Các bức xạ của mặt trời đi qua lớp
khí quyển đến mặt đất cũng tương
tự như vậy. Các bước sóng ngắn
xuyên qua khí quyển tương đối dễ
dàng đi xuống mặt đất làm nóng
những vật thể hấp thụ ánh sáng mặt
trời trên mặt đất. Khi nóng lên, các
vật thể này lại bức xạ nhưng vì
nhiệt độ thấp nên bước sóng của
các tia bức xạ này dài, vào cỡ tia
hồng ngoại. Khi bức xạ hồng ngoại
đi vào khí quyển, nếu trong khí
quyển có CO2 thì các phân tử
CO2 hấp thụ hồng ngoại rất mạnh
(do cấu tạo của phân tử CO2, tia
hồng ngoại kích thích mạnh các
dao động nguyên tử trong phân tử
CO2). Vì vậy, tia hồng ngoại (tức làsức nóng) không thoát ra khỏi khí
quyển được mà bị nhốt lại, khiến
trái đất nóng lên. Như vậy, các
phân tử khí CO2 trong khí quyển có
tác dụng như là lớp kính ở hiệu ứng
nhà kính. Trong khí quyển không
phải chỉ có CO2 gây ra hiệu ứng
nhà kính mà còn nhiều loại nữa như
hơi nước, mê tan, CFC. Tuy
nhiên, nếu phát thải ra quá nhiều thì
hiệu ứng nhà kính do CO2 gây ra
khá lớn, ảnh hưởng mạnh đến sự
tăng nhiệt độ trái đất, tức là làm
cho nhiệt độ toàn cầu tăng lên. Do
đó, muốn giảm thiểu sự ấm lên của
toàn cầu cần làm giảm phát thải
CO2.
18 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Sự ấm lên toàn cầu và vấn đề phát thải khí CO2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ ẤM LÊN TOÁN CẦU VÀ
VẤN ĐỀ PHÁT THẢI KHÍ CO2
Sự ấm lên toàn cầu
và vấn đề phát thải
khí CO2 – P1
(Hóa học ngày nay-H2N2)-Trong
khoảng vài chục năm gần đây, biến
đổi khí hậu đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến mọi quốc gia, gây ra
những hậu quả nặng nề. Nguyên
nhân của hiện tượng này là gì?
Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề xung
quanh hiện tượng biến đổi khí hậu,
mà trước hết là một số khái niệm.
Sự ấm lên toàn cầu
Ấm lên toàn cầu
(global warming) là một khái niệm
quốc tế được đưa ra cùng với định
nghĩa về cách đo nhiệt độ toàn cầu.
Từ lâu, nhiều quốc gia đã xây dựng
các trạm đo nhiệt độ khí quyển.
Các trạm đo này được bố trí ở
nhiều địa điểm khác nhau tại mỗi
nước, phục vụ công việc dự báo
thời tiết, thu thập số liệu về khí
tượng thuỷ văn... Các trạm đo đo
được nhiệt độ của không khí ở mặt
đất vào các thời điểm khác nhau:
Sáng, trưa, chiều, tối (nhiệt độ cao
nhất, thấp nhất) vào từng ngày,
tháng, năm... Từ đó, người ta tổng
hợp thành dữ liệu về nhiệt độ của
một vùng, miền, hoặc của cả một
nước. Sau này, có nhiều tổ chức
(trong đó có Tổ chức Liên chính
phủ về biến đổi khí hậu IPCC -
Intergovernmental Panel on
Climate Change) đã nghiên cứu
đưa ra khái niệm và tổ chức đo
nhiệt độ trung bình của không khí ở
gần mặt đất và đại dương trên toàn
trái đất. Để tiến hành công việc
này, người ta đã lấy số liệu đo được
từ các trạm đo trên mặt đất, các tàu
thủy ở đại dương và các số liệu đo
được từ vệ tinh. Người ta cố gắng
để các địa điểm lấy số liệu đo nhiệt
độ được phủ rộng nhiều nơi trên
mặt địa cầu và lấy trung bình theo
một chương trình tính toán đặc biệt
để kết quả trung bình có ý nghĩa.
Thực tế là, từ năm 1979 trở đi mới
có số liệu đo nhiệt độ tương đối
đầy đủ bằng vệ tinh và một mạng
lưới đo rộng khắp trên đất liền, trên
biển. Tuy nhiên, những năm trước
đó, với những số liệu thu thập được
từ các trạm khí tượng trên mặt đất,
mặt biển, người ta cũng đã tính
toán được nhiệt độ trung bình theo
như cách tính hiện nay và vẽ được
biểu đồ thay đổi nhiệt độ trung bình
của trái đất từ năm 1880 đến nay.
Người ta có thể lấy nhiệt độ trung
bình của nhiều năm (ví dụ từ 1961
đến 1980) làm đường nền rồi tính
ra sự thay đổi của nhiệt độ từng
năm theo đường nền đó. Hình 1 là
ví dụ về sự thay đổi nhiệt độ theo
năm.
Nhìn vào đồ thị ta thấy, trong một
thế kỷ (1900-2000), nhiệt độ trung
bình ở mặt địa cầu tăng
0,74±0,180C. Theo IPCC, từ giữa
thế kỷ XX, nhiệt độ tăng mạnh là
do bắt đầu có hiện tượng hiệu ứng
nhà kính - kết quả của việc con
người sử dụng nhiều nhiên liệu hoá
thạch và phá rừng. Kết luận này đã
được hơn 40 tổ chức khoa học uy
tín trên thế giới thừa nhận.
Theo tốc độ này, đến năm 2100,
nhiệt độ của trái đất có thể tăng từ
1,1 đến 6,40C. Việc tăng nhiệt độ
của trái đất làm tăng mực nước
biển, gây hiện tượng thời tiết bất
thường, mùa màng thay đổi, nhiều
loài bị tiêu diệt... Theo dự báo, nếu
không ngăn chặn các hoạt động làm
trái đất ấm lên thì đến năm 2030, ít
nhất có 2.000 đảo của Indonesia sẽ
biến mất; đến năm 2050, rừng
Amazon cũng sẽ không còn và đến
năm 2100, mực nước biển lên cao
hơn 0,6 m và 2 thành phố (London
và New York) sẽ bị nhấn chìm
trong nước, chỉ có sa mạc Sahara
lại xanh tươi như 12.000 năm
trước. Theo dự tính, tại vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, vùng duyên
hải miền Trung... của nước ta biển
cũng sẽ xâm lấn, đất đai bị co hẹp
lại.
Sự ấm lên toàn cầu
và vấn đề phát thải
khí CO2 – P2
Sự phát thải khí CO2
Các nhà khoa học phân tích những
nguyên nhân làm tăng CO2 trong
khí quyển như sau:
Chu trình cacbon
Các nhà khoa học tính toán rằng,
khoảng 4,5 tỷ năm trước đây, khi
trái đất bắt đầu hình thành, CO2 có
thể chiếm đến 80% trong khí
quyển. Nhưng cách đây 2 tỷ năm,
lượng CO2 chỉ còn khoảng 20-30%.
Trong khí quyển còn nhiều CO2nên
sự sống vẫn tồn tại. Cây cối quang
hợp rất mạnh làm cho nồng độ
CO2 giảm xuống và lượng oxy
trong khí quyển tăng lên.
Quá trình quang hợp tạo ra phản
ứng: CO2 + H2O + năng lượng mặt
trời ® O2 + đường.
Cây cối cũng như động vật khi hít
thở tạo ra phản ứng: Đường + O2 ®
CO2 + H2O + năng lượng.
Ngoài ra, khi cây cối và động vật
chết, xác chết bị phân huỷ làm cho
CO2 thoát ra. Lượng CO2 ra khỏi
khí quyển hàng năm được cân bằng
với lượng CO2 sinh ra do thở và do
phân hủy. Nhờ cơ chế này mà môi
trường được ổn định.
Đốt phá rừng
Khi cây cối chết, chúng thải
CO2 ra, đó là quá trình bình thường
của chu trình cacbon. Nhưng khi
cây cối bị đốn chặt để làm chất đốt
thì CO2 thải ra không khí nhiều
hơn, vì thế tốc độ thải CO2 càng gia
tăng khi con người gia tăng việc
đốn hạ cây xanh làm chất đốt. Nếu
cây cối bị đốn hạ để làm vật liệu
xây dựng, nhà cửa... mà không đốt
thì CO2 không phát thải nhiều,
nhưng do thiếu cây xanh nên sự
hấp thụ CO2 trong không khí giảm
đi và lượng CO2 tăng lên. Theo
thống kê của Liên hợp quốc, việc
phá rừng mạnh trong 2 thập kỷ 80
và 90 (thế kỷ XX) đã làm cho
lượng CO2 trong không khí tăng
lên, đồng thời lượng oxy trong
không khí giảm đi rõ rệt.
Nhiên liệu hoá thạch
Nguồn CO2 nữa là do lượng cacbon
rất lớn đã được lưu trữ từ trước
đây. Cacbon trong nhiên liệu hoá
thạch được lưu trữ từ hàng triệu
năm trước vì cơ thể sống không bị
phân hủy hoàn toàn, cacbon không
bị phát thải vào khí quyển dưới
dạng CO2, trái lại được lưu trữ
trong lòng đất. Trong khi khai thác
và đốt nhiên liệu hoá thạch,
CO2 mới được phát thải ra nhiều.
Như vậy, việc đốt nhiên liệu hoá
thạch đã nhanh chóng làm cho
cacbon bị giam giữ hàng triệu năm
trước phát thải mạnh lượng CO2.
Đây là nguyên nhân lớn nhất làm ô
nhiễm bầu không khí.
Sự ấm lên toàn cầu
Các nhà khoa học lý giải rằng, do
có nhiều phát thải khí CO2 nên đại
dương mới ấm lên. Nhưng có rất
nhiều CO2 bị giam giữ trong nguồn
nước trên bề mặt đại dương và khi
nhiệt độ đại dương tăng lên thì xảy
ra hiện tượng giải phóng nhiều
CO2 bị giam giữ đó (vì độ hoà tan
của CO2 trong nước biển tỷ lệ
nghịch với nhiệt độ). Như vậy, khi
trái đất ấm lên, lượng CO2 trong
nước ở đại dương giảm đi còn
lượng CO2 trong không khí trên
mặt nước lại tăng lên.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân làm
cho lượng CO2 trong không khí
tăng lên. Có thể phân biệt được
CO2 tăng lên trong khí quyển là từ
nguồn gốc nào nhờ cách đo đồng vị
phóng xạ. Cacbon có 3 đồng vị: C-
12, C-13 và C-14. C-12 có 6 nơtron
và 6 proton, là đồng vị cacbon bền
vững nhất, còn C-13 có 7 nơtron,
C-14 có 8 nơtron. Khi đo tỷ lệ đồng
vị cacbon trong CO2 có thể xác
định được nguồn gốc của nó. Qua
theo dõi, người ta biết được việc
dùng xăng dầu, đốt than cho các
nhà máy hoạt động phát thải nhiều
khí CO2 nhất hiện nay.
CO2 và hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính do Jean Baptiste
Joseph Fourier (người Pháp) lần
đầu tiên đặt tên. Khái niệm này
dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi
năng lượng bức xạ của tia nắng mặt
trời xuyên qua cửa sổ (hoặc mái
nhà bằng kính) một cách dễ dàng
nhưng khi các vật thể trong nhà do
hấp thụ bức xạ mặt trời nóng lên thì
lại sản xuất ra tia hồng ngoại (mà
tia hồng ngoại lại khó xuyên qua
kính để ra ngoài). Vì vậy, nhiệt như
bị “nhốt” lại ở phía trong khiến cho
nhà bị nóng lên.
Các bức xạ của mặt trời đi qua lớp
khí quyển đến mặt đất cũng tương
tự như vậy. Các bước sóng ngắn
xuyên qua khí quyển tương đối dễ
dàng đi xuống mặt đất làm nóng
những vật thể hấp thụ ánh sáng mặt
trời trên mặt đất. Khi nóng lên, các
vật thể này lại bức xạ nhưng vì
nhiệt độ thấp nên bước sóng của
các tia bức xạ này dài, vào cỡ tia
hồng ngoại. Khi bức xạ hồng ngoại
đi vào khí quyển, nếu trong khí
quyển có CO2 thì các phân tử
CO2 hấp thụ hồng ngoại rất mạnh
(do cấu tạo của phân tử CO2, tia
hồng ngoại kích thích mạnh các
dao động nguyên tử trong phân tử
CO2). Vì vậy, tia hồng ngoại (tức là
sức nóng) không thoát ra khỏi khí
quyển được mà bị nhốt lại, khiến
trái đất nóng lên. Như vậy, các
phân tử khí CO2 trong khí quyển có
tác dụng như là lớp kính ở hiệu ứng
nhà kính. Trong khí quyển không
phải chỉ có CO2 gây ra hiệu ứng
nhà kính mà còn nhiều loại nữa như
hơi nước, mê tan, CFC... Tuy
nhiên, nếu phát thải ra quá nhiều thì
hiệu ứng nhà kính do CO2 gây ra
khá lớn, ảnh hưởng mạnh đến sự
tăng nhiệt độ trái đất, tức là làm
cho nhiệt độ toàn cầu tăng lên. Do
đó, muốn giảm thiểu sự ấm lên của
toàn cầu cần làm giảm phát thải
CO2.
Trong kỳ tới, chúng ta sẽ tìm hiểu
cuộc đấu tranh để giảm sự phát thải
khí CO2 trên toàn thế giới mạnh mẽ
như thế nào.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_su_am_len_toan_cau_va_van_de_phat_thai_khi_co2.pdf