Giáo trình Phương pháp nghiên cứu y học (Phần 2)

Sử DụNG VA LƯU TRữ CAC BAI BAO DÃ CHọN NHƯ THế NAO?

Sau giai đoạn đọc nhanh sơ bộ:

- Một số bài báo viết tồi, tối nghĩa, có vẻ rất ít có ích lợi hoặc nói về lĩnh vực mà ta không quan

tâm. Như vậy cần gạch bỏ những bài này khỏi danh sách mà ta đã chọn lúc đầu để tránh phải

tìm lại lần nữa do nhìn nhầm.

- Một số bài khác có ích lợi trên một điểm cụ thể: ví dụ một kết quả trình bày trongchương kết

quả, phần còn lại rất ít có ích: phần đặt vấn đề vì ta đã biết chủ đề, phần tư liệu và phương

pháp nghiên cứu không đưa lại được gì đặc biệt, phần còn lại, vì ta có chủ kiến riêng bàn về

chủ đề. Như vậy chỉ cần ghi lại trên một phiếu tham khảo đầy đủ tên tham khảo của bài báo để

có thể sử dụng và ghi lại để trong trường hợp cần thiết có thể dùng tới những kết quả mà ta

quan tâm, cũng như một số nhận xét của tác giả để có thể trích dẫn. Cách làm này hạn chế

nguy cơ phản bội với ý nghĩ của tác giả bài báo đó. Cách ghi lại này còn là một hệ thống có tính

thực tiễn để soạn thảo phần đặt vấn đề bài báo của mình và đưa vào phần bàn luận khi trích

dẫn các tác giả khác.

- Cuối cùng có những bài báo khi đọc nhanh thấy có vẻ có ích. Vậy cần phải đọc một cách bình

tĩnh và yên ổn. Nhìn chung, những câu hỏi chính để xác định quan điểm về lợi ích của một bài

báo như sau (9-11).

+ Vấn đề dẫn tới nghiên cứu có được nêu ra rõ ràng?

+ Phương pháp sử dụng có thích hợp để trả lời câu hỏi đặt ra?

+ Phương pháp đó có được mô tả tỷ mỷ?

+ Các kết quả có được trình bày một cách logic, sáng sủa, chính xác và có mối liên quan chặt

chẽ?

+ Kết quả và bàn luận có làm phát triển thêm sự hiểu biết về vấn đề nghiên cứu?

Ngay cả trong những tạp chí phổ biến rộng rãi nhất, chỉ có một tỷ lệ ít các bài báo đáp ứng

được các nguyên tắc chặt chẽ và sáng sủa. Một nghiên cứu đã được thực hiện trên 50 bài hiệu

chỉnh (mises au point) xuất bản từ tháng 6 năm 1986 đến tháng 6 năm 1987 trong các tạp chí

Annals of Internal Medicine, Archives of Internal Medicine, Journal of American Medical

Association và New England Journal of Medicine. Có 8 chỉ số về tính chặt chẽ khoa học được

xác định. Có 17 bài báo đáp ứng được 3 chỉ số, 32 bài đáp ứng được 5 và chỉ có 1 bài đáp ứng

được 6 chỉ số (12). Việc đọc để đánh giá một bài báo cũng đòi hỏi những hiểu biết về phương

pháp học và thống kê mà không phải là mục tiêu đề cập của cuốn sách này (12-16).

pdf61 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Phương pháp nghiên cứu y học (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chí hay không? Nếu tạp chí được cắt rời, các bài báo được sắp xếp theo từng chủ đề. Như vậy cần thường xuyên xem lại và loại bỏ những bài không còn tương ứng với hiểu biết hiện tại về chủ đề. Nếu tạp chí không cắt rời, tốt nhất là nên ghi trên một tờ danh mục tham khảo những bài báo có ích ở 1 hay 2 điểm cũng như những kết quả chính. Tờ danh mục này được lưu trữ trong tủ hồ sơ. Những bài hay nhất có thể photocopy. Nhưng có thể dễ dàng tìm được tạp chí (ở nhà hay ở thư viện nơi làm việc), cũng có thể đơn giản hơn chỉ lưu trữ tờ danh mục ghi tên bài báo để tra khảo. TÀI LIệU THAM KHảO 1.Department of Clinical Epidemiology and biostatistics, McMaster University health of Science. How to read clinical journals: I. Why to read them and how to start reading them critically. Can med Assoc J 1981;124:555-8. 2.Durack DT.The weight of medical knowledge. Nengl J Med 1978;298:773-5. 3.Such MF, Perol D. Initiation à la bibliographie scientifique. Paris: Promodis, Editions du Cercle de la Librairie, 1987. 4.Haynes RB, McKibbon KA, Fitzgerald D, Guyatt GH, Walker CJ, Sackett DL. How to keep up with the medical literature: IV. Using the literature to solve clinical problems. Ann Intern med 1986;105:636-40. 5.Schoolman HM.The impact of electronic computers and other technologies on information resources for the physician. Bull N Y Acad Med 1985;61:283-9. 6.Haynes RB, McKibbon KA, Walker CJ, Mousseau J, Baker LM, Fitzgerald D et al. Computer searching of the medical literature. An evaluation of Medline searching systems. Ann Intern Med 1985;103:812-6. 7.Haynes RB, McKibbon KA, Fitzgerald D, Guyatt GH, Walker CJ, Sackett DL.How to keep up with the medical literature: V. Access by personal computer to the medical literature. Ann Intern Med 1986;105:810-6. 8.Huth EJ.Searching the literature. In: How to write and publish papers in the medical sciences. 2nd ed. Baltimore, MD: Williams & Wilkins 1990:12-42. 9.Haynes RB, McKibbon KA, Fitzgerald D, Guyatt GH, Walker CJ, Sackett DL. How to keep up with the medical literature: I. Why try to keep up and how to get started. Ann Intern Med 1986;105:810-6. 10. Howit JW.How I read. Br Med J 1976;3:1113-4. 11. Schuman SH. Evaluating journal articles. In practice-based epidemiology. An introduction. New York: Gordon and breach science publisher, 1986:120-37. 12. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science. How to read clinical journals: II. To learn about a diagnostic test. Can Med Assoc J 1981;124:703-10. 13. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science.How to read clinical journals: III. To learn the clinical course and prognosis of the disease. Can Med Assoc J 1981;124:869-72. 14. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science.How to read clinical journals: IV. To determine etiology or causation. Can Med Assoc J 1981;124:985-90. 15. Department of Clinical Epidemiology and Biostatistics, McMaster University Health of Science.How to read clinical journals: V. To learn about a new technique. Can Med Assoc J 1981;124:1156-62. 16.Yancey JM. Ten rules for reading clinical research report. Am J Surg 1991;159:533-9. 17. Curry L, Putman RW.Continuing medical education in Maritime Canada: the methods physician use, would prefer and find most effective. Can Med Assoc J 1981;124:563-6. 18. Ingelfinger JF. The New England Journal of Medicine; Editor's report, 1967-1977. N Engl J Med 1977;296:1530-5. 19. Smith R.Steaming up windows and refereeing medical papers. Br Med J 1982;285:1259- 61. 20. Bolster A, Morgan PP.How CMAJ controls the quality of its scientific articles. Can Med Assoc J 1986;134:301-3. Chương 15 HOạT ĐộNG CủA MộT TạP CHÍ KHOA HọC Mục đích của một tạp chí khoa học là mang lại sự hiểu biết bằng việc phổ biến các hiện tượng và ý tưởng. Điều này đòi hỏi những người lãnh đạo phải đề ra được chính sách xuất bản của tạp chí và chính sách đó phải được Ban biên tập thực hiện. Tuy nhiên bản chất khoa học của một tạp chí tạo cho nó có một số điểm đặc trưng riêng biệt. Giá trị của các thông tin khoa học phải được kiểm chứng. Đội ngũ biên tập phải được xây dựng trước hết dựa trên tính khoa học. Các độc giả và tác giả thường không biết quá trình chuyển một hiện tượng khoa học thành một bài báo, đánh dấu bằng việc đăng trong một tạp chí diễn ra như thế nào. Nhiều người cho là Ban biên tập có rất nhiều tự do với những bản thảo gửi đến và có ý làm chậm việc đăng báo. Trên thực tế, việc đảm bảo hoạt động của một tờ tạp chí hàng tuần hay một tờ tạp chí hàng tháng khá phức tạp. Hình ảnh trụ sở Ban biên tập của một tờ báo viết, mô tả trong loạt phim nhiều tập hạng B của Mỹ vào những năm 1940 “Epinal” là một căn phòng rộng thênh thang đầy khói thuốc với khoảng 10 người đánh máy cắm cúi trên máy chữ, sự đi lại vội vã lộn xộn như trong địa ngục và sự lo lắng của ông Tổng biên tập vào buổi sáng sớm, phải đối diện với số phận của mình khi những trang báo đầu tiên rơi ra từ trục máy in. Hình ảnh này không khác xa nhiều với thực tế và việc cho ra “lò” thường xuyên các số báo của một tạp chí khoa học là một cuộc chiến không ngừng nghỉ. Mục đích của chương này là trình bày những nét lớn ảnh hưởng tới chính sách xuất bản của một tạp chí khoa học, công việc của Ban biên tập, những sự gò bó về vật chất cho việc xuất bản mỗi số báo. XÁC ĐỊNH CHÍNH SÁCH XUẤT BẢN Một tạp chí khoa học thường là cơ quan phát ngôn bằng chữ của một hay nhiều tổ chức khoa học. Mục đích của nó là khuyến khích sự hiểu biết và truyền đạt thông tin trong lĩnh vực khoa học tương ứng: lĩnh vực đó có thể rộng hay hẹp. Các tờ tạp chí Lancet, New England Journal of Medicine, Nature, La Presse Medicale đăng những thông tin được quan tâm bởi số lớn các thầy thuốc và nhà nghiên cứu. ở đây nhấn mạnh về tính độc đáo, tính mới của thông tin đăng tải. Ngược lại, các tạp chí Diabetes, Hepatology, Endocrinology, Gastroentérologie Clinique et Biologique đăng những thông tin trong một lĩnh vực chuyên ngành. Việc phá bỏ sự ngăn cách hiện nay giữa các ý tưởng khoa học dẫn tới việc nở rộ những tạp chí mới (thường liên quan đặc hiệu tới một lĩnh vực hơn là một chủ đề) như kiểu tạp chí EMBO (European Molicular Biology Organization) chuyên về sinh học phân tử hay tạp chí Journal of Metastases. Giới hạn cho sự chuyên biệt cao của các tạp chí khoa học được xây dựng dựa vào số độc giả tiềm tàng quan tâm tới thông tin đăng tải và có khả năng đặt mua. Do đó, điều rất quan trọng với một tờ báo là xác định mục đích khoa học và số độc giả mà tờ báo hướng tới. Một mặt khác của chính sách chung là xác định dạng bài báo sẽ đăng trong tờ tạp chí. Giữa các tạp chí khoa học khác nhau có các dạng bài trung gian, ví dụ như trong tạp chí Medicine, và tạp chí Science ở Pháp. Có những tạp chí lại chỉ đăng các bài báo công bố kết quả nghiên cứu như Cancer Research, Nature hay Annal of Surgery. Thường có sự pha trộn để tăng lượng phát hành một tạp chí cho các nhóm độc giả có sự quan tâm khác nhau hơn là cho những người rất chuyên khoa. Có những kiểu trình bày được rất nhiều tạp chí áp dụng như các dạng bài công bố kết quả nghiên cứu, các dạng bài xã luận bàn và bàn rộng về các bài báo xuất sắc hay các bài hiệu chỉnh. Bên cạnh những bài chính, có thể dành một chỗ cho sự phân tích các công trình đã đăng trong những tạp chí khác và có thể đăng thư của độc giả. Mục cuối cùng này tăng sự liên hệ của người đọc và tăng sự quan tâm của họ về sự sống tập thể của tạp chí. VAI TRÒ CỦA BAN BIÊN TẬP Ban biên tập được tổ chức hay những tổ chức khoa học ủy quyền để đảm bảo hoạt động khoa học của tờ báo. Vai trò của Ban biên tập có 3 điểm: Giám định nội dung khoa học của các bản thảo gửi đến Điều đầu tiên là đánh giá xem nội dung khoa học có tương ứng với mục đích khoa học của tạp chí không (1). Giới hạn của lĩnh vực này không phải là tuyệt đối. Một bài báo bề ngoài có vẻ ít liên quan lại có thể có những đóng góp quan trọng với lĩnh vực đề cập. Đôi khi có những công trình tuyệt vời về sinh lý thận hay tim lại đăng trong một tạp chí chuyên về bệnh lý gan. Điểm thứ hai là đánh giá giá trị khoa học của bản thảo: phương pháp sử dụng để trả lời mục tiêu đặt ra có phù hợp? Các kỹ thuật sử dụng có tốt, có quá cũ, có được áp dụng đúng? Các kết quả tìm được có sự gắn bó? Việc bàn luận các kết quả này có được thực hiện tốt? Sự phân tích nội dung khoa học này được thực hiện theo những cách rất khác nhau tùy theo từng tạp chí. Đôi khi nó được dựa trên sự đánh giá một cách chuyên chế bởi một nhóm ít người gồm Tổng biên tập và vài Phó Tổng biên tập. Cách này chưa hẳn là không tốt. Một số báo ngoại khoa của Mỹ, một tờ báo rất có uy tín là tờ Lancet hoạt động theo mô hình này. Tuy nhiên sự thành công của cách làm này đòi hỏi phải có một nhóm chuyên nghiệp trong Ban biện tập. Thường gặp hơn là Ban biên tập yêu cầu sự đánh giá của các chuyên gia có hiểu biết rất rộng về lĩnh vực mà bản thảo đề cập. Việc phân tích khoa học này đôi khi rất khó. Tạp chí Nature đã đưa ra một ví dụ về việc chấp nhận và đăng một bài báo (2) nhưng có kèm theo một lời chú thích của Ban biên tập ghi rõ rằng Ban biên tập thực tế không tin vào giá trị của các kết quả trình bày tuy nhiên vẫn thông tin tới độc giả (3) Vai trò của Ban biên tập, sự vô tư của họ càng cho thấy rõ sự quan trọng đối với con đường tiến thân nghề nghiệp y học của các tác giả khi có bài đăng trong các tờ báo có Ban biên tập. Một sự chọn lựa của các chuyên gia thường sử dụng là chậm đăng vì ý muốn nhanh chóng đăng các bài báo của tác giả ngược với sự cần thiết phải kiểm chứng chất lượng khoa học của chúng (4). Đảm bảo sự hoạt động của các mục khác nhau trong tờ báo Với một tạp chí nổi tiếng và được đánh giá cao, việc yêu cầu những bài báo có tính địa phương là không cần thiết. Số lượng độc giả của tờ báo, sự lựa chọn khắt khe của nó, điểm đánh giá của nó trong các hội đồng đề bạt chức vụ nghề nghiệp là con chủ bài tạo thuận lợi cho việc gửi bản thảo tới tờ báo đó. Chất lượng của các chuyên gia và của sự đối thoại giữa các tác giả và Ban biên tập, thời gian đăng bài nhanh cũng rất quan trọng. Đăng rất nhanh những công trình về một chủ đề đang có tính thời sự là điều rất hấp dẫn. Tuy nhiên, việc tìm kiếm những “scoop” (tin riêng) không còn được coi như chiến lược tốt trong chính sách xuất bản khoa học. Ban biên tập cũng phải đảm bảo hoạt động của những mục khác. Việc viết một bài hiệu chỉnh về một chủ đề mới hay làm thay đổi hoàn toàn kiến thức thường do Ban biên tập yêu cầu một nhà khoa học vừa có hiểu biết rất tốt về lĩnh vực đó và lại có khả năng viết rõ ràng sáng sủa. Những chuyên gia hiếm này thường rất hay được yêu cầu và do đó cần đảm bảo thường xuyên liên lạc để biết trước sự tiến triển của công việc. Ban biên tập cũng thường yêu cầu loại bài xã luận. Thường hay gặp nhất là bài này đi kèm với một bài đăng kết quả nghiên cứu để đặt lại một công trình trong bối cảnh chung, mang lại một yếu tố trái ngược. Một bài xã luận chỉ có giá trị khi nó tập hợp tài liệu rất tốt, dễ đọc và trình bày quan điểm cá nhân. Việc lựa chọn một bản thảo có thể là xuất phát cho một bài biên tập và việc viết bài này phải trong thời gian ngắn. Một mục khác cũng cần được thường xuyên quan tâm, đó là trường hợp các bài phân tích bình luận. Cần thường xuyên yêu cầu các nhà phân tích làm việc cho tạp chí để có thể đề nghị họ phân tích bài này hay bài khác hoặc một cuốn sách. Sự hoạt động của các mục khác nhau cần một sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên của Ban biên tập. Thông thường mỗi nhiệm vụ do một nhà khoa học chịu trách nhiệm và người này là thành viên Ban biên tập. Tạo ra các hoạt động phát triển tờ tạp chí. Các tạp chí cần có nhưng hoạt động thúc đẩy sự phát triển làm tăng lượng phát hành của tạp chí, làm tạp chí đến với những quần thể độc giả khác nhau và cải thiện hình ảnh của tờ báo. Trong số những hoạt động thúc đẩy phát triển này có việc xuất bản một loạt bài theo chủ đề nhân dịp một hội nghị khoa học như là tóm tắt báo cáo của hội nghị. Xuất bản một số đặc biệt dành cho một chủ đề đặc biệt. Tầm quan trọng của những hoạt động như vậy được minh hoạ rõ với sự kiện là các nhà xuất bản đấu tranh để xuất bản các tập tóm tắt; các bài báo cáo của các hội nghị quốc tế lớn. Sự thành công của các hoạt động phát triển này không những cần được các nhà khoa học biết cần được biết tới bởi ngành công nghiệp dược - vai trò cung cấp tài chính trong việc phổ biến kiến thức y học ngày càng quan trọng - biết tới. Các nhà xuất bản phải có một chính sách linh hoạt để tạo ra nguồn tài chính cho hoạt động thúc đẩy sự phát triển tờ báo của mình. HOẠT ĐỘNG CỦA BAN BIÊN TẬP Thành phần Ban biên tập Ban biên tập được xác lập bởi ban giám đốc của tạp chí. Trong số những yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn các thành viên Ban biên tập phải tính tới văn hoá khoa học trong từng lĩnh vực riêng nhưng cũng đòi hỏi văn hoá chung, kinh nghiệm xuất bản và biên tập khoa học, sự vô tư trong đánh giá khoa học và một vị trí cấp bậc đủ để thực hiện công việc hoàn toàn độc lập. Điều cần thiết là các thành viên Ban biên tập có khă năng bao quát các mặt khác nhau của lĩnh vực khoa học. Thời đại mà chức năng của người Tổng biên tập chỉ được coi là một vị trí danh dự và một nguồn quyền lực phải được thay đổi. Những tờ báo không nhận thức được điều đó sẽ bị suy sụp. Điều quan trọng là chức danh này cũng như hoạt động của các thành viên khác của Ban biên tập có một thời gian không quá vài năm. Điều này cho phép sự thay đổi, để có thể dẫn tới sự phát triển của tư duy trong khi vẫn phải đảm bảo sự liên tục hài hoà của chính sách xuất bản. Công việc biên tập là một công việc khó, lâu dài, tỷ mỷ, đòi hỏi một khả năng kiến thức đáp ứng được đòi hỏi chính xác về thời gian. Lựa chọn bản thảo: Các chuyên gia Việc chọn bản thảo là nhiệm vụ chính của Ban biên tập. Càng ngày việc lựa chọn này càng được thực hiện dựa trên ý kiến của các chuyên gia (trong tiếng Anh gọi là “referees”, còn trong tiếng Pháp không hiểu sao lại gọi là “lecteurs”). Đã có nhiều bài viết về việc đưa bản thảo xin ý kiến các chuyên gia có lợi không, về số chuyên gia cần tham khảo, thể thức chọn lựa của họ (5- 9). Một chuyên gia giỏi là người giỏi về mặt khoa học, có óc phân tích, luôn vô tư ngay khi được người ta yêu cầu hoàn thiện bản thảo của một người cạnh tranh với mình và làm việc nhanh (10). Nhiệm vụ của họ là rất khó khăn vì họ phải đánh giá giá trị của công trình, lợi ích công trình mang lại và cùng lúc phải kiểm tra sự đúng đắn của các kỹ thuật và kết quả, kiểm tra các số liệu và tính toán khoa học, xem xét để đảm bảo các tài liệu tham khảo được trích dẫn đúng và những công trình quan trọng không bị bỏ sót. Một chuyên gia tốt như vậy phải là người có tính cẩn thận, được Ban biên tập biết rõ, do Tổng biên tập lưu giữ trong danh mục. Việc ghi nhớ này sẽ xác định nhanh chóng chuyên gia nào làm mất bản thảo được gửi tới và ngược lại những ai tìm thấy một lỗi tính toán nhỏ nằm ẩn trong các kết quả hay ai đề nghị thay một tài liệu tham khảo được dẫn bằng một tài liệu khác thích hợp hơn. Ngoài ra cũng cần biết không nên gây quá tải cho những chuyên gia hàng đầu. Số người đó có hạn, đặc biệt trong một lĩnh vực hẹp và nhất là với một tờ tạp chí không phải viết bằng tiếng Anh. Ngược lại, một ấn phẩm định kỳ như British Journal of Surgery có sự giúp đỡ của 1200 chuyên gia (11). Một Ban biên tập không nên chỉ có một số chuyên gia quá “rắn”, phê bình gay gắt hoặc các chuyên gia quá “mềm” thường đề nghị chấp nhận phần lớn những bản thảo gửi đến. Việc chọn chuyên gia thường thực hiện với việc dung hợp 2 đặc tính này. Có hai câu hỏi cần được tranh luận về vấn đề chuyên gia: 1) Ban biên tập có phải tuân theo ý kiến của chuyên gia? Điều này không bắt buộc. Ban biên tập có thể giữ quan điểm của mình, yêu cầu ý kiến của một chuyên gia thứ ba hay bỏ qua quyết định của họ. Khả năng cuối cùng này thường là kết quả một cuộc thảo luận trong nội bộ Ban biên tập và với các chuyên gia. Không điều gì có tác dụng làm người chuyên gia cảm thấy bị tước đoạt bằng việc thấy bài báo được đăng là bài báo mà mình đã được yêu cầu đọc vài tháng trước và mình đã cho rằng đó là bài có động cơ tối nghĩa, sự nghèo nàn về kỹ thuật thực hiện, sự trình bày tầm thường. 2) Chuyên gia có cần vô danh? Điều này nói chung đảm bảo tính vô tư và khách quan khi tranh luận (12). Một số Ban biên tập yêu cầu vô danh tăng lên hai lần: tên của tác giả và cơ sở nơi công trình được thực hiện đều được giữ kín đối với chuyên gia. Một nghiên cứu tiến cứu có kiểm chứng đã cho thấy việc đánh giá các bản thảo sẽ tốt hơn khi các chuyên gia không biết tác giả (13). Ngược lại, có tạp chí khác lại chấp nhận đánh giá định danh và yêu cầu ngay với tác giả hãy tự đề nghị tên của 1 hay 2 chuyên gia để có thể chọn. Một khi đã có ý kiến đánh giá của chuyên gia, Ban biên tập sẽ quyết định với số bản thảo đã nhận: chấp nhận ngay không sửa là khả năng hiếm, từ chối hoặc đề nghị sửa đổi để gửi lại lần sau. Việc sửa đổi này có thể bao gồm một hay nhiều loạt xét nghiệm bổ sung. Điều quan trọng là thư của Ban biên tập gửi đến tác giả phải được trình bày rất rõ ràng, tránh hiểu lầm các yêu cầu sửa đổi (14). Khi tác giả đã thực hiện các sửa đổi theo yêu cầu, thường là bài báo được chấp nhận. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đảm bảo nếu những thay đổi được thực hiện không đáp ứng đủ theo ý muốn của các chuyên gia hay Ban biên tập. Tỷ lệ chấp nhận chính thức từng bản thảo của các tạp chí khác nhau. Với những tờ như New England Journal of Medicine, Annals of Internal Medicine tỷ lệ này là vào khoảng 10-15% (15), với những tờ British Journal of Surgery là 35%, với một tờ báo tiếng Pháp như Gastroenterologie Clinique et Biologique tỷ lệ này vào khoảng 70% (16). Sự hài hoà về văn phong Mỗi tạp chí khoa học thường có một đặc điểm riêng. Điều này do một mặt là sự phối hợp giữa các đặc điểm đánh máy và sự trình bày, mặt khác giữa ngôn ngữ và văn phong. Trách nhiệm của Ban biên tập là đảm bảo tôn trọng ngữ pháp, chính tả và các qui tắc logic của ngôn ngữ (17-19). Điều này dẫn tới việc đòi hỏi tác giả bản thảo khoa học có thể được chấp nhận đăng sửa bài theo một cách trình bày mới có tính đến những yếu tố biên tập này. Không hiếm gặp việc Ban biên tập yêu cầu sửa đổi. Các tạp chí có những Ban biên tập chuyên nghiệp không bắt buộc phải có hiểu biết cao về khoa học mà vai trò là sửa chất lượng trình bày của các bài báo và xác định trình độ của tờ tạp chí. ĐIỀU GÌ XẢY RA KHI MỘT BẢN THẢO ĐƯỢC CHẤP NHẬN ĐĂNG? Sắp xếp các số của tạp chí Ban biên tập và thường gặp nhất là Tổng biên tập chịu trách nhiệm sắp xếp các số của tờ tạp chí. Để hiểu rõ công việc biên tập, cần tự đặt mình ở vào một thời điểm nhất định, ví dụ như vào giữa tháng 1, Tổng biên tập phải: 1) thực hiện việc kiểm tra bản in chính thức (xem bông) của số tháng 2; 2) chữa bản in thử lần đầu các số tháng 3 và tháng 4; 3) gửi đến nhà xuất bản các bản thảo chuẩn bị sắp xếp cho các số tháng 5 và 6; 4) cố gắng để đưa ra quyết định xem bản thảo nào có thể sẽ chấp nhận đăng vào các số tháng 7 và 8; 5) phân phát cho các thành viên Ban biên tập các bản thảo mới nhận được để xem xét nếu chấp nhận thì sẽ đăng trong các số từ tháng 8 đến tháng 12. Điều này lặp lại hàng tháng làm người Tổng biên tập đôi khi có cảm giác bị cột chặt vào một sợi dây và không bao giờ có thể thoát ra khỏi số tiếp theo. Công việc này đòi hỏi người Tổng biên tập phải tiến hành rất nhiều việc tổ chức, phải có một ban thư ký có hiệu quả và một sự phối hợp tuyệt hảo với những thành viên khác của Ban biên tập, nhà xuất bản và đôi khi qua nhà xuất bản với nhà in. Tuy nhiên, thường thì Ban biên tập không làm việc trực tiếp với nhà in. Phần khó khăn nhất để "khoá" một số là những bài hiệu chỉnh theo chủ đề được yêu cầu đi kèm theo một bài báo có chất lượng. Hình 1. Từ bản thảo tới bài báo: một con đường phức tạp và tỷ mỷ. 1. Chịu trách nhiệm bởi một biên tập viên. 2. Đánh giá bởi các chuyên gia. 3. Yêu cầu sửa chữa của Ban biên tập. 4. Gửi bản thảo đã sửa. 5 & 6. Chấp nhận bản thảo và gửi tới Tổng biên tập để định dạng chính thức. 7. Nhà xuất bản xếp chữ và in bản in thử thứ nhất. 8. Cùng sửa bản in thử bởi nhà xuất bản, Tổng biên tập và tác giả. 9. In chính thức. 10. Phát hành tới độc giả. Khi đã được chấp nhận, có nghĩa là bản thảo đã đi qua một con đường phức tạp để tới đích cuối cùng: một bài báo trong tạp chí. Con đường này có nhiều giai đoạn (20). Sau khi xem xét lần cuối bài báo, bổ sung một số sửa chữa chi tiết, Tổng biên tập gửi bản thảo tới nhà xuất bản. Lúc này bản thảo được chịu trách nhiệm bởi nhà xuất bản và người sản xuất. Bộ phận này chuẩn hoá bản thảo đánh máy theo ngôn ngữ nhà in, nghĩa là chỉ định cỡ và kiểu chữ, xắp chữ cho bài báo tương lai, sắp xếp cột, vị trí các bảng và biểu đồ trong bài báo. Vai trò này rất quan trọng. Một người xuất bản giỏi biết các thói quen của Ban biên tập và làm việc trong sự phối hợp với Ban biên tập. Khi bài báo đã lên khuôn, nó sẽ được gửi cho nhà in. Sau khi in thử, bản in sẽ được gửi lại Ban biên tập để xem lại và sửa chữa cùng lúc bởi 2 hoặc 3 nơi: nhà xuất bản, Tổng biên tập, tác giả. Các tác giả thường tưởng rằng có thể và dễ dàng thay đổi nội dung bài vào giai đoạn này. Thực ra chỉ những sai sót xuất bản và các lỗi sắp chữ ở nhà in có thể chữa ở bản in thử này và bản thân nội dung của bài báo mà Ban biên tập đã chấp nhận không thể thay đổi được nữa. Những sửa chữa của bản in thử này sẽ được nhà in thực hiện và sau đó lên trang chính thức của số báo. Bản in thứ hai cũng như màu của bìa được xem lại lần cuối bởi Tổng biên tập là người quyết định cho in. Sau đó các số báo sẽ được phát hành tới các độc giả đặt mua. Những khó khăn tạm thời Các tác giả thường luôn ngạc nhiên về độ dài của khoảng thời gian từ lúc gửi bản thảo cho tới khi bài báo được đăng. Hiếm khi mà thời gian này ngắn hơn 10-12 tháng vì thời gian từ khi bản thảo được Ban biên tập chính thức chấp nhận cho tới khi được đăng bài là không dưới 4 tháng trong những điều kiện tốt nhất. Điều này do nhiều khó khăn gây nên. Khó khăn Không thể giải quyết được Chậm trễ do bưu điện: trong quá trình mô tả trên đây, ở nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình tiến triển bản thảo phải chu du giữa các tác giả, Tổng biên tập, Ban biên tập, các chuyên gia, bộ phận xuất bản và nhà in. Với một bản thảo được các chuyên gia chấp nhận ngay, lập tức phải cần không ít hơn 11 lần gửi thư, và điều này đòi hỏi ít nhất khoảng 30 ngày. Việc chuyển bản in điện tử và thư điện tử hiện nay cho phép giảm khoảng thời gian này (21). Việc đọc bản thảo của Tổng biên tập, hoặc do một biên tập viên khác, công việc của chuyên gia, công việc của nhà xuất bản, của nhà in, bản in thử, mỗi hoạt động đòi hỏi 5 đến 7 ngày khi được thực hiện với tốc độ nhanh nhất và trong điều kiện tốt nhất thì thời gian này đòi hỏi khoảng 60 ngày. Những chậm trễ có thể giải quyết được Việc biên tập khoa học rất hiếm khi được thực hiện bởi những biên tập viên chuyên nghiệp. Nhiệm vụ này thường phụ thêm vào công tác điều trị, giảng dạy và nghiên cứu của các bác sĩ ở các bệnh viện - đại học, những người này là các thành phần chính của Ban biên tập khoa học một tạp chí y khoa. Vì vậy thường là câu trả lời của các chuyên gia đòi hỏi khoảng từ 15 đến 20 ngày trong điều kiện tốt nhất, 2 tháng hay lâu hơn nữa trong điều kiện tồi hơn. Các biên tập viên dành một số thời gian trong công việc hàng tuần của họ vào công việc này. Phản ứng đầu tiên của một tác giả khi nhận được yêu cầu sửa đổi bản thảo là một phản ứng rất nhân văn là tâm trạng bị tước đoạt và nghi ngờ đối với Ban biên tập và các chuyên gia. Vì vậy hiếm khi mà các yêu cầu sửa chữa được thực hiện ngay vài ngày sau khi nhận được ý kiến của các chuyên gia. Việc sắp xếp các số báo cũng ảnh hưởng tới sự nhanh chóng của việc đăng bản thảo. Vào đầu năm, Ban biên tập thường đặt trước một số trang nhất định tương ứng với khả năng tài chính của tạp chí. Sự gò bó này là hợp lý nhưng đôi khi dẫn tới áp đặt số trang của mỗi số tạp chí bởi nhà xuất bản. Do vậy sự nhanh chóng xuất bản tùy thuộc vào lượng bản thảo gửi tới ở những thời điểm nhất định và sự bố trí chương trình của các số báo. Thông thường Ban biên tập gộp lại trong một số của tạp chí những bài báo đề cập tới những chủ đề khá gần nhau, dẫn tới việc chậm 1 đến 2 tháng để đăng một bản thảo. Tuy vậy đối với một tác giả có thể việc chậm đăng bài một chút lại có ích lợi khi bài báo được đăng cùng với những công trình khác về cùng chủ đề và cùng một bài xã luận. Những sự gò bó do chính sách phát triển Việc đăng trong một tạp chí những bài liên quan tới các báo cáo ở một hội thả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_nghien_cuu_y_hoc_phan_2.pdf
Tài liệu liên quan