Động cơ đánh lửa cưỡng bức
Đối với động cơ đánh lửa cưỡng bức, ba chất ô nhiễm chính cần quan tâm là NOx,
HC và CO. Ảnh hưởng tổng quát của các yếu tố kết cấu và vận hành động cơ đến sự hình
thành các chất ô nhiễm này đã được phân tích ở chương 6.
Ở động cơ thế hệ mới làm việc với hỗn hợp nghèo, người ta khống chế thêm vận
động rối của hỗn hợp nhiên liệu-không khí trong quá trình cháy để làm giảm nồng độ các
chất ô nhiễm, đặc biệt là HC. Sự tăng cường chuyển động rối sẽ làm tăng tốc độ lan tràn
màng lửa và hạn chế việc xuất hiện những vùng 'chết' (gần thành buồng cháy). Gia tăng
vận động rối có thể thực hiện bằng cách:
- Gia tăng vận động xoáy lốc của hỗn hợp trên đường ống nạp.
- Sử dụng hai soupape nạp khi động cơ làm việc ở chế độ toàn tải và một soupape
khi làm việc ở tải cục bộ
- Tạo ra một tia khí tốc độ cao phun vào đường nạp phụ có kích thước nhỏ hơn
đường ống nạp chính.
Việc lựa chọn phương pháp phun nhiên liệu riêng rẽ cho từng cylindre hay phun
tập trung ở cổ góp đường nạp phụ thuộc nhiều yếu tố (khả năng điều chỉnh, tính năng kinh
tế-kỹ thuật, giá thành.). Phương pháp phun nhiên liệu cũng có ảnh hưởng đến sự hình
thành các chất ô nhiễm. Thật vậy, phương pháp phun tập trung có ưu điểm là thời gian
dành cho việc bốc hơi nhiên liệu tương đối dài do đó hạn chế được hiện tượng ngưng tụ
nhiên liệu trên đường ống nạp, còn phương án phun riêng rẽ cho phép tránh được sự
không đồng đều về thành phần hỗn hợp giữa các cylindre.
48 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 786 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Ô tô và ô nhiễm môi trường - Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ nên ở mỗi chế độ công tác ta có thể lựa chọn
một bộ thông số điều khiển tối ưu đối với các chất ô nhiễm HC, NOx và bồ hóng. Việc
điều khiển phức tạp như vậy chỉ có thể thực hiện được nhờ hệ thống điện tử. Hệ thống
điều khiển điện tử phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Độ chính xác cao và nhạy, làm việc ổn định theo thời gian.
- Có khả năng điều chỉnh theo nhiều thông số
- Mềm dẻo trong lập chương trình hệ thống điều khiển để có thể áp dụng trong các
điều kiện sử dụng ô tô khác nhau (tùy theo yêu cầu của luật môi trường của từng
quốc gia)
- Thực hiện việc điều chỉnh động cơ theo những chỉ tiêu cho trước
Thêm vào đó, hệ thống phải hoạt động tin cậy trong mọi tình huống, phải được bảo
vệ chống nhiễu và chống hỏng hóc, bảo trì dễ dàng nhờ hệ thống chẩn đoán nhanh.
Khi hoạt động, máy tính điều khiển chuyên dụng nhận số liệu từ các cảm biến: vị
trí thanh răng hay cần gia tốc, vị trí kim phun, tốc độ động cơ, nhiệt độ không khí nạp,
nhiệt độ nhiên liệu, nhiệt độ nước làm mát, áp suất trong xilanh,.... Sau khi xử lí, máy tính
phát tín hiệu điều khiển đến bộ phận chấp hành. Bộ phận này sẽ tác động lên cơ cấu điều
khiển lượng nhiên liệu chu trình, thời điểm bắt đầu phun, lượng khí xả hồi lưu, tỉ số truyền
của hộp số. Hệ thống điều khiển điện tử hoàn hảo như vậy cho phép làm giảm đồng thời
nồng độ bồ hóng, NOx và tăng tính kinh tế của động cơ so với hệ thống điều khiển cơ khí,
đặc biệt là kết hợp bộ điều khiển quá trình phun và điều khiển góc phun sớm, mức độ phát
ô nhiễm của động cơ có thể giảm đi 3 lần.
6.4. Ảnh hưởng của việc giới hạn tốc độ ô tô
đến mức độ phát sinh ô nhiễm
Khi ô tô hoạt động ổn định người ta thấy nồng độ CO đạt cực tiểu ở tốc độ
80÷90km/h, nồng độ HC giảm dần đến khi tốc độ đạt khoảng 100km/h sau đó tăng lên
chậm còn nồng độ NOx tăng từ từ đến khi tốc độ động cơ đạt 70÷80km/h sau đó tăng
mạnh, nhất là đối với động cơ có dung tích cylindre lớn. Các kết quả đo đạc trên chu trình
có điều kiện thử gần với điều kiện vận hành thực tế cho thấy giới hạn tốc độ ít gây ảnh
hưởng đến mức độ phát sinh ô nhiễm. Khi giảm mạnh giới hạn tốc độ, nồng độ NOx có thể
giảm đi vài phần trăm, nhưng làm tăng đôi chút CO, HC. Khi tăng tốc độ ô tô, nhờ sự rối
của không khí phía sau xe, các chất ô nhiễm thải ra khỏi ống xả khuếch tán nhanh chóng
trong không gian, làm giảm nồng độ cục bộ của chúng trong môi trường.
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
92
Trên xa lộ Châu Âu, tốc độ giới hạn là 130km/h. Khi đại bộ phận ô tô giảm tốc độ
từ 119 đến 107km/h người ta thấy nồng độ các chất ô nhiễm trong bầu không khí quanh hệ
thống xa lộ giảm đi đáng kể: -12% đối với CO; -1,7% đối với HC và -10,5% đối với NOx.
Một thí nghiệm khác được thực hiện bằng cách giảm tốc độ giới hạn từ 100 xuống 60km/h
trên một bộ phận xa lộ người ta nhận thấy lượng NOx giảm đi 50% trong 6 tháng.
6.5. Ảnh hưởng của nhiên liệu đến mức độ phát ô nhiễm
của động cơ
6.5.1. Nhiên liệu động cơ xăng
Việc điều chỉnh động cơ có ảnh hưởng đến lượng ô nhiễm phát sinh vì việc điều
chỉnh này tác động đến cơ chế hình thành hay phân hủy các chất ô nhiễm trước khi thoát
ra ngoài khí quyển.
Nhiên liệu cũng gây ảnh hưởng đến sự phát ô nhiễm, chủ yếu là do tỉ số không
khí/nhiên liệu có thể bị thay đổi do sự thay đổi các đặc trưng hóa lí của chúng không phải
lúc nào cũng được bù lại bởi sự điều chỉnh các thông số của động cơ. Như chúng ta đã
biết, độ đậm đặc của hỗn hợp ảnh hưởng lớn đến mức độ phát sinh ô nhiễm: NOx đạt cực
đại trong môi trường hơi nghèo; CO, HC đạt cực tiểu trong môi trường nghèo; sự xuất
hiện bồ hóng diễn ra trong môi trường rất giàu (a<0,6), điều kiện này diễn ra chung quanh
hạt nhiên liệu trong buồng cháy động cơ Diesel.
Các tính chất của nhiên liệu ô tô, nhiên liệu thông thường hay super thỏa mãn
những đặc trưng yêu cầu của từng quốc gia. Mỗi quốc gia có tiêu chuẩn riêng xác định
phạm vi cho phép của khối lượng riêng, phạm vi chưng cất, sự bốc hơi, nồng độ lưu huỳnh
và nồng độ các chất phụ gia.
6.5.1.1. Ảnh hưởng của khối lượng riêng nhiên liệu
Khối lượng riêng nhiên liệu có quan hệ chặt chẽ với thành phần các hydrocarbure
tạo thành hỗn hợp nhiên liệu thường hay super, đặc biệt là tỉ lệ nguyên tử tổng quát
carbon/hydrogène.
Sự gia tăng khối lượng riêng của nhiên liệu có khuynh hướng làm nghèo hỗn hợp
đối với động cơ dùng bộ chế hòa khí và ngược lại, làm giàu hỗn hợp đối với động cơ phun
xăng. Tuy nhiên, do phạm vi thay đổi khối lượng riêng nhiên liệu rất bé (từ 2,5 đến 4%),
ảnh hưởng của nó đến mức độ phát ô nhiễm của động cơ đã điều chỉnh sẵn với một nhiên
liệu cho trước không đáng kể.
6.5.1.2. Ảnh hưởng của tỉ lệ hydrocarbure thơm
Các hydrocarbure thơm có chỉ số octane nghiên cứu RON>100 và chỉ số octane
động cơ MON thường lớn hơn 90. Do đó thêm thành phần hydrocarbure thơm vào nhiên
liệu là một biện pháp làm tăng tính chống kích nổ của nhiên liệu hiện đại.
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
93
Hiện nay người ta có khuynh hướng gia tăng hàm lượng các chất hydrocarbure
thơm trong nhiên liệu nhằm phổ biến nhiên liệu không chì. Theo tiêu chuẩn Cộng Đồng
Châu Âu, hàm lượng benzene trong nhiên liệu phải thấp hơn 5%.
Hình 6.6: Ảnh hưởng của tỉ số không khí/nhiên liệu đến NOx
Các hydrocarbure thơm có tỉ số C/H cao hơn do đó khối lượng riêng lớn hơn. Do
nhiệt lượng tỏa ra đối với một đơn vị thể tích cao hơn nên nhiệt độ cháy của hỗn hợp tăng
làm tăng NOx. Hình 6.6 cho thấy ví dụ trên động cơ có tốc độ 1500 vòng/phút ở chế độ tải
trung bình sự thay đổi NOx theo tỉ số không khí/nhiên liệu đối với alkylat không thơm và
đối với nhiên liệu super thơm. Chúng ta thấy ở vị trí phát ô nhiễm cực đại, alkylat làm
giảm nồng độ ô nhiễm khoảng 20%.
Mức độ phát sinh CO ít bị ảnh hưởng bởi hàm lượng hydrocarbure thơm. Tuy
nhiên, các hydrocarbure thơm có cấu tạo ổn định hơn parafine nên có động học phản ứng
cháy chậm hơn. Do đó trong cùng điều kiện cháy, sự phát sinh hydrocarbure chưa cháy
của nhiên liệu chứa nhiều hydrocarbure thơm hơn sẽ cao hơn. Khi chuyển từ nhiên liệu
super thơm sang alkylat, mức độ phát sinh HC giảm đi 16% (hình 6.7).
Nồng độ
thể tích
NOx
(ppmx100)
a
Tốc độ: 1500 vg/phút
Áp suất có ích trung bình: 500kPa
Tì số nén: 11
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
94
Hình 6.7: Ảnh hưởng của tỉ số không khí/nhiên liệu
đến nồng độ HC trong khí xả
Mặt khác, các chất thơm trong nhiên liệu giữ vai trò phát sinh các hydrocarbure
thơm đa nhân HAP, phènol và aldehyde thơm mà những chất này tăng theo các chất thơm
còn formaldehyde thì giảm. Sự phụ thuộc của HAP vào tỉ lệ các chất thơm trong nhiên
liệu thay đổi một mặt theo HAP xem xét và mặt khác theo dạng chất thơm trong nhiên
liệu: benzene ít ảnh hưởng đến HAP hình thành, HAP nhẹ (đến 4 nhân) gia tăng tuyến tính
theo tỉ lệ các chất thơm trong nhiên liệu, những HAP nặng hơn (đến 5 nhân) (hình 6.8)
không chịu ảnh hưởng bởi tỉ lệ này. HAP đã có mặt trong nhiên liệu cũng ảnh hưởng đến
mức độ phát sinh HAP trong khí xả.
6.5.1.3. Ảnh hưởng của tính bay hơi
Tính bay hơi của nhiên liệu thường được đặc trưng bởi đường cong chưng cất và
áp suất hơi Reid (PVR) đo ở 37,8°C. Đó là một đặc tính quan trọng đối với hoạt động của
động cơ, nó ảnh hưởng đến thời gian khởi động động cơ ở trạng thái nguội, tính ưu việt
khi gia tốc và tính ổn định khi làm việc ở chế độ không tải và khi chạy nóng.
Những thành phần quá nặng (bay hơi ở nhiệt độ lớn hơn 200-220°C) có ảnh hưởng
đến sự phát sinh hydrocrabure chưa cháy, do sự bốc hơi kém dẫn tới sự cháy không hoàn
toàn với sự hình thành aldehydes và sự gia tăng HC.
Nồng độ thể
tích HC
(ppmx100)
a
Tốc độ: 1500 vg/phút
Áp suất có ích trung bình: 500kPa
Tỉ số nén: 11
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
95
Hình 6.8: Ảnh hưởng của thành phần nhiên liệu thơm
đến mức độ phát sinh HAP
Những thành phần nhẹ hơn, cần thiết cho việc khởi động và làm việc ở trạng thái
nguộI, ảnh hưởng đến sự phát ô nhiễm của khí xả và nhất là ảnh hưởng đến tổn thất do bay
hơi. Tính chất bay hơi tiêu chuẩn của nhiên liệu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và mùa.
Chẳng hạn ở Pháp, tính chất bay hơi của nhiên liệu được qui định như sau:
- 45<=PVR<=79 kPa (từ 20/6 đến 9/9)
- 50<=PVR<=86 kPa (từ 10/4 đến 19/6 và từ 10/9 đến 31/10)
- 55<=PVR<=99 kPa (từ 01/11 đến 9/4)
Chính những thành phần dễ bay hơi nhất, đặc biệt là cặp butane-pentane gây ảnh
hưởng đến PVR. Cặp này nhẹ, thường có nhiều hơn qui định trong quá trình lọc dầu, được
pha vào nhiên liệu đến giới hạn tối đa cho phép để tận dụng chỉ số octane cao của nó
(butane có chỉ số RON = 94) nhằm bù trừ việc giảm hàm lượng chì. Tính bay hơi của
nhiên liệu không gây ảnh hưởng đến sự phát sinh NOx trong khí xả. Chỉ có CO và HC gia
tăng theo PVR: nồng độ CO và HC tăng khoảng 20% theo chu trình FTP khi PVR tăng từ
65 đến 80kPa.
6.5.1.4. Ảnh hưởng của chỉ số octane
Chỉ số octane có ảnh hưởng đến mức độ phát sinh ô nhiễm, đặc biệt khi động cơ bị
kích nổ. Sự giảm chỉ số octane dẫn đến sự gia tăng tính kích nổ, do đó làm tăng NOx nhất
là khi hỗn hợp nghèo. Nhưng trong thực tế, sự kích nổ trong điều kiện như vậy không diễn
ra.
6.5.1.5. Ảnh hưởng của các chất phụ gia
Người ta pha vào nhiên liệu ô tô nhiều chất phụ gia:
Phát thải HAP
(mg/kg nhiên liệu)
Thành phần cacbua hydro thơm
Trong nhiên liệu (%V)
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
96
- Những chất phụ gia làm tăng chỉ số octane: Alkyle chì, méthylcyclopenta-diényl
mangan tricarbonyle (MMT), ferrocène,...
- Những chất phụ gia chống oxy hóa, ngăn chận sự hình thành oléphine gồm:
phénylène diamin, aminophénol và phénol alkylé.
- Những chất phụ gia làm sạch bề mặt đường ống nạp do hơi dầu bôi trơn và những
chất không bị lọc gió giữ lại trên đường nạp.
- Màu và các chất phụ gia chống nhầm lẫn.
Những chất phụ gia chì, dù rằng thành phần chlore và brome đảm bảo biến chì
thành dạng halogene nhẹ, không đủ để loại trừ hoàn toàn những lớp bám trong buồng
cháy. Sự hiện diện của các lớp bám này dường như không gây ảnh hưởng đến nồng độ CO
và NOx nhưng làm tăng HC. Chì không gây ảnh hưởng đến sự hình thành aldéhyde.
Những chất phụ gia mangan (MMT) gây ảnh hưởng xấu đến sự phát sinh HC và aldéhyde.
Nếu sự phát sinh CO và NOx không bị ảnh hưởng, nồng độ HC tăng tuyến tính
theo nồng độ MMT: sự chuyển đổi ở bộ xúc tác không hạn chế hoàn toàn được sự gia tăng
này và bộ xúc tác dần dần bị bao phủ bởi lớp bám Mn3O4.
Các chất phụ gia hữu cơ hay hữu cơ-kim loại (organometallique) thêm vào nhiên
liệu để tác động đến các phản ứng cháy dường như không gây ảnh hưởng đến mức độ phát
ô nhiễm, các chất phụ gia chống các lớp bám cũng vậy. Tuy nhiên, việc duy trì độ sạch
trên đường nạp cho phép giữ được sự điều chỉnh ban đầu và sự ổn định về mức độ phát
sinh CO ở chế độ không tải.
6.5.1.6. Ảnh hưởng của việc sử dụng nhầm nhiên liệu
Từ 'nhầm’ nhiên liệu dùng để chỉ việc cung cấp không đúng nhiên liệu cho động
cơ, chẳng hạn cung cấp dầu Diesel cho động cơ đánh lửa cưỡng bức. Trong thực tế thường
diễn ra sự nhầm lẫn cung cấp nhiên liệu pha chì cho động cơ có ống xả xúc tác. Sự 'đầu
độc' bộ xúc tác do chì làm giảm dần hiệu quả của bộ xúc tác dẫn đến sự gia tăng HC và
aldehyde ở phía sau ống xả. Hình 6.9 cho thấy sự gia tăng nhanh chóng của HC và
aldehyde ngay khi cung cấp nhiên liệu pha chì. Mặt dù khi cung cấp lại xăng không chì,
tính năng của bộ xúc tác được phục hồi trở lại nhưng không bao giờ đạt được hiệu quả ban
đầu.
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
97
Hình 6.9: Ảnh hưởng của việc sử dụng nhiên liệu không phù hợp
6.5.2. Ảnh hưởng của nhiên liệu Diesel
Chúng ta sẽ khảo sát sau đây ảnh hưởng của khối lượng riêng, chỉ số cetane, thành
phần lưu huỳnh, các chất phụ gia đến mức độ phát sinh ô nhiễm của động cơ Diesel. Các
chất ô nhiễm quan tâm như động cơ đánh lửa cưỡng bức nhưng phải thêm vào những hạt
rắn và các chất hữu cơ liên quan (SOF) là những chất ô nhiễm đặc biệt ở động cơ Diesel.
6.5.2.1. Ảnh hưởng của khối lượng riêng
Sự gia tăng khối lượng riêng của dầu Diesel dẫn tới sự gia tăng nồng độ hạt rắn.
Hình 6.10 giới thiệu mức độ phát sinh hạt rắn tính theo gam/lít nhiên liệu theo khối lượng
riêng ứng với động cơ V8, 10,4 lít chạy ở tốc độ 1700 vòng/phút và một động cơ tăng áp
14 lít, chạy ở 1700 vòng/phút. Tương tự như vậy, nồng độ SOF cũng tăng theo khối lượng
riêng.
Quãng đường lăn bánh (x1000 dặm)
Quãng đường lăn bánh (x1000 dặm)
g/dặm
g/dặm
Xăng pha chì Xăng không pha chì
Không có bộ xúc tác
Không có bộ xúc tác
Xăng pha chì Xăng không pha chì
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
98
Hình 6.10: Ảnh hưởng của khối lượng riêng nhiên liệu Diesel
6.5.2.2. Ảnh hưởng của thành phần thơm
Thành phần thơm của nhiên liệu Diesel ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số cetane.
Nhiên liệu không cháy hết, hạt rắn, SOF gia tăng theo hàm lượng thơm. Nồng độ NOx ít bị
ảnh hưởng. Động cơ Diesel phun trực tiếp, ít bị ảnh hưởng bởi thành phần thơm
6.5.2.3. Ảnh hưởng của chỉ số cétane
Kéo dài thời gian cháy trễ do giảm chỉ số cétane dẫn đến sự gia tăng HC, hạt rắn
và CO.
Hình 6.11 giới thiệu ảnh hưởng của chỉ số cétane đến mức độ phát sinh ô nhiễm
của động cơ phun gián tiếp: NOx ít bị ảnh hưởng bởi chỉ số cétane. Đối với động cơ có
buồng cháy ngăn cách, ảnh hưởng của chỉ số cétane chủ yếu đến bộ phận SOF dẫn xuất
(extractible), thành phần hạt rắn không hòa tan dường như không bị ảnh hưởng.
Chỉ số cétane cũng ảnh hưởng đến sự phát sinh khói xanh hay khói trắng, sương
mù trong khí xả gồm những hạt nhiên liệu không cháy, hiện tượng gặp khi khởi động hay
khi làm việc trên cao áp suất giảm.
6.5.2.4. Ảnh hưởng của thành phần lưu huỳnh
Thành phần lưu huỳnh là một trong những đặc trưng quan trong được qui định
nghiêm ngặt đối với nhiên liệu Diesel. Ở Pháp thành phần lưu huỳnh cho phép là 0,3%. Ở
Châu Âu, thành phần lưu huỳnh dao động từ 0,05% đến 0,65%. Ở Thụy sĩ, thành phần lưu
huỳnh giới hạn 0,2% còn ở California, người ta hướng tới giới hạn 0,05%.
Đại bộ phận chất ô nhiễm do lưu huỳnh gây ra tồn tại dưới dạng SO2: Nhiên liệu
chứa 0,3% lưu huỳnh thì ở trong khí xả có khoảng 100ppm SO2. Tuy nhiên, một bộ phận
SO2 (khoảng 2 đến 3%) bị oxy hóa thành SO3 và acide sulfurique.
Mức độ phát
sinh bồ hóng
(kg bồ
hóng/lít
nhiên liệu)
r (kg/dm3)
Động cơ phun gián tiếp
Tăng áp
Không tăng áp
Không tăng áp
Tăng áp
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
99
Hình 6.11: Ảnh hưởng của chỉ số cetane đến mức độ phát ô nhiễm của động cơ
Diesel phun gián tiếp
6.5.2.5. Ảnh hưởng của các chất phụ gia
1. Các chất phụ gia kim loại:
Các chất phụ gia kim loại dưới dạng muối acide được sử dụng để làm giảm mức độ
phát sinh bồ hóng của động cơ Diesel.
Những kim loại alcalino-terreux (Ca, Ba, Mg, Fe, Mn, Cu, Ni) thường được sử
dụng làm chất phụ gia trong nhiên liệu Diesel. Những alcalino-terreux, barium và calcium
có hiệu quả nhất đối với động cơ phun trực tiếp hay phun gián tiếp. Hình 6.12 biểu diễn sự
biến thiên của độ đen khí xả theo thành phần chất phụ gia.
2. Các chất phụ gia hữu cơ:
Các chất phụ gia hữu cơ cho thêm vào nhiên liệu Diesel nhằm những mục đích
khác nhau:
- để giảm thời kì cháy trễ
- như là chất ổn định, chống oxy hóa, nâng cao tính ổn định trong quá trình dự trữ
- như chất tẩy rửa bề mặt để duy trì độ sạch của vòi phun, đây là yếu tố rất quan
trọng trong trường hợp động cơ có buồng cháy dự bị.
Tỉ lệ chất phụ gia trong nhiên liệu(mol/lít/100
Tỉ lệ mật
độ khói
(S/So)
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
100
Hình 6.12: Ảnh hưởng của các chất phụ gia kim loại đến độ khói
Hình 6.13 trình bày ảnh hưởng của chất phụ gia đến mức độ phát sinh bồ hóng đối
vớI động cơ theo thời gian sử dụng.
Hình 6.14 cho thấy ảnh hưởng của các chất phụ gia tẩy rửa bề mặt đến toàn bộ các
chất ô nhiễm do động cơ buồng cháy ngăn cách gây ra.
3. Thêm nước:
Sự pha thêm nước vào nhiên liệu được nghiên cứu rất nhiều vì phương pháp này
dường như là một trong những biện pháp rất hiếm hoi làm giảm đồng thời sự phát sinh
NOx và bồ hóng, trong khi những phương pháp khác thường tác động ngược nhau đối với
chiều biến thiên của hai chất ô nhiễm này.
Người ta đề nghị nhiều giải pháp: cung cấp nước dạng emulsion trong dầu Diesel,
phun trực tiếp nước trong cylindre hay phun trong dòng khí nạp. Giải pháp đầu tiên dường
như có hiệu quả nhất.
Nước có tác dụng làm giảm nhiệt độ dẫn đến giảm NOx; mặt khác, do kéo dài thời
kì cháy trễ, nó làm gia tăng lượng nhiên liệu cháy trong giai đoạn hòa trộn trước và giảm
lượng bồ hóng hình thành chủ yếu trong giai đoạn cháy khuếch tán. Điều này thấy rõ trên
hình 6.15. Kết quả này trình bày tỉ lệ giảm mức độ phát sinh bồ hóng theo tải của động cơ
một cylindre phun trực tiếp theo hai giá trị nồng độ nước trong dầu. Người ta có thể làm
giảm được 70% bồ hóng khi pha vào 10% nước.
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
101
Hình 6.13: Ảnh hưởng của các chất phụ gia đến bồ hóng
Hình 6.14: Ảnh hưởng của chất phụ gia tẩy rửa bề mặt
Thành phần SOF hấp thụ bởi hạt rắn cũng gia tăng theo tỉ lệ nước. Hydrocarbure
chưa cháy gia tăng do giảm nhiệt độ cháy; sự gia tăng nhiệt độ khí nạp cũng không phải là
một biện pháp kinh tế để bù trừ sự gia tăng HC. Người ta nhận thấy rằng thành phần HAP
có mặt trong SOF tăng theo thành phần nước.
Bồ hóng
(g/dặm)
Quãng đường lăn bánh (/1000km)
Không pha chất
phụ gia
Pha chất phụ gia
Loại bỏ chất
phụ gia
Nhiên liệu Nhiên liệu
Nhiên liệu Nhiên liệu
Không pha phụ gia
Có phụ gia
Bồ hóng
(g/lần
thử) CO(g/
lần
thử)
HC
(g/
lần
thử)
HC+NOx
(g/lần thử)
Chương 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ các chất ô nhiễm trong khí xả động cơ đốt trong
102
Hình 6.15: Ảnh hưởng của nồng độ nước trong dầu Diesel đến
mức độ phát sinh ô nhiễm
Sự pha nước vào nhiên liệu không phải là giải pháp hữu hiệu làm giảm ô nhiễm
trong quá trình cháy Diesel vì nếu nó làm giảm NOx nhưng lại làm tăng HC và CO, việc
làm giảm bồ hóng còn phụ thuộc vào chế độ tải của động cơ.
Không khí/nhiên liệu Không khí/nhiên liệu
% tải % tải
Nhiên liệu
không
nước
5% nước
10% nước10% nước
5% nước
Nhiên liệu
không
nước
Mức độ
giảm bồ
hóng
(%)
Mức
độ
giảm
SOF
(%)
5% nước
10% nước
5% nước
10% nước
104
Chương 7
CÁC BIỆN PHÁP KĨ
THUẬT LÀM GIẢM MỨC
ĐỘ
GÂY Ô NHIỄM CỦA
ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu những biện pháp làm giảm mức độ phát
sinh ô nhiễm ngay trong quá trình cháy của động cơ đốt trong cũng như các giải pháp kĩ
thuật xử lí ô nhiễm trên đường xả bằng bộ xúc tác hay lọc.
7.1. Giảm mức độ phát sinh ô nhiễm ngay từ nguồn
Trong những thập niên tới, mối quan tâm hàng đầu của việc thiết kế động cơ là
giảm mức độ phát sinh ô nhiễm ngay từ nguồn, nghĩa là trước khi ra khỏi soupape xả. Vì
vậy, nhà thiết kế động cơ không chỉ chú trọng đơn thuần về công suất hay tính kinh tế của
động cơ mà phải cân nhắc giữa các chỉ tiêu đó và mức độ phát sinh ô nhiễm.
7.1.1. Động cơ đánh lửa cưỡng bức
Đối với động cơ đánh lửa cưỡng bức, ba chất ô nhiễm chính cần quan tâm là NOx,
HC và CO. Ảnh hưởng tổng quát của các yếu tố kết cấu và vận hành động cơ đến sự hình
thành các chất ô nhiễm này đã được phân tích ở chương 6.
Ở động cơ thế hệ mới làm việc với hỗn hợp nghèo, người ta khống chế thêm vận
động rối của hỗn hợp nhiên liệu-không khí trong quá trình cháy để làm giảm nồng độ các
chất ô nhiễm, đặc biệt là HC. Sự tăng cường chuyển động rối sẽ làm tăng tốc độ lan tràn
màng lửa và hạn chế việc xuất hiện những vùng 'chết' (gần thành buồng cháy). Gia tăng
vận động rối có thể thực hiện bằng cách:
- Gia tăng vận động xoáy lốc của hỗn hợp trên đường ống nạp.
- Sử dụng hai soupape nạp khi động cơ làm việc ở chế độ toàn tải và một soupape
khi làm việc ở tải cục bộ
- Tạo ra một tia khí tốc độ cao phun vào đường nạp phụ có kích thước nhỏ hơn
đường ống nạp chính.
Việc lựa chọn phương pháp phun nhiên liệu riêng rẽ cho từng cylindre hay phun
tập trung ở cổ góp đường nạp phụ thuộc nhiều yếu tố (khả năng điều chỉnh, tính năng kinh
tế-kỹ thuật, giá thành...). Phương pháp phun nhiên liệu cũng có ảnh hưởng đến sự hình
thành các chất ô nhiễm. Thật vậy, phương pháp phun tập trung có ưu điểm là thời gian
dành cho việc bốc hơi nhiên liệu tương đối dài do đó hạn chế được hiện tượng ngưng tụ
Chương 7: Các biện pháp kĩ thuật làm giảm mức độ gây ô nhiễm của động cơ đốt trong
105
nhiên liệu trên đường ống nạp, còn phương án phun riêng rẽ cho phép tránh được sự
không đồng đều về thành phần hỗn hợp giữa các cylindre.
Việc điều chỉnh góc độ phối khí cũng là một biện pháp làm hài hòa giữa tính năng
của động cơ và mức độ phát ô nhiễm HC và NOx. Gia tăng góc độ trùng điệp sẽ làm tăng
lượng khí xả hồi lưu do đó làm giảm NOx. Sự thay đổi quy luật phối khí cũng gây ảnh
hưởng đến sự phát sinh HC. Những động cơ mới ngày nay có khuynh hướng dùng nhiều
soupape với trục cam có thể điều chỉnh được góc độ phối khí. Giải pháp này cho phép
giảm nồng độ HC và NOx từ 20 đến 25% so với động cơ kiểu cũ có cùng các tính năng
kinh tế-kĩ thuật.
Cuối cùng, đối với động cơ làm việc với hỗn hợp nghèo, việc làm giảm nồng độ
NOx trong khí xả có thể được thực hiện riêng rẽ hay đồng thời hai giải pháp sau đây:
- Tổ chức quá trình trình cháy với độ đậm đặc rất thấp (f = 0,60-0,70).
- Hồi lưu một bộ phận khí xả (EGR: Exhaust Gas Recirculation)
Ngày nay, hệ thống hồi lưu khí xả được dùng phổ biến trên tất cả loại động cơ
đánh lửa cưỡng bức cổ điển hay động cơ thế hệ mới làm việc với hỗn hợp nghèo. Nó cho
phép làm bẩn hỗn hợp ở một số chế độ công tác của động cơ nhằm làm giảm nhiệt độ cháy
và do đó làm giảm được nồng độ NOx.
Về mặt kết cấu nói chung, hệ thống hồi lưu khí xả gồm một van hồi lưu, một hệ
thống điều khiển điện trợ lực khí nén và một bộ vi xử lí chuyên dụng. Bộ vi xử lí này nhận
tín hiệu từ các cảm biến về nhiệt độ nước làm mát, nhiệt độ khí nạp, tốc độ động cơ, lượng
nhiên liệu cung cấp... Sau khi xử lí thông tin nhờ các quan hệ lưu trữ sẵn trong bộ nhớ, bộ
vi xử lí phát tín hiệu để điều khiển hệ thống điện trợ lực khí nén đóng mở van hồi lưu để
cho quay ngược một lượng khí xả thích hợp vào đường nạp.
Hệ thống hồi lưu khí xả phải được điều chỉnh theo tốc độ và tải của động cơ để
tránh xảy ra hiện tượng cháy không bình thường làm gia tăng HC trong khí xả. Trong quá
trình làm việc, van điều khiển khí xả hồi lưu có thể bị kẹt do sự ngưng tụ của sản phẩm
cháy nên cần phải pha chất phụ gia tẩy rửa vào xăng.
7.1.2. Động cơ Diesel Đối với động cơ Diesel các giải pháp kĩ thuật tối ưu
làm giảm mức độ phát sinh ô nhiễm ngay trong buồng cháy cần phải được cân nhắc giữa
nồng độ của các chất HC, NOx và bồ hóng trong khí xả.
Như chúng ta đã phân tích ở chương 6, việc thay đổi góc phun sớm có ảnh hưởng
trái ngược nhau đến nồng độ HC và NOx (hình 7.1).
Chương 7: Các biện pháp kĩ thuật làm giảm mức độ gây ô nhiễm của động cơ đốt trong
106
Hình 7.1 : Ảnh hưởng của góc phun sớm đến sự hình thành
HC và NOx trong khí xả động cơ Diesel
Các nhà chế tạo động cơ Diesel đã đề ra nhiều biện pháp khác nhau về kĩ thuật
phun và tổ chức quá trình cháy nhằm giới hạn nồng độ hai chất ô nhiễm này. Các biện
pháp chính là:
- Tăng tốc độ phun để làm giảm nồng độ bồ hóng do tăng tốc độ hòa trộn
nhiên liệu-không khí.
- Tăng áp suất phun, đặc biệt là đối với động cơ phun trực tiếp.
- Điều chỉnh dạng quy luật phun (quan hệ lưu lượng-thời gian) theo khuynh hướng
kết thúc nhanh quá trình phun để làm giảm HC.
Đối với động cơ Diesel, dạng hình học của buồng cháy ảnh hưởng đến mức độ
phát sinh ô nhiễm quan trọng hơn là đối với động cơ xăng. Cũng như động cơ xăng, hồi
lưu khí xả là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để giảm mức độ phát sinh NOx
trong động cơ Diesel. Tuy nhiên, về mặt kết cấu, hệ thống hồi lưu khí xả trên động cơ
Diesel phức tạp hơn vì độ chân không trên đường nạp quá bé không đủ sức mở van hồi
lưu. Vì vậy, ngoài bộ vi xử lí chuyên dụng, van điện từ trợ lực khí nén và van hồi lưu, hệ
thống còn có một bơm tạo chân không (hình 7.2). Mặt khác, người ta cũng sử dụng thêm
các phương pháp phụ sau đây để tăng độ chân không để hút khí xả vào đường nạp:
- Tiết lưu trên đườ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_o_to_va_o_nhiem_moi_truong_chuong_6_cac_yeu_to_an.pdf