MÔ HÌNH BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM THEO CÁC VÙNG SINH THÁI
Đặc điểm chung của nước ta là đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ và đồng bằng chỉ
chiếm 1/4 lãnh thổ. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phía Bắc có 4 mùa, phía Nam có 2 mùa,
nhiệt độ trung bình năm cao 21 – 260C, độ ẩm cao. Do ảnh hưởng của gió mùa, địa hình
phức tạp nên khí hậu của nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác,
giữa nơi này với nơi khác, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Do đặc
tính ấy làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội như lề lối sinh hoạt: ăn, mặc, ở và bảo
vệ sức khoẻ. Theo địa lý và thống kê y tế (2001) nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái
như sau: Vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải
Miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
2.1. Miền núi Trung du Bắc bộ (Đông Bắc và Tây Bắc)
Kể từ năm 2001, Miền núi Trung du Bắc Bộ được chia thành vùng Đông Bắc và Tây
Bắc, gồm 16 tỉnh thành: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lao
Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Bắc Ninh và Quảng Ninh.
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế
· Là nơi tiếp giáp với các nước Lào và Trung Quốc, liền kề với Đồng bằng
Sông Hồng, nên có điều kiện để giao lưu.
· Địa hình núi non hiểm trở, giàu tài nguyên nhất là tài nguyên rừng và các
khoáng sản, nhiều sông, suối, biển
· Khí hậu vẫn là khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa
· Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Tày, Nùng, Thái, Mường,
Dao, H’mông, v.v Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
14
· Là vùng còn nghèo và khó khăn, mặc dù có nhiều tiến bộ về đời sống văn hoá
xã hội, nhưng vẫn còn có những phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến
công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng
33 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 699 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Sức khoẻ môi trường - Bài 2: Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng
đúc chật hẹp nơi họ rất dễ bị mắc các bệnh lao, bạch hầu và các bệnh tiêu chảy. Mặt khác,
như chúng ta đã biết, ước tính khoảng 99% các loài động thực vật có hại cho nông nghiệp
có thể bị kiểm soát bởi các kẻ thù trong tự nhiên, bao gồm chim, rắn, nhện, ong, nấm, các
bệnh do virus và nhiều sinh vật khác. Những tác nhân kiểm soát sinh học tự nhiên này đã
giúp cho nông dân tiết kiệm được hàng tỉ đô la mỗi năm bằng cách bảo vệ mùa màng khỏi
bị thất thoát và giảm nhu cầu sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật (Naylor và Ehrlich, 1997).
Khí hậu thay đổi, hệ sinh thái tự nhiên bị mất cân bằng làm cho quá trình kiểm soát sinh
học tự nhiên bị ảnh hưởng và điều này sẽ trực tiếp làm giảm năng suất trong sản xuất
nông nghiệp và gián tiếp tác động lên nền kinh tế và sức khoẻ của cộng đồng.
1.5.2. Nhiệt độ quá cao và hậu quả sức khoẻ
Do sự gia tăng của nhiệt độ, càng ngày chúng ta càng thấy nhiều trường hợp bị căng
thẳng do nhiệt độ, nhiều trường hợp có thể dẫn tới tử vong, đặc biệt là ở người già, trẻ em
và đối tượng có thu nhập thấp. Sự nhạy cảm của các nhóm đối tượng này có thể do nhiều
yếu tố vật lý và xã hội khác nhau quyết định, bao gồm: khả năng họ phải sống trong điều
kiện môi trường không thoáng mát, không có hệ thống thông gió hay điều hoà nhiệt độ.
Những bệnh nhân bị các bệnh tim mạch và hô hấp mãn tính là những người có nguy cơ
rất cao. Chúng ta đã chứng kiến hậu quả của thời tiết quá nóng bức xảy ra ở Chicago năm
1995, làm 500 người chết chỉ trong một thời gian ngắn. Những mô hình dự báo gần đây
cho rằng đến năm 2050 ở nhiều thành phố trên thế giới sẽ có thêm hàng ngàn người bị
chết mỗi năm do nóng bức.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
11
1.5.3. Gia tăng ô nhiễm không khí và hậu quả của nó tới sức khoẻ
Nhiệt độ tăng lên làm giảm chất lượng không khí, chủ yếu là do vấn đề tăng ô nhiễm
khí cacbon dioxit, nitơ oxit, ô zôn v.v. ở những khu vực đô thị nơi môi trường bị ô nhiễm
nặng. Nhiệt độ và tia tử ngoại ở tầng thấp của khí quyển tăng lên tạo điều kiện cho các
phản ứng hoá học xẩy ra mạnh mẽ và sản xuất ra khí ô zôn. Ô zôn là một khí phản ứng rất
mạnh và có thể trực tiếp làm ôxy hoá các phân tử, tạo ra các gốc tự do chứa nhiều năng
lượng và có thể làm tổn thương đến tế bào. Nồng độ ô zôn cao trong không khí có thể làm
gia tăng các trường hợp bị bệnh hô hấp và bệnh tim mạch. Người ta thấy rằng, những tác
động hô hấp cấp tính do ô zôn gây ra có liên quan tới bệnh hen suyễn ở trẻ em. Khí hậu
ấm hơn và ẩm ướt hơn ở nhiều vùng có thể làm tăng nồng độ các loại phấn hoa trong
không khí và rất có khả năng sẽ có tác động tiêu cực lên những người bị rối loạn dị ứng,
ví dụ những bệnh nhân bị hen suyễn hay bị sốt mùa cỏ khô (sốt mùa hè).
1.5.4. Những thay đổi trong hệ sinh thái và các bệnh truyền nhiễm
Xuất hiện các bệnh dịch mới và các bệnh có nguy cơ xuất hiện trở lại
(Nguồn: Fauci. A. S. "Các bệnh mới xuất hiện và các bệnh có nguy cơ quay trở lại" - Viện Sức
khoẻ Quốc gia, Bethesda, Maryland, Mỹ)
Sự kết hợp của thay đổi khí hậu, suy thoái môi trường và mất cân bằng các hệ sinh
thái đã tạo điều kiện lý tưởng cho sự quay trở lại cũng như sự xuất hiện và lây lan của
(Sốt xuất huyết Ebola)
(Sốt rét kháng
thuốc)
Hình 1. Một số ví dụ về các bệnh mới xuất hiện và các bệnh
có nguy cơ quay trở lại
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
12
nhiều căn bệnh truyền nhiễm - những bệnh đã làm hơn 17 triệu người bị tử vong hàng
năm trên thế giới. Hình 3.1 mô tả một số ví dụ về các bệnh mới nảy sinh và các bệnh có
nguy cơ xuất hiện trở lại ở các nước trên thế giới.
Khí hậu thay đổi làm thay đổi các hệ sinh thái, tỉ lệ giữa động vật săn mồi và con
mồi bị mất cân bằng dẫn tới các phương thức kiểm soát sinh học tự nhiên của các bệnh
truyền nhiễm và vector truyền bệnh cũng bị phá vỡ. Các loài cá nước ngọt, chim, lưỡng
cư và dơi là những loài giới hạn sự phát triển của muỗi (là vector truyền các bệnh sốt rét,
sốt xuất huyết, sốt vàng và viêm não). quạ, chó sói đồng cỏ và rắn giúp kiểm soát các
quần thể gặm nhấm. Một số loài gặm nhấm làm lây truyền các bệnh Lyme, hantavirus,
arenavirus (sốt xuất huyết), Leptospiroses và dịch hạch. Khi kẻ thù của các vector truyền
bệnh bị giảm về số lượng do tác động của thay đổi khí hậu trong lúc các quần thể vector
truyền bệnh lại phát triển mạnh mẽ thì các bệnh truyền qua vector sẽ có điều kiện lan tràn
và chúng ta khó có thể kiểm soát được. Các nhà khoa học cho rằng khí hậu ấm và ẩm hơn
đã tạo điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động của nhiều loại bệnh truyền nhiễm. Tiến sỹ
Epstein trong một nghiên cứu gần đây về "Sức khoẻ con người và sự thay đổi khí hậu" đã
cảnh báo rằng "Thay đổi khí hậu sẽ có nhiều tác động lên sức khoẻ con người và hầu hết
là các tác động có hại" (Epstein, 1998).
1.5.5. Thay đổi mô hình bệnh tật
Trong quá khứ đã có nhiều giai đoạn bệnh tật tàn phá xã hội loài người, ví dụ như
bệnh dịch hạch thời trung cổ xảy ra ở Châu Âu. Vấn đề này đã xảy ra đồng thời với sự gia
tăng dân số, sự đô thị hoá và môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Với sự ấm lên của
toàn cầu như hiện nay cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các hệ sinh thái đã tạo điều kiện cho
các mô hình bệnh tật thay đổi trên một diện rộng. Trong nghiên cứu của Tiến sỹ Epstein,
ông đã đưa ra 3 tác động chính mà sự thay đổi khí hậu có thể gây ra cho sức khoẻ cộng
đồng, đó là:
· Tạo điều kiện thuận lợi cho sự bùng nổ các vụ dịch bệnh truyền nhiễm
· Tăng khả năng lây truyền các bệnh truyền qua vector và làm hàng triệu người
bị phơi nhiễm với các bệnh mới nảy sinh cũng như phơi nhiễm với nhiều
nguy cơ sức khoẻ khác nhau.
· Cản trở sự kiểm soát bệnh dịch trong tương lai
Ngoài ra, một trong những nhân tố không kém phần quan trọng trong việc làm lây
lan các bệnh mới nảy sinh, góp phần thay đổi mô hình bệnh tật trên thế giới đó là việc đi
lại, thông thương giữa các quốc gia bằng ô tô, tàu cao tốc hay máy bay. Thời xa xưa,
phương tiện vận tải chủ yếu giữa các nước là tàu biển hay xe thô sơ, vì vậy thời gian đi
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
13
sang một vùng khác hay một nước khác là khá lâu. Các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm
có thể bị chết trên đường đi và làm hạn chế sự lây lan bệnh tật giữa các vùng. Trong xã
hội hiện đại ngày nay, việc đi lại giữa các nước bằng máy bay thuận tiện và nhanh hơn
nhiều. Theo Alleyne (1998), năm 1995 có hơn 1 triệu người sử dụng máy bay mỗi ngày.
Mặc dù đem lại nhiều lợi ích cho con người nhưng điều này cũng góp phần làm lây lan
bệnh tật. Ngoài các bệnh truyền nhiễm thì ngày nay ở nhiều nước mà nhất là ở những
nước phát triển đang phải đương đầu với các bệnh không truyền nhiễm nhưng có tỉ lệ tử
vong cao như ung thư, tiểu đường, tim mạch, béo phì v.v...
2. MÔ HÌNH BỆNH TẬT Ở VIỆT NAM THEO CÁC VÙNG SINH THÁI
Đặc điểm chung của nước ta là đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ và đồng bằng chỉ
chiếm 1/4 lãnh thổ. Khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phía Bắc có 4 mùa, phía Nam có 2 mùa,
nhiệt độ trung bình năm cao 21 – 260C, độ ẩm cao. Do ảnh hưởng của gió mùa, địa hình
phức tạp nên khí hậu của nước ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác,
giữa nơi này với nơi khác, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Do đặc
tính ấy làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội như lề lối sinh hoạt: ăn, mặc, ở và bảo
vệ sức khoẻ. Theo địa lý và thống kê y tế (2001) nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái
như sau: Vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải
Miền trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
2.1. Miền núi Trung du Bắc bộ (Đông Bắc và Tây Bắc)
Kể từ năm 2001, Miền núi Trung du Bắc Bộ được chia thành vùng Đông Bắc và Tây
Bắc, gồm 16 tỉnh thành: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lao
Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Bắc Ninh và Quảng Ninh.
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế
· Là nơi tiếp giáp với các nước Lào và Trung Quốc, liền kề với Đồng bằng
Sông Hồng, nên có điều kiện để giao lưu.
· Địa hình núi non hiểm trở, giàu tài nguyên nhất là tài nguyên rừng và các
khoáng sản, nhiều sông, suối, biển
· Khí hậu vẫn là khí hậu nhiệt đới, có 4 mùa
· Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc ít người như Tày, Nùng, Thái, Mường,
Dao, H’mông, v.v
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
14
· Là vùng còn nghèo và khó khăn, mặc dù có nhiều tiến bộ về đời sống văn hoá
xã hội, nhưng vẫn còn có những phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến
công việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
2.1.2. Mô hình bệnh tật
Từ những đặc điểm về địa lý, kinh tế như vậy nên kéo theo những vấn đề về sức
khoẻ, bệnh tật cũng có những điểm khác do với các vùng khác như đây là nơi tập trung
khá nhiều những bệnh liên quan đến côn trùng, đói nghèo, phong tục,. biểu hiện qua 10
bệnh mắc cao nhất như được trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4. Mười bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất năm 2005
STT Vùng Đông Bắc Vùng Tây Bắc
1 Viêm họng và viêm Amidan cấp Các bệnh viêm phổi
2 Viêm phế quản và viêm tiểu phế
quản cấp
Viêm họng và viêm Amidan cấp
3 Các bệnh viêm phổi ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có
nguồn gốc nhiễm khuẩn
4 Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có
nguồn gốc nhiễm khuẩn
Cúm
5 Viêm khớp dạng thấp và viêm
khớp khác
Viêm nhiễm cổ tử cung
6 Tai nạn giao thông Tai nạn giao thông
7 Viêm dạ dày tá tràng Viêm phế quản và viêm tiểu phế
quản cấp
8 Cúm Viêm dạ dày và tá tràng
9 Tổn thương thần kinh, rễ và đám
rối thần kinh
Suy dinh dưỡng
10 Đau nửa đầu và các hội chứng
đau đầu khác
Tổn thương thần kinh, rễ và đám
rối thần kinh
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
2.2. Đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng Sông Hồng gồm 9 tỉnh thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải
Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
15
2.2.1 Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội
· Đồng bằng Sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc
với một vùng biển bao quanh ở phía đông và đông - nam.
· Là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước, mật độ dân số trung
bình 1180 người/km2 (1999)
· Địa hình bằng phẳng có thế mạnh về phát triển lương thực, thực phẩm, khoa
học kỹ thuật, công nghệ. Do thế mạnh về phát triển lương thực thực phẩm,
chăn nuôi, canh tác nông nghiệp nên gây ra mô hình bệnh tật có khác với các
vùng khác.
· Là vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước.
2.2.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 5. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Các bệnh viêm phổi
2 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
3 Viêm họng và viêm amidan cấp
4 Iả chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
5 Sâu răng
6 Tai nạn giao thông
7 Tăng huyết áp nguyên phát
8 Viêm khớp dạng thấp và viêm khớp khác
9 Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
10 Viêm dạ dày và tá tràng
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
2.3. Bắc Trung Bộ
Bắc trung bộ gồm 6 tỉnh là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
16
2.3.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
· Đây là vùng lãnh thổ hẹp theo chiều đông – tây nhưng dài theo chiều bắc
nam. Là vùng có cả đồng bằng, miền núi cao, là nơi có dãy Trường Sơn chạy
dọc theo chiều bắc nam, chạy dọc theo biển đông. Tiếp giáp với nước Lào.
Đường xá giao thông trong vùng còn nhiều khó khăn và có đường số 1 và
đường Hồ Chí Minh chạy qua
· Khí hậu ảnh hưởng của gió lào về mùa hè nên nóng, ẩm, mưa lũ theo mùa. Là
vùng chịu ảnh hưởng khá nhiều thiên tai và bị tàn phá nhiều trong thời gian
chiến tranh.
· Là vùng phát triển cả kinh tế rừng, biển và nông nghiệp.
· Là nơi cư trú của nhiều dân tộc khác nhau và còn nhiều dân tộc ít người sống
rất sâu, xa có nhiều phong tục tập quán lạc hậu.
2.3.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 6. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Bắc Trung Bộ năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Các bệnh viêm phổi
2 Tai nạn giao thông
3 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
4 Di chứng phong
5 ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
6 Bệnh phổi không do phế cầu khuẩn
7 Viêm họng và viêm amidan cấp
8 Cúm
9 Lỵ Amip
10 Tăng huyết áp nguyên phát
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
2.4. Duyên hải Nam Trung Bộ
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
17
Vùng địa lý Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh thành là Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận.
2.4.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
· Khác với bắc trung bộ, qua đèo Hải Vân, Duyên hải Miền trung có khí hậu 2
mùa là mùa khô và mùa mưa. Không có mùa đông, khí hậu ôn hoà hơn,
nhưng vẫn là vùng chịu nhiều thiên tai và hậu quả của chiến tranh.
· Lãnh thổ hẹp chạy dọc theo bờ biển Đông, địa hình có núi đồi, đồng bằng ven
biển
· Là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, phong tục có những nét khác
của Bắc trung bộ
· Thế mạnh là tài nguyên rừng, độ che phủ của rừng là 34%, ngư nghiệp và
nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ hải sản, nhiều ngành công nghiệp khai
thác, chế biến phát triển
· Có nhiều khu có thể trở thành khu du lịch
· Phát triển kinh tế – xã hội của vùng thực sự vẫn còn khó khăn.
2.4.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 7. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Duyên hải Nam Trung Bộ năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Các bệnh viêm phổi
2 Viêm họng và amidan cấp
3 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
4 Tai nạn giao thông
5 ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
6 Tăng huyết áp nguyên phát
7 Cúm
8 Viêm dạ dày và tá tràng
9 Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
10 Bệnh ruột thừa
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
18
2.5. Tây Nguyên
Tây Nguyên có 4 tỉnh là Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk và Lâm Đồng.
2.5.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
· Đây là vùng duy nhất ở nước ta không giáp với biển.
· Giáp với Lào và Cămpuchia, có vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế.
· Đa dạng về tài nguyên rừng và khí hậu, là nơi có thể phát triển thành những
khu du lịch và nghỉ mát, có tiềm năng to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp.
Có trữ năng thuỷ điện lớn.
· Là nơi thưa dân nhất nước ta, là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người như
Xudăng, Ba na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Mạ, M’nông, với truyền thống văn
hoá độc đáo
· Hệ thống y tế phát triển tương đối tốt nhưng sử dụng của người dân còn thấp,
đặc biệt là các dân tộc ít người.
2.5.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 8. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Tây Nguyên năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Cúm
2 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
3 Các bệnh viêm phổi
4 Viêm họng và viêm amidan cấp
5 Tai nạn giao thông
6 Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
7 Viêm dạ dày và tá tràng
8 Ỉa chảy do Shigella
9 Sốt rét
10 Bệnh của ruột thừa
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
19
2.6. Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh thành: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Bương, Bình
Phước, Tây Ninh và Đồng Nai.
2.6.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
· Là khu vực có diện tích nhỏ, mật độ dân số trung bình nhưng phát triển nhất
trong cả nước về sản lượng công nghiệp, hàng xuất khẩu
· Đất đai màu mỡ, có điều kiện để phát triển cây công nghiệp lâu năm và ngắn
ngày trên qui mô lớn
· Là khu vực thu hút mạnh lực lượng lao động có chuyên môn cao, thợ lành
nghề, các nhà khoa học và là vùng có tài nguyên chất xám lớn.
· Có điều kiện và khả năng phát triển công nghiệp, các hoạt động du lịch, dịch
vụ, chế biến, xuất, nhập khẩu,
· Khai thác kinh tế biển, bờ biển, phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp
· Khí hậu ôn hoà chỉ có 2 mùa mưa và khô, thời kỳ mùa khô kéo dài (4 tháng)
dẫn đến thiếu nước sinh hoạt, tưới cho cây trồng và công nghiệp.
2.6.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 9. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đông Nam Bộ năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Các bệnh viêm phổi
2 Viêm họng và viêm amidan cấp
3 U ác dạ dày
4 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
5 Thương hàn, phó thương hàn
6 Tai nạn giao thông
7 Tăng huyết áp nguyên phát
8 Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
9 Đục thể thủy tinh, tổn thương khác của thể thủy tinh
10 Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
Nguồn: Niên giám thống kê y tế, 2005.
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
20
2.7. Đồng bằng sông Cửu Long
Gồm 12 tỉnh là Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,
Trà Vinh, CầnThơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
2.7.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế – xã hội
· Là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước với diện tích 4 triệu ha, mùa mưa đồng
bằng bị ngập sâu trong nước, mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn,
đất rộng dân thưa, chưa được khai thác nhiều.
· Có 16,1 triệu dân sinh sống chủ yếu là người Kinh và người Chăm, Kh’me,
· Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô nên
việc giao thông bằng đường thuỷ dễ dàng.
· Khí hâu cận xích đạo, nhiệt đới ẩm, mùa khô kéo dài làm cho đất nước bị
nhiễm mặn vào sâu đất liền.
· Thảm thực vật, động vật phong phú chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm,
tài nguyên biển vô cùng phông phú.
· Thiếu nước ngọt đang là một vấn đề vô cùng quan trọng của Đồng bằng Sông
Cửu Long.
2.7.2. Đặc điểm về bệnh tật
Bảng 10. Mười bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất vùng Đồng bằng Sông Mê Kông năm 2005
STT 10 bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất năm 2005
1 Các bệnh viêm phổi
2 Tăng huyết áp nguyên phát
3 Ỉa chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn
4 Viêm họng và viêm amidan cấp
5 Tai nạn giao thông
6 Sốt virut khác do tiết túc truyền và sốt virut xuất huyết
7 Viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp
8 Viêm dạ dày và tá tràng
9 Bệnh của ruột thừa
10 Cúm
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
21
(Nguồn: Niên giám Thống kê Y tế 2005)
Đây là những sơ thảo ban đầu về các vấn đề bệnh tật theo vùng sinh thái. Rõ ràng
theo số liệu thống kê thì mô hình bệnh tật ở các vùng sinh thái khác nhau là khác nhau và
đã có sự thay đổi trong những năm qua. Có tác giả đã nghiên cứu về đại tầng với sinh
thái, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào về những vấn đề này.
Hiện trên toàn quốc vẫn chưa có một nghiên cứu chi tiết nào về vào trò của những biến
đổi của sinh thái với những thay đổi của mô hình bệnh tật ở các vùng. Do vậy, những
nghiên cứu về mối quan hệ giữa ảnh hưởng sinh thái của các vùng khác nhau cũng như
những thay đổi sinh thái học ở từng vùng với sức khoẻ và mô hình bệnh tật của cộng đồng
dân cư vùng sở tại là rất cần thiết.
3. NHỮNG THAY ĐỔI SINH THÁI HỌC VÀ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN LIÊN
QUAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG
3.1. Các bệnh truyền nhiễm
3.1.1. Bệnh truyền qua các vật chủ trung gian
Nguyên nhân chính của việc gia tăng tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử vong liên quan tới sự
nóng lên của trái đất có thể không phải là do tác động trực tiếp của sóng nhiệt. Có nhiều
bằng chứng cho thấy rằng một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trước đây chỉ phổ biến ở
các nước có khí hậu nóng ấm thì nay có nguy cơ lan tràn sang nhiều vùng khác trên toàn
thế giới. Đây là một trong những vấn đề quan trọng hiện đang thách thức các chương
trình sức khoẻ công cộng. Với xu hướng đô thị hoá, các biện pháp kiểm soát vector không
hiệu quả và sự gia tăng của việc đi lại thông thương giữa các nước trên thế giới cũng như
sự di cư của người dân từ nước này sang nước khác là những yếu tố chính dẫn tới sự tái
xuất hiện trở lại các bệnh truyền qua vector. Sự mở rộng của các vùng không có sương
tuyết có thể dẫn tới sự di cư của các loài côn trùng và gặm nhấm làm lây lan các bệnh ở
vùng có khí hậu nóng ấm tới các vùng cao nguyên, đồi núi. Những gì có lợi cho vi sinh
vật có hại thì hiếm khi có lợi cho con người. Nhiệt độ ấm lên trong một thời gian dài do
khí hậu thay đổi sẽ tạo điều kiện lý tưởng cho các loài muỗi và nhiều loài vector truyền
bệnh khác sinh sôi nảy nở, làm lây lan các bệnh truyền nhiễm (xem Hình 3.2)
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
22
(Nguồn: Paul R. Epstein (2001), Global warming: Health and disease. )
· Bệnh sốt rét
Vấn đề đang thu hút được sự quan tâm rất lớn là bệnh sốt rét. Sốt rét hiện là một
trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trên thế giới và ước tính có khoảng 300 đến
500 triệu người bị mắc và có thêm khoảng 1,5 đến 2,7 triệu người bị chết hàng năm vì căn
bệnh này. Hơn một nửa trong số các trường hợp bị tử vong là trẻ em, đặc biệt là trẻ em
sống ở những vùng nông thôn nghèo nàn ở Châu Phi - châu lục có nhiều người mắc bệnh
sốt rét nhất (Watson và cộng sự 1995). 60 trong số 380 loài muỗi được biết đến trên thế
giới có khả năng truyền bệnh sốt rét. ở Việt Nam có khoảng 20 loài muỗi truyền bệnh sốt
rét, trong đó một số loài chính là Anophel minimus, Anophel dirus và Anophel
balabasensis Người ta cho rằng bệnh sốt rét là căn bệnh truyền qua vector chịu ảnh
hưởng lớn nhất của sự thay đổi khí hậu, vì muỗi rất nhạy cảm với những thay đổi thời tiết.
Những thay đổi khí hậu kéo theo thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm và gió sẽ ảnh
hưởng tới vòng đời và sự phát triển của muỗi và gián tiếp ảnh hưởng tới sự lan tràn của
bệnh sốt rét.
Sốt rét do muỗi truyền thường được tìm thấy ở những vùng có nhiệt độ thấp nhất vào
mùa đông không dưới 160C. Sự mở rộng của các vùng có nhiệt độ trên 160C vào mùa
đông đồng thời cũng nới rộng phạm vi hoành hành của căn bệnh sốt rét và gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho sức khoẻ con người. Giữa những năm1950, nhiều quốc gia trên thế giới
tin chắc rằng họ sẽ thanh toán được căn bệnh này nhờ phun thuốc DDT liều cao để diệt
trừ muỗi Anopheles. Tuy nhiên, những quốc gia này đã chịu thất bại vì muỗi Anopheles
Hình 2 - Một số hậu quả của sự ấm lên trên toàn cầu (global warming)
và thay đổi sinh thái lên sức khoẻ con người
Bộ môn Sức khoẻ môi trường Cơ sở sinh thái học của sức khoẻ và bệnh tật
23
nhanh chóng trở nên kháng thuốc và càng nguy hiểm hơn cho sức khoẻ cộng đồng. Từ
đầu những năm 1970, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở nhiều nơi trên thế giới và dưới
dạng nguy hiểm hơn. Sự gia tăng số trường hợp bị sốt rét trong những năm gần đây một
phần là do sự ấm lên trên toàn cầu, đồng thời do con người xây dựng nhiều đập nước và
các hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các quần thể muỗi
sinh sôi phát triển mạnh mẽ làm lây lan căn bệnh này. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì đến
cuối thế kỷ 21, hàng năm sẽ có thêm khoảng 50 - 80 triệu trường hợp bị sốt rét (WHO,
1996).
· Sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là căn bệnh nhiệt đới do muỗi truyền. Đây là căn bệnh nguy hiểm do
virus truyền qua muỗi vằn đốt người vào ban ngày. Khí hậu vùng nhiệt đới với nhiệt độ
giao động từ 15 đến 40 0C và độ ẩm cao kết hợp với môi trường sống đông đúc, mất vệ
sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho căn bệnh này phát triển. Căn bệnh này có hai thể: Sốt
Dengue và sốt xuất huyết Dengue. Sốt Dengue có triệu chứng tương tự như cảm cúm,
thường xảy ra ở trẻ lớn, người lớn và ít khi gây tử vong. Trái lại, sốt xuất huyết Dengue là
thể thứ phát rất nguy hiểm, có xuất huyết và bệnh nhân có thể bị chết nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời (Nguyễn, 1996). Sốt xuất huyết là nguyên nhân hàng đầu
của các trường hợp nhập viện và tử vong của trẻ em ở các nước Đông Nam Á và Tây Á
Thái Bình Dương. Căn bệnh ước tính làm tổn hại tới khoảng 30 đến 60 triệu người hàng
năm (Rodhain, 1996). Ở Việt Nam, sốt xuất huyết xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành phố vào
các tháng rải rác trong năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa từ tháng 6
đến tháng 10 (Hoàng, 2001). Theo dự đoán của tiến sỹ Epstein thì thay đổi khí hậu là một
nguyên nhân chính gây ra sự lan tràn bệnh sốt xuất huyết. Ngày nay, sốt xuất huyết xuất
hiện khá phổ biến ở các nước Châu Á và Châu Mỹ - La Tinh. Các bằng chứng cho dự
đoán này đó là người ta đã ghi lại các trường hợp bị sốt xuất huyết ở những vùng có độ
cao lớn hơn trước, ví dụ 1.240 mét ở Trung Mỹ, 1.000 mét ở Mêhicô và 2.200 mét ở
Colômbia. Vì hiện nay, sốt xuất huyết chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như chưa có
vắc xin phòng bệnh, do đó biện pháp phòng chống tích cực chủ yếu dựa vào sự tham gia
của cộng đồng để diệt muỗi truyền bệnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_suc_khoe_moi_truong_bai_2_co_so_sinh_thai_hoc_cua.pdf