính, như Bào tử tĩnh
(Aplanospore), Bào tử động (Zoospore), Bào tử tự thân (Autosporre), Bào tử
màng dầy (Akinet)
- Sinh sản hữu tính: có Đẳng giao (homogamy), Dị giao (heterogamy) và
noãn giao (oögamy).
Theo tài liệu phân loại của H.C.Bold , M.J. Wynne (Introduction to Algae,
Prentice Hall Inc., 1985) thì ngành Tảo lục (Chlorophyta) chỉ gồm 1 lớp là
Chlorophyceae, trong đó có 16 bộ.
Tiến hóa của các bộ trong ngành Tảo lục theo Prescott (1968) có thể
trình bày như sau:
Vi tảo thường thuộc về 2 bộ là Volvocales và Chlorococcales:
Bộ Volvocales gồm các vi tảo có lông roi , đơn bào hay thành nhóm ,
có dạng phân cắt bắc cầu (desmoschisis)
Bộ Chlorococcales gồm các vi tảo không có tiên mao, đơn bào hay
thành nhóm , có dạng phân cắt tách rời (eleutheroschisis)
Vi tảo trong bộ Volvocales là những đơn bào di động hay những nhóm di
động đa bào có hình dạng nhất định. Quần thể tế bào là bội số của 2. Tế bào
dinh dưỡng có lông roi, di động tự do. Tế bào hình cầu, hình trứng, hình tim,
hình bầu dục, hình viên trụ, hình thoi... cũng có loại có hình vô quy tắc. Một số
loài không có thành tế bào, chỉ là khối nguyên sinh chất trần. Phần lớn có
thành tế bào vững chãi- tầng trong là cellulose, tầng ngoài là pectin. Một số
loại có bao keo liên kết các tế bào thành quần thể. Tế bào thường có 2 lông roi
dài bằng nhau, một số ít có 4 lông roi, một số rất ít có 1, 6 hay 8 lông roi. Tế
bào có 1 hay nhiều sắc lạp, thường có hình chén, cũng có thể có hình phiến,
hình đĩa , hình sao. Rất ít loài vô màu. Sắc lạp có 1 hay vài pyrenoid. Thường
có điểm mắt ở một phía phần trên của tế bào, một số ít có điểm mắt ở giữa
hay ở cuối tế bào. Tế bào dinh dưỡng có nhân đơn bội.
Khi sinh sản vô tính mỗi tế bào mất đi lông roi, nguyên sinh chất trong
tế bào bắt đầu phân cắt tạo ra 2,4,8,19 tế bào. Trong điều kiện môi trường bất
lợi lông roi mất đi hay co lại, đình chỉ di động. tế bào tiết ra một tầng keo sau
đó phân cắt liên tiếp tạo ra một quần thể keo, đa bào, vô định hình, đó là giai
đoạn quần thể keo (palmella stage). Khi môi trường thích hợp trở lại thì mọc ra
lông roi, chuyển sang giai đoạn di động. Các loài nguyên thủy thì mỗi tế bào
đều có thể sinh ra quần thể con. Ở các loài đã phân hóa thành tế bào dinh
dưỡng và tế bào sinh sản thì chỉ có tế bào sinh sản mới có thể sinh ra quần thể
con.
Khi sinh sản hữu tính có loại đẳng giao, dị giao hay noãn giao. Sau khi
giao tử kết hợp sẽ hình thành hợp tử. Hợp tử nảy mầm sẽ sinh ra tế bào con
hay quần thể con.
Sinh sản hữu tính ở vi tảo Chlamydomonas
Trong bộ Volvales có cả thảy 6 họ, đều là vi tảo. Đáng chú ý là các chi
Dunaliella, Tetraselmis, Haematococcus, Chlamydomonas...
Tảo thuộc bộ Chlorococcales là các tảo lục đơn bào hay quần thể không
di động. Tế bào có thể có hình cầu, hình thoi, hình đa giác. Sắc lạp chỉ có 1
hay nhiều, hình chén, hình phiến,đĩa hay hình lưới. Có 1, nhiều hay không có
pyranoid., Tế bào 1 nhân , có lúc có nhiều nhân. Các chi có nhiều ứng dụng
thực tiễn là Chlorella,Scenedesmus,...
Dưới đây là hình vẽ một số đại diện vi tảo trong Tảo lục
(theo ):
1 Dunaliella salina, 2 Chlamydomonas debaryana, 3 Chloromonas tatrae,
4 Chlorogonium elongatum,5 Phacotus lenticularis, 6 Polytoma uvella,
7 Carteria turfosa, 8 Haematococcus pluvialis, 9 Coccomonas orbicularis
1 Gonium sociale, 2 Eudorina elegans, 3 Volvox aureus, 4 Pandorina morum
1 Schizochlamys gelatinosa, 2 Asterococcus superbus,
3 Tetraspora lemmermannii
1 Ankyra ancora, 2 Hydrodictyon reticulatum , 3 Trebouxia arboricola,
4 Characium acuminatum, 5 Chlorococcus multinucleatum,
6 Pediastrum boryanum
1 Monoraphidium griffithii, 2 Ankistrodesmus falcatus, 3 Kirchneriella lunaris, 4
Siderocelis ornata,
5 Lagerheimia wratislawiensis, 6 Oocystis solitaria
1 Crucigenia fenestrata, 2 Tetrastrum staurogeniaeforme, 3 Scenedesmus
quadricauda
1 Ulothrix zonata, 2 Raphidonema nivale, 3 Enteromorpha intestinalis, 4
Pleurococcus vulgaris, 5 Stichococcus bacillaris, 6 Ulva lactuca
1 Draparnaldia glomerata, 2 Fritschiella tuberosa, 3 Coleochaete divergens,
4 Trentepohlia
1 Oedogonium pringsheimii, 2 Bulbochaete elatior
Dưới đây là ảnh chụp một số chi tiêu biểu trong ngành Tảo lục ( theo
:
Những ảnh chụp chi tiết hơn có thể thấy trong các hình sau đây :
Dysmorphococcus Platydorina
Gonium Volvox
Eremosphaera Oedogonium
Kircheneriella Tetraselmis Chlorella
Hydrodiction Pediastrum
Scenedesmus Dunaliella
Coelastrum Haematococcus
Botryococcus Oocystis
Staurastrum Ulothrix
Spirogyra Stigeoclonium
Closterium Codium Chlorococcum
Asterococcus Bryopsis
Pyrobotrys
Sinh sản hữu tính dị phối ở Caulerpa
Cosmarium Micrasterias
Collodiction Pteromonas
Chlorogonium
Spondylomorum Polytoma
Pandorina
Eudorina Pleodorina Lobomonas
Carteria Sphaerellopsis
Chlorobrachys Spermatozopsis Platymonas
Dysmorphococcus Coccomonas
Phacotus Pedinomonas
Pyramidomonas Golenkinia Chodatella
Schroederia Tetraedron
Ankistrodesmus
Micractinium Characium
Selenastrum
Dictyosphaerium Actinastrumm Crucigenia
Westella
Coelastrum
Cosmarium
Elakatothrix
Sphaerocystis Acanthosphaera Polyedriopsis
Treubaria Echinosphaerella Trochiscia
Sorastrum
Errerella Tetrastrum Chaetophora
Sirogonium Triploceras Xanthidium
Onychonema Sphaerozosma Gloeocystis
Scotiella Tetradesmus Gloeotaenium
Ngành Tảo lông roi lệch (Heterokontophyta
hay Chromophyta)
Đây là một ngành lớn bao gồm nhiều nhóm trước đây gọi là ngành như
Tảo vàng ánh, Tảo vàng lục, Tảo slic, Tảo nâu. Các lớp trong ngành là lớp
Chrysophyceae, lớp Xanthophyceae, lớp Bacillariophyceae, lớp Phaeophyceae
1) Lớp Tảo vàng ánh (Chrysophyceae):
Lớp này gồm nhiều loài có hình thái đa dạng (các hình amíp, monad,
hạt, tập đoàn palmella, sợi, bản, cây...). Dạng chuyển động thường có 1 hay
2 lông roi ( không đều nhau). Sắc tố trong tế bào là chlorophyl a và c,
carotenoid và xantophin. Màu tảo thay đổi từ vàng kim, vàng xanh hay nâu
xanh. Sản phẩm tạo thành không phải là tinh bột mà là leucosin . Một số
không có thành tế bào. Nhiều loài có thành tế bào và vỏ giáp. Thành tế bào và
vỏ giáp là cellulose và pectin, có thể có thấm hay không thấm silic. Phần lớn
phân bố chủ yếu ở các thủy vực nước ngọt chưa bị ô nhiễm có mức dinh dưỡng
trung bình hay nghèo, có khí hậu lạnh hay mát. Phần lớn có đời sống tự dưỡng,
phù du, một số loài dị dưỡng. Ít gặp các loài sống trong đất ẩm hay ở đáy nước
. Sinh sản băng cách phân chia tế bào, sinh sản vô tính bằng động bào tử. Chỉ
rất ít loài có sinh sản hữu tính đẳng giao. Hợp tử hình thành thường có dạng
túi, thành túi nhiễm silic vững chãi nên có thể giúp chúng vượt được qua các
điều kiện bất lợi.
Nhiều loài tảo vàng ánh là thức ăn cho các động vật phù du. Khi nước
nhiều chất hữu cơ hay giàu đạm tảo vàng ánh có thể gây ra hiện tượng “ nước
nở hoa” (algal bloom), gây mùi tanh thối.
Dưới đây là hình ảnh các chi Tảo vàng ánh thường gặp
(theo ):
1 Ochromonas fragilis, 2 Monas elongata, 3 Uroglena americana, 4 Ochromonas
ludibunda, 5 Chrysococcus rufescens, 6 Stenokalyx monilifera, 7 Chromulina rosanoffii, 8
Synura uvella, 9 Mallomonas fastigata, 10 Dinobryon divergens, 11 Kephyrion ovum, 12
Pseudokephyrion pulcherrimum,
13 Rhipidodendron splendinum, 14 Anthophysa vegetans
1 Rhizochrysis Scherffelii, 2 Chrysidiastrum catenatum
1 Hydrurus foetidus, 2 Bitrichia danubiensis, 3 Bitrichia longispina,
4 Lagynion Scherffelii
1 Chrysosphaera paludosa, 2 Stichogloea olivacea
1 Phaeodermatium rivulare, 2 Phaeothamnion confervicola
Dưới đây là ảnh chụp một số chi Tảo vàng ánh thường gặp:
Dinobryon Uroglena
Synura Uroglenopsis
Chrysostephanosphaera Chromulina
Ochromonas
Mallomonas Distephanus
Pleurasiga Pseudopedinella
Pedinella Proterospongia
Oikomonas Dendromonas Anthophysis
Chrysamoeba Chrysosphaerella Chrysidiastrum
Chrysocapsa Phaeoplaca
2) Lớp Tảo vàng lục (Xanthophyceae)
Tảo vàng lục khác với Tảo lục ở chỗ không có chlorophyll b và sản phẩm đồng hóa CO2
không phải là tinh bột mà là leucosin và lipid. Tảo vàng lục khác với Tảo vàng ánh và Tảo silic
ở chỗ không có sắc tố Fucoxanthin và nhiều đặc điểm khác nữa. Hình thái tảo vàng lục rất đa
dạng: hình monad, hình amíp, hình hạt... Sống đơn độc hay thành tập đoàn. Một số có dạng
sợi đơn hay phân nhánh, dạng ống thông suốt chứa nhiều nhân. Thành tế bào cấu tạo bởi
cellulose. Các dạng monad và động bào tử của các dạng khác thường có 2 lông roi không đều
nhau, cũng có khi có 1 hay nhiều lông roi (xếp thành từng đôi không đều, đính ở phía cực tế
bào). Lông roi dài thường có lông và dài gấp 4-6 lần lông roi ngắn . Lông roi dài hướng về phía
trước còn lông roi ngắn trơn nhẵn hướng xiên so với trục dọc hay hướng hẳn về phía sau.
Thành tế bào nguyên vẹn, trừ chi Tribonema thành tế bào gồm hai mảnh. Sắc lạp có từ 2 dến
6 trong mỗi tế bào, có hình khay. Thành phần sắc tố gồm có chlorophyll a, c, carotenoid,
xanthophyll. Tản thường có màu vàng lục.
Sinh sản sinh dưỡng theo cách phân đôi tế bào hay từ một phần của tập đoàn. Sinh sản
vô tính bằng động bào tử. Động bào tử có hai lông roi lệch nhau, có khi chỉ có 1 lông roi.
Thường động bào tử được sinh ra từ nang động bào tử (zoosporangium). Có loài sinh sản vô
tính bằng bào tử bất động. Có loài sinh sản vô tính bằng tự thân bào tử (autospore) hay bằng
bào tử màng dầy. Sinh sản hữu tính rất ít khi gặp ở Tảo vàng lục. Tribonema có hai loại giao
tử- bất động và di động. Botrydium có giao tử chuyển động, đẳng giao hay dị giao.
Sinh sản hữu tính (noãn giao) ở Vaucheria
Autheridium- Túi đực; Oogonium- Túi cái; Eggs- Các noãn cầu
Tảo vàng lục thường gặp trong các thủy vực nước ngọt có độ dinh dưỡng trung bình hay
nghèo. Chúng có đpời sống phù du hay sống bám. Một số loài sống trên đất hay trên thân cây
ẩm ướt. Tảo vàng lục có các chi phổ biến sau đây:
Vaucheria (noãn giao)
Tribonema Botrydium
Olisthodiscus Vacuolaria
Characiopsis Ophiocytium
Goniochloris Botrydiopsis
Chlorothecium Gloeobotrys
Gonyostomum
Merotrichia
3) Lớp Tảo silic (Bacillariophyceae)
Tảo silic có cấu tạo đơn bào sống đơn độc hay thành tập đoàn dạng palmella, dạng
sợi, dạng chuỗi, dạng zic-zắc, dạng dải, dạng sao, dạng ống, dạng cây... Kích thước thay đổi từ
vài mm đến 1 mm. Tế bào có nhân lưỡng bội. Đặc điểm của lớp tảo này là có thành tế bào
gồm hai mảnh vỏ. Lớp trong là pectin, lớp ngoài là oxyd silic . Hai mảnh vỏ (nắp đậy và đáy)
như hai cái nắp của một cái hộp nhỏ lắp khít vào nhau, bên trong chứa tế bào chất. Nhiều tảo
silic có cấu trúc hoa văn trên mặt vỏ. Hoa văn cấu tạo bởi các lỗ nhỏ hay các rãnh nhỏ. Có khi
có các khe hở. Một số có khả năng di động nhờ nội chất chuyển động trong các khe trên thành
tế bào Có thể phân biệt hai loại hình thái cơ bản:
- Hình phóng xạ đối xứng: đa số có hình tròn, một số có hình tam giác, hình đa giác,
hình bầu dục , hình trứng...
- Hình dài, hai bên đối xứng nhau: có hình sợi, hình kim, hình bầu dục, hình trứng, hình
trăng non, hình cung, hình chữ S, hình trụ, hình củ ấu, hình thuyền, hình vĩ cầm...
Tế bào chất trong suốt ,tạo thành lớp mỏng nằm bên dưới thành tế bào hay tạo thành
khối nhỏ ở trung tâm với nhiều sợi sinh chất nới với thành tế bào..
Tảo si lic có màu vàng lục hay vàng nâu. Loại tảo silic trung tâm có sắc lạp hình hạt,
hình đĩa nhỏ, gồm nhiều đĩa. Loại tảo silic lông chim có sắc lạp lớn hình phiến chữ H hay hình
sao, có 1-2 cái. Một số ít có nhiều đĩa nhỏ. Không có hạt pyrenoid, một số ít có hạt pỷenoid
trần không có bao tinh bột. Sản phẩm đồng hóa từ CO2 là lipid và chrysolaminaran, thường tụ
lại thành các giọt chất dự trữ màu da cam. Ngoài ra còn có các giọt volutin màu xanh da trời.
Trong tế bào tảo silic còn thấy có ty thể, bộ máy Golgi, các tấm thylakoid quang hợp, lục lạp
(chloroplast)...
Cấu trúc tế bào ở Tảo silic (theo )
Tảo silic sinh sản bằng các hình thức sau đây:
- Phân cắt tế bào: đây là phương pháp phổ biến nhất. Khi đó nội chất phân đôi, hai
mảnh vỏ tách ta kềm theo một nửa nội chất, sau đó tự tổng hợp nên vỏ thứ hai. Các tê bào ở
các thế hệ sau nhỏ hơi hai thế hệ đầu.
- Sinh sản bằng bào tử tự thân: Khi các thế hệ sau có mảnh vỏ quá nhỏ chúng sẽ hình
thành nên vỏ tạm thời (perizonium). trong lớp vỏ đó tế bào lớn lên và tạo thành bào tử tự thân
(autospore). Bào tử đạt đến kích thước chuẩn sẽ tổng hợp nên hai nắp vỏ mới.
- Gặp điều kiện bất lợi tảo silic hình thành bào tử nghỉ bằng cách chất tế bào mất nước,
co lại và tạo ra lớp vỏ tạm thời khá dầy, nhiều khi có gai nhưng vẫn nằm trong nắp cũ.. Khi
gặp điều kiện thận lợi trở lại thì nắp vỏ ngoài tan đi và nẩy mầm thành tế bào sinh trưởng bình
thường.
- Rất ít gặp sinh sản hữu tính ở tảo silic. Một số loài sinh sống ở nước ngọt có thể tiến
đến gàn nhau, nội chất thoát ra khỏi nắp vỏ và tạo nên bao nhầy, sau đó phân chia giảm
nhiễm tạo ra 4 nhân con. Hai nhân con về sau thoái hóa đi, hai nhân còn lại sẽ biến thành 2
giao tử. Chúng kết hợp với 2 giao tử của 2 tế bào bên cạnh và tạo thành 2 hợp tử. Hợp tử sẽ
phát triển 2 nắp vỏ mới của tế bào. Một số tảo si lic trung tâm sống ở nước mặn hình thành
nên 2 hay 4 giao tử (tùy loài) không có lông roi nằm trong tế bào mẹ hay được tung ra ngoài.
Có loài lại sinh ra 16 hay 64 giao tử nhỏ chuyển động nhờ 1 lông roi. Lông roi cấu tạo bởi 9 đôi
sợi ngoại biên nhưng không có đôi trung tâm. Khi hai giao tử kết hợp với nhau sẽ tạo thành
hợp tử. Hợp tử về sau sẽ tạo ra hai nắp vỏ để phát triển tiếp.
Tảo silic có số loài nhiều thứ hai sau Tảo lục. Chúng phân bố hét sực rộng rãi trên Trái
đất: trên thân cây ở đỉnh núi cao, trên đất, đá ẩm, mọi thủy vực nước ngọt, nước lợ, nước
mặn. Có thể gạp tảo silic ở cả đáy biển sâu tới hàng nghìn mét. Trong nước thành phần tảo
silic là phong phú nhất ở độ sâu 5-30m, nhưng sinh khối lại thường đạt mức cao nhất ở độ sâu
20-50m. Khi sống bám tảo silic tạo nên một lớp trơn màu nâu. Trong các thủy vực nước ngọt
tảo silic lông chim chiếm ưu thế về thành phần loài . Trong các thủy vực nước ngọt tỷ lệ tảo
silic lông chim giảm so với tảo silic trung tâm khi nồng độ muối tăng. Líc nồng độ muối tăng
câo thì hầu như tảo silic trung tâm hoàn toàn chiếm ưu thế.
Trong các thủy vực nước ngọt tảo silic là thành phần chính của năng suất sơ cấp. Trong
các biển và đại dương tảo silic chiếm ưu thế cả về sinh khối lẫn thành phần loài. Hàng năm
ythực vật phù du (mà chủ yếu là tảo silic tạo ra tới 19 tỷ tấn chất hữu cơ, nuôi sống được tới 5
tỷ tấn động vật không xương sống (!) Nhiều tính toán cho kết quả còn cao hơn nữa. Tảo silic
đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên các năng suất sơ cấp trong hệ sinh thái biển, nhất là
những vùng không được tiếp nhận nguồn thức ăn hữu cơ mang tới từ các dòng lục địa.
Qua nhiều thế kỷ xá của tảo silic tạo nên các các mỏ diatomid lớn do cấu trúc silic của
nắp vỏ xác tảo silic không bị phân hủy. Diatomid có tính chất nhẹ, xốp, cách điện, trơ với
acid... cho nên đã được ứng dụng rộng rãi để chế tạo các sản phẩm cách điện, cách nhiệt, chất
đệm trong thuốc nhuộm, trong xà phòng, sản xuất thủy tinh lỏng, làm nền khi điện di chiết
tách dược phẩm...Các tầng diatomid còn là cơ sở để xác định tuổi của các địa tầng và lịch sử
của vỏ Trái đất từ cuối kỷ Jura cho đến nay. Tảo silic cũng góp phần tạo nên hiện tượng “nước
nở hoa” làm hư hỏng nguồn nước sạch
Tảo silic trước đây được coi là một ngành riêng ( ngành Bacillariophyta) và bao gồm hai
lớp là lớp Tảo silic trung tâm (Centriophyceae) và lớp Tảo silic lông chim (Pennatophyceae).
Nay tảo si lic chỉ được coi là một lớp (Bacillariophyceae) trong ngành Heterokontophyta và
được phân thành hai bộ là bộ Coscinodiscales và bộ Naviculales.
Các chi thường gặp trong lớp tảo silic là các chi có hình dạng như sau (theo
):
1 Stephanodiscus astrea, 2 Triceratium distinctum, 3 Chaetoceros muelleri, 4
Biddulphia aurita, 5 Attheya zachariasii, 6 Melosira distans
1 Tabellaria fenestrata, 2 Meridion circulare, 3 Diatoma vulgare,
4 Achnanthes lanceolata, 5 Surirella elegans, 6 Asterionella formosa,
7 Eunotia lunaris, 8 Pleurosigma elongatum, 9 Nitzschia linearis,
10 Synedra acus, 11 Cymbella lanceolata, 12 Navicula radiosa,
13 Pinnularia viridis, 14 Fragilaria virescens
Dưới đây là ảnh chụp một số chi tảo silic thường gặp :
Achnanthes Asterionella Attheya
Biddulphia Chaetoceros
Cocconeis Coscinodiscus
Cyclotella Cymbella
Epithemia Eunotia
Diatoma Fragilaria Frustulia
Gomphoneis
Gomphonema Navicula Hemidiscus
Gyrosigma Hydrosera
Melosira Nitzschia Planktoniella
Pinnularia Pinnularia
Pleurosigma Rhizosolenia
Skeletonema
Stauroneis Stephanopyxis Surirella
Synedra Thalassiosira
Tabellaria
Triceratium
Ngành Tảo mắt (Euglenophyta)
Tảo mắt sống riêng rẽ, tế bào kiểu monad có 1 hay 2 lông roi. Thành tế bào chỉ là chất
nguyên sinh đậm đặc lại do đó hình dạng có thể thay đổi.Một số chi có thành tế bào là thể chu
chất (periplasst) thì có hình thái tế bào ổn định. Một số chi có thành tế bào là vỏ CaCO3 thấm
muối sắt 3 nên có màu đỏ nâu. Vỏ cancium làm cho những tế bào này có hình damngj ổn
định. Lông roi nằm ở đầu trước, xuất phát từ điểm gốc (nằm ở trong nguyên sinh chất hay
trong không bào) và đi qua một phần lõm dài gọi là họng. Họng thông với một không bào dự
trữ lớn, xung quanh thông với một số không bào co bóp (contractile vacuole). Không bào co
bóp làm nhiệm vụ thải nước và các chất bài tiết, điều hòa áp suất thẩm thấu. Điểm mắt
(stigma, eye spot) màu đỏ làm nhiệm vụ cảm quang. Nhân nằm ở phần sau của tế bào. Lục
lạp (chloroplast) hình khay hay hình phiến nằm rải rác hay tập trung, có khi xếp thành hình
sao. Sắc tố có chlorophyll a và b, còn có cả carotenoid. Sản phẩm đồng hóa CO2 là paramylon
và lipid. Thường thấy có cả ty thể và các hạt pyranoid. Tảo mắt thường sinh sản bằng phương
pháp phân đôi hay bằng cách tạo túi có thành dầy hay bao dầy. Chưa phát hiện thấy sinh sản
hữu tính ở tảo mắt.
Tảo mắt chủ
yếu phân bố ở các
thủy vực nước ngọt,
chúng ưa môi trường
giàu dinh dưỡng,
giàu chất hữu cơ.
Một ít loài sống được
ở môi trường nước lợ
có nồng độ muối
dưới 0,5%. Phần lớn
tảo mắt có đời sống
tự dưỡng nhưng
cũng có loài dị
dưỡng (không có sắc
tố quang hợp) Các
váng màu xanh,
vàng, đỏ, nâu trong
các ao tù thường là
váng tảo mắt.
Dưới đây là hình dạng một số chi tảo mắt thường gặp ( theo
:
1 Euglena viridis, 2 Euglena gracilis, 3 Euglena polymorpha, 4 Menoidium tortuosum, 5
Phacus tortus, 6 Colacium cyclopicola,
7 Trachelomonas volvocina, 8 Urceolus cyclostomus
Euglena Phacus
Menoidium Colacium
Eutreptia Eutreptiella
Trachelomonas Urceolus Astasia
Lepocinclis Peranema
Hyalophacus
Rhabdomonas Peranema
Ceratium Petalomonas Anisonema
Vi tảo thuộc ngành Tảo đỏ (Rhodophyta)
Tảo đỏ chỉ có vài chi là vi tảo. Trong chu kỳ sống tảo đỏ không có giai đoạn di động. Đặc
điểm của tảo đỏ là sự đa dạng của sắc tố quang hợp : chlorophyll a và d, carotin a và b, xanthophyll,
lutein, phycocyanin, phycoerythrin. Màu của tản quyết định bởi phycocyanin và phycoerythrin
(thuộc nhóm biliprotein). Thường tản có màu từ hồng, đỏ đến tím thẫm hay xanh lam. Hai chi vi tảo
thường gặp là Porphyridium và Rhodella :
Porphyridium Rhodella
Tài liệu tham khảo
1- Nguyễn Nghĩa Thìn, Đặng Thị Sy, Hệ thống học thực vật, Giáo trình Khoa Sinh học , ĐH
Khoa học tự nhiên , ĐHQG Hà Nội, 1998
2-Trần Phong chủ biên, Vi tảo sinh vật kỹ thuật, Trung Quốc khinh công nghiệp xuất bản
xã,1999.
3- Chu Phượng Hà, Trần Kiếm Hồng, Đàm thủy vi hình sinh vật đồ phổ, Hóa học công
nghiệp xuất bản xã, 2005.
4-Borowitzka M.A. et al., Micro-algal Biotechnology, Cambridge Univ.Press, 1988
5- Bold H.C. , M.J. Wynne, Introduction to Algae, Prentice Hall Inc., 1985.
6-Penter Panoik, www.thallobionta.szm.sk
7-Amos Richmond (Ed.) Handbook of Microalgal Culture, Cambridge Univ. Press, 2004
Bài 12 Phân loại vi sinh bằng Sinh Học Phân Tử
1. Khái quát về các phương pháp phân loại vi sinh vật
truyền thống:
Trước đây công tác phân loại vi sinh vật vẫn dựa căn bản trên các đặc tính
hình thái, sinh lý và hóa vi sinh vật: nhuộm, hình dạng tế bào khuẩn lạc, khả
năng di động, nhu cầu dinh dưỡng, khả năng sinh acid trong môi trường cũng
như sắc tố tạo thành v.v..Các đặc trưng này đôi khi cũng bộc lộ những hạn chế
do các đặc tính được dùng cho nhóm vi sinh vật này (Enterobacteriaceae)
nhưng lại không có ý nghĩa đối với nhóm khác (vi khuẩn gram âm - gram
negative bacteria). Hạn chế của các phương pháp phân loại truyền thống dẫn
đến nhiều trường hợp phải xác định lại tên phân loại của một số vi sinh vật. Từ
trước đến nay, đơn vị cơ bản của định tên vi sinh vật là loài, bao gồm nhóm
các cơ thể có mức độ tương đồng cao về các đặc điểm hình thái.
Các phương pháp dựa trên các phản ứng sinh hóa:
Từ những hạn chế của việc xác định các đặc tính hình thái dẫn đến n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_mon_vi_sinh_vat_hoc.pdf