Thứ nhất là những khó khăn liên quan đến
việc thay đổi chế độ sinh hoạt do hoạt động học tập đòi
hỏi như, phải dậy đúng giờ, đi học đều đặn, thực hiện
đúng nội qui lớp học, nội qui nhà trường như học bài,
làm bài, mang dụng cụ học tập đầy đủ. Những khó
khăn này gắn với thói quen và nề nếp sinh hoạt
thường ngày của trẻ. Nếu ở tuổi mẫu giáo lớn các bậc
cha mẹ và cô giáo đã có sự rèn luyện, chuẩn bị trước
thì trẻ đầu lớp 1 sẽ dần dần vượt qua mọi trở ngại.
Thứ hai là những khó khăn bắt nguồn từ việc
thay đổi môi trường hoạt động. Trước đây trẻ chỉ sống,
vui chơi, hoạt động trong gia đình, hoặc được bao bọc
bởi tình thương yêu của những người ruột thịt. Giờ đây
nó được học tập, sinh hoạt trong một tập thể lớp học
có những mục đích chung, dưới sự dạy dỗ của thầygiáo, cô giáo. Hoạt động này đòi hỏi một sự hòa nhập
cần thiết giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với
nhau. Những kết quả nghiên cứu ở trong và ngoài
nước cho thấy có một số học sinh vào lớp một khó
thích ứng với môi trường giao tiếp mới, nên quá rụt rè,
sợ sệt, bẽn lẽn trước thầy cô giáo và bạn bè, trẻ cảm
thấy bị cô độc, cá biệt có những em đến lớp học là
khóc vì bố mẹ ra về v.v. Đó là những biểu hiện của
những loại khó khăn này.
272 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm lý học phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu niên đã có một
vị trí xã hội mới: nó không hoàn toàn là trẻ con và cũng
chưa phải là người lớn, đây là giai đoạn đặc trưng với
các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam và nữ. Về mặt giải
phẫu sinh lý và thể chất, đứa trẻ đã có những điều kiện
chín muồi cơ bản mà đặc điểm nổi bật nhất là sự phát
triển của quá trình phát đục. Tiếp đó là những cải tổ
của cơ thể về mặt hình thái của các mô và các tuyến
nội tiết như tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng, tuyến
thượng thận. Hoạt động của các tuyến này dẫn đến
thay đổi về hình thái, đặc biệt là sự phát triển nhảy vọt
về chiều cao. Có năm trẻ em cao từ 5 - 6cm (đối với
nữ) và 8 - 10cm (đối với nam). Những dấu hiệu đặc
trưng của tuổi dậy thì diễn ra ở trẻ em nữ vào khoảng
11 – 13 tuổi ở em trai từ 13 -15 tuổi. Trong giai đoạn
I. VỊ THẾ XÃ HỘI VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN
CỦA LỨA TUỔI THIẾU NIÊN
này, ngực, lông ở nách, ở bộ phận sinh dục của các
em gái phát triển, đồng thời xuất hiện kinh nguyệt, dấu
hiệu chính của sự dậy thì đầy đủ. ở các em trai, ngực
bắt đầu nở nang, những dấu hiệu phụ của bộ phận
sinh dục phát triển và cuối cùng là hiện tượng xuất tinh
báo hiệu sự chín muồi của quá trình phát dục.
2. Những thay đổi rất cơ bản ở trên làm cho
trẻ em có ấn tượng sâu sắc rằng: "Mình không còn là
trẻ con nữa". Sự xuất hiện ý nghĩ về sự thay đổi vai trò
xã hội của đứa trẻ rõ ràng có những cơ sở khách
quan. Trước hết thiếu niên ý thức và đánh giá được
những biến chuyển trong sự phát triển thể chất, trong
sự phát dục của mình. Nó cảm thấy mình "người lớn"
một cách có căn cứ. Mặt khác chính người lớn cũng
không hoàn toàn coi thiếu niên như đứa trẻ trước đây
(Trong gia đình các em đã tham gia lao động góp
phần giải quyết những khó khăn về kinh tế hoặc tăng
thu nhập. Về mặt tri thức nhiều em cảm thấy mình cao
hơn bố, mẹ...). Tất cả những cái đó gây ra ở thiếu niên
nguyện vọng muốn được làm người lớn và được đối
xử như người lớn.
Tuy nhiên về mặt xã hội mà xét, thiếu niên vẫn
còn là những học sinh, còn phụ thuộc vào bố, mẹ về
nhiều mặt. ở các em có nhiều biểu hiện mang tính trẻ
con: trong dáng dấp, hành vi. Bởi vậy nhìn chung
người lớn vẫn coi thiếu niên là những đứa trẻ. Từ đó
xảy ra mâu thuẫn khá phổ biến giữa người lớn và trẻ
em trong giao tiếp và ứng xử. Sự không thay đổi về
ứng xử giữa người lớn với thiếu niên, trong khi thiếu
niên tự coi mình là người lớn gây ra không ít những
đụng độ, thậm chí "xung đột" ở lứa tuổi này.
Khi ý thức tự trọng và ý muốn đối xử như
người lớn phát triển, về phía mình, thiếu niên thường
có tâm lý "phóng đại" các năng lực của mình, thường
đánh giá cao hơn hiện thực. Điều này thường thể hiện
dưới dạng ngang bướng, tỏ ra "anh hùng", "bất cần"
trước những việc làm hằng ngày cũng như những thất
bại mà thiếu niên trải nghiệm. Đây chính là một trong
những khó khăn điển hình của lứa tuổi thiếu niên, mà
nhiều nhà tâm lý học đã dùng những thuật ngữ "tuổi
khủng hoảng", "tuổi bất trị", "tuổi không thể giáo dục"
v.v... Sự thực thì những khó khăn, những xung đột này
có thể giải quyết được bằng con đường giáo dục đúng
đắn. Nghĩa là một mặt người lớn phải hiểu được
những thay đổi cơ bản ở lứa tuổi này, thông cảm với
những biểu hiện "khác lạ" ở các em, có biện pháp giáo
dục phù hợp. Mặt khác chính thiếu niên cũng phải
được giáo dục để hiểu chính mình thông qua giáo dục
giới tính để có cách cư xử cho phù hợp.
Trong thực tế sự trưởng thành về mặt xã hội
của tuổi thiếu niên (tâm lý muốn là người lớn) phát
triển không phải đồng đều ở tất cả trẻ em. Trong
những hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau, tâm lý
này có biểu hiện khác nhau. Gần đây người ta phát
hiện thấy tình trạng tăng gia tốc phát triển của tuổi dậy
thì ở những nước phát triển, ở những vùng có khí hậu
khác nhau. Ngay trong một môi trường xã hội, giáo dục
tương đối đồng nhất ở tuổi thiếu niên cũng có biểu
hiện. không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn, có em
có vẻ người lớn về mặt tri thức (coi sách báo tri thức là
mặt thiết yếu trong cuộc sống), còn những mặt khác lại
rất trẻ con. Có em lại chỉ biết biểu hiện tính người lớn
trong việc chạy theo các mốt nhưng lại trẻ con trong
đối xử v.v... Do đó sự phát triển nguyện vọng làm người
lớn phụ thuộc rất nhiều vào sự bổ sung uốn nắn của
giáo dục nói chung và của các bậc cha mẹ nói riêng.
3. Một đặc điểm đặc trưng khác ở tuổi thiếu
niên cũng có liên quan đến sự phát triển giới tính. Như
đã trình bày ở trên, tuổi thiếu niên là lứa tuổi của dậy
thì và phát dục. Sự dậy thì đã kích thích ở tuổi thiếu
niên mối quan tâm đến người khác giới, làm nảy sinh
những rung cảm, xúc cảm giới tính mới lạ. Quan hệ
với bạn khác giới ở tuổi thiếu niên không "hồn nhiên",
"vô tư" như các học sinh nhỏ. Ta dễ quan sát thấy hiện
tượng những em trai, em gái 13 - 15 tuổi xử sự một
cách thẹn thùng, kín đáo, tế nhị với nhau. Những biểu
hiện giới tính này được che giấu một cách bí mật,
nhưng cũng có lúc lại biểu lộ một cách ồn ào, suồng
sã, thiếu tự nhiên. Nhìn chung những rung cảm giới
tính ban đầu ở tuổi thiếu niên là trong sáng. Các em
chỉ mong thỏa mãn tâm trạng này bằng một mối thiện
cảm nho nhỏ, một lời nói dịu dàng, một cử chỉ quan
tâm, một nụ cười trìu mến... Tâm trạng này sẽ qua đi
nhanh chóng nếu thiếu niên được sống trong một môi
trường lành mạnh, người lớn biết hướng sự chú ý của
các em vào hoạt động học tập, lao động có ích, những
mối quan hệ bạn bè vô tư, trong sáng. Sở dĩ một số
thiếu niên lao vào con đường yêu đương quá sớm
chính vì trong một hoàn cảnh cụ thể các em đã không
làm chủ được bản thân, bị lôi kéo, bị kích thích bởi
những văn hóa phẩm thiếu lành mạnh hoặc do những
hậu quả giáo dục không tốt của người lớn.
Các công trình nghiên cứu của nhiều nhà tâm
lý học, giáo dục học cho thấy những rung cảm giới tính
ở tuổi thiếu niên không phải có ở tất cả thiếu niên.
Điều này bác bỏ luận điểm về "tính chế ước sinh vật"
đối với toàn bộ đặc điểm chuyên biệt ở tuổi thiếu niên
mà St.Holl và S.Phrued đưa ra. Những người theo
thuyết này cho rằng sự phát triển về mặt sinh vật, giải
phẫu sinh lý ở tuổi thiếu niên chi phối toàn bộ đặc
điểm tâm lý của giai đoạn này. Bởi vậy sự "khủng
hoảng", "tính bất trị" ở tuổi thiếu niên là tất yếu.
Sự thực những công trình nghiên cứu về dân
tộc học ở tuổi thiếu niên đã rút ra những kết luận khác
với quan điểm tính "chế ước sinh vật" của S. Phreud
trong con người cái tự nhiên không thể đối lập với cái
xã hội, vì cái tự nhiên ở con người bao giờ cũng có tính
xã hội. Tuổi thiếu niên là thời kỳ đứa trẻ đang trên con
đường đi đến vị trí của nó trong xã hội, đang thâm
nhập vào đời sống xã hội của người lớn. Bởi vậy
những yếu tố sinh vật còn có tính chế ước xã hội rất rõ
rệt.
L.X.Vưgôtxki khi nói về khủng hoảng của tuổi
thiếu niên đã nhấn mạnh rằng, phải tách ra những cấu
thành mới, cơ bản trong ý thức của tuổi thiếu niên và
giải thích rõ hoàn cảnh xã hội của sự phát triển, mà
trong đó mỗi lứa tuổi, hoàn cảnh này là một hệ thống
có một không hai của những quan hệ giữa đứa trẻ với
môi trường. Chính sự cải tổ hệ thống những quan hệ
này là nội dung chủ yếu của "khủng hoảng" tuổi thiếu
niên. Do đó không phải tính "chế ước sinh vật" mà là
những hoàn cảnh xã hội cụ thể của đời sống và sự
phát triển của thiếu niên, vị trí xã hội của thiếu niên
trong thế giới người lớn quyết định và lý giải sự "khủng
hoảng" đó.
4. Ngoài sự phát dục, ở thiếu niên còn có
những thay đổi căn bản về hình thái và giải phẫu sinh
lý khác, có ảnh hưởng, thậm chí gây ra sự mất căn
bằng, gây những khó khăn tạm thời trong cuộc sống
và hoạt động của các em.
Về mặt hình thái, trẻ em ở tuổi thiếu niên phát
triển mạnh về chiều cao, người ta thường gọi là "sự
nhảy vọt về tầm vóc". Cuối tuổi thiếu niên tỉ lệ cơ thể
xấp xỉ tỉ lệ đặc trưng của người lớn. Tuy nhiên sự phát
triển cơ bắp không theo kịp với chiều cao nên đầu và
giữa tuổi thiếu niên ta thấy có sự mất cân đối về chiều
cao và chiều ngang của cơ thể.
Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu,
điều đó gây ra sự mất cân bằng và thường là nguyên
nhân gây ra các rối loạn chức năng trong hoạt động
của hệ tim mạch, biểu hiện dưới dạng: tim đập nhanh,
huyết áp cao, thường chóng mặt, nhức đầu, sức làm
việc giảm. Tuyến nội tiết hoạt động mạnh (đặc biệt là
tuyến giáp trạng và tuyến sinh dục), gây sự mất cân
bằng của hệ thần kinh trung ương, dễ gây nên những
cơn xúc động mạnh, gây những phản ứng nóng nảy vô
cớ, những hành vi bất thường. ở tuổi thiếu niên, các
quá trình thần kinh hưng phấn của vỏ não mạnh và
chiếm ưu thế, nên nhiều khi thiếu niên không làm chủ
được bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh.
Sự cải tổ của các cơ quan nội tiết với mối tương quan
của hệ thần kinh thường là cơ sở gây ra tính mất cân
bằng chung, tính dễ bị kích thích, dễ nổi nóng, gây gổ,
tính hiếu động, tính uể oải và thờ ơ có chu kỳ ở tuổi
thiếu niên.
Tất cả những điều trên đây gây ra sự mất cân
bằng tạm thời và một số khó khăn trong hoạt động của
tuổi thiếu niên. Ví dụ các em làm việc rất hăng say,
nhiệt tình nhưng sức làm việc chưa bền, chưa dẻo dai.
Thiếu niên cũng thường dễ bị kích thích, bị lôi kéo nên
có thể sa vào các "nhóm tự phát", các "băng đảng" có
những hoạt động không lành mạnh, thậm chí vi phạm
pháp luật vì những hành vi thiếu suy nghĩ. Người ta
cũng quan sát thấy ở tuổi thiếu niên thường xuất hiện
những "nỗi buồn vơ vẩn", những sự trễ nải, thờ ơ có
tính chu kỳ (nhất là ở em gái). Điều này do những yếu
tố của tuổi dậy thì chi phối. Vào những lúc như vậy,
cách xử sự thiếu khéo léo thiếu phù hợp của người
lớn có thể gây tổn thương về mặt tâm lý, gây những
"cơn sốc" (Stress) dễ dẫn trẻ đến chỗ tuyệt vọng và
hành động thiếu suy nghĩ ở tuổi thiếu niên.
Những khó khăn tạm thời này sẽ qua đi cùng
với sự trưởng thành của thiếu niên, cùng với sự cư xử
đúng đắn (có tính đến các đặc điểm lứa tuổi) của
người lớn, của xã hội. ở giai đoạn này, mâu thuẫn
thường thấy là mối quan hệ qua lại giữa người lớn và
thiếu niên. Nếu người lớn vẫn tiếp tục quan hệ với
thiếu niên như một đứa trẻ thì thiếu niên sẽ chuyển
sang kiểu quan hệ đối lập lại dưới dạng những bướng
bỉnh và chống đối khác nhau.
Sự tồn tại những xu thế đối lập dễ dẫn đến
những va chạm, xung khắc giữa thiếu niên và người
lớn. Sự xung đột có thể kéo dài cho đến khi nào người
lớn thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về thiếu niên. Do
đó dễ đưa thiếu niên đến chỗ xa lánh người lớn, phủ
định người lớn, vì nó tin rằng người lớn không thể hiểu
được nó. Để khắc phục tình trạng này, người lớn phải
tạo điều kiện cho thiếu niên chiếm một vị trí bên cạnh
mình, tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn lên làm người
lớn của chúng. Từ đó có quan hệ bạn bè, bình đẳng,
hợp tác với tư cách là người đi trước có kinh nghiệm
hơn, hướng dẫn chúng. Nhờ đó dần dần người lớn đặt
thiếu niên vào vị trí mới. Vị trí của người giúp việc,
người cộng tác trong những hoạt động khác nhau.
Còn chính người lớn thì trở thành người bạn mẫu mực
của thiếu niên. Chỉ có cách đặt vấn đề và giải quyết vấn
đề như vậy mới tạo ra một quan hệ tự nhiên, hợp qui
luật ở lứa tuổi này. Nhờ đó, những mâu thuẫn, những
khó khăn về lứa tuổi được giải quyết. Những mất cân
bằng về sinh lý, tâm lý của thiếu niên dần dần qua đi,
các em sẽ được phát triển bình thường và lành mạnh.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TUỔI
THIẾU NIÊN
1. Những đặc điểm của hoạt động học tập ở thiếu
niên
Ở thiếu niên, hoạt động học tập (HĐHT) vẫn
chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển tâm lý, nhân
cách, tuy hoạt động này đã mang những sắc thái mới
và có sự phân hóa đáng kể. Đối với nhiều em, sự hấp
dẫn của nhà trường tăng lên do khả năng giao tiếp
rộng rãi với các bạn cùng tuổi, nhưng cũng chính vì vậy
mà bản thân việc học bị tổn thương: không ít thiếu niên
sao lãng việc học tập, chuẩn bị bài học, làm bài thiếu
chu đáo. ở tuổi thiếu niên quan hệ và giao tiếp với bạn
bè, với người lớn có ý nghĩa đặc biệt. Giờ học đối với
các em không chỉ đơn thuần là học tập, mà còn là một
tình huống giao tiếp với bạn bè, với giáo viên, một tình
huống có vô số những cử chỉ, những đánh giá và
những rung cảm có ý nghĩa. Sự phong phú và mở
rộng cuộc sống, những mối liên hệ với thế giới xung
quanh, với mọi người làm giảm bớt sự say mê đối với
II. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT
TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA THIẾU NIÊN
học tập ở nhà trường. Những công trình nghiên cứu
tâm lý ở lứa tuổi này cho thấy có sự phân hóa và khác
biệt nhiều mặt ở học sinh. Ví dụ:
- Về thái độ đối với học tập có biểu hiện từ chỗ
rất có trách nhiệm đối với học tập dẫn đến thái độ thờ
ơ, vô trách nhiệm. - Về phát triển chung có những học
sinh phát triển ở mức độ cao và có sự am hiểu nhiều
mặt vượt hẳn lứa tuổi trong nhiều lĩnh vực, trái lại có
một số em có hiểu biết rất hạn chế.
- Về phương thức lĩnh hội tài liệu phân hóa từ
mức có kỹ năng làm việc độc lập, và thông hiểu tài liệu
đến chỗ hoàn toàn không có kỹ năng làm việc kết hợp
với thói quen học thuộc từng câu, từng chữ.
Nội dung khái niệm "học tập" ở tuổi thiếu niên
mở rộng hơn ở tuổi học sinh nhỏ. Trong lứa tuổi này
việc tiếp thu kiến thức nhiều khi đã vượt ra khỏi giới
hạn của nhà trường, ngoài chương trình học, mang
tính độc lập và có mục đích hơn. ở khá nhiều thiếu
niên đã biểu lộ xu hướng ổn định với hoạt động trí tuệ
và khát vọng muốn nắm vững tri thức và kỹ năng mới,
có hứng thú bền vững với những môn học nhất định
liên quan với một ngành khoa học, kỹ thuật tương ứng.
ở nhóm học sinh khác có năng lực hoạt động trí tuệ,
chín chắn, nhanh trí, say mê hoạt động nhận thức đối
với loại hoạt động có sản phẩm cụ thể, nhưng kết quả
về học tập lại không tốt. Trong trường hợp này những
phẩm chất nhân cách có giá trị được hình thành không
phải trong khi lĩnh hội tri thức ở nhà trường mà nằm
trong hoạt động độc lập với nội dung vượt ra ngoài giới
hạn chương trình học.
Trong lứa tuổi thiếu niên xuất hiện động cơ
hoạt động học tập mới có liên quan đến sự hình thành
viễn cảnh của cuộc sống, dự định nghề nghiệp tương
lai. Sự chưa hài lòng với bản thân, những kỳ vọng,
những hoài bão mà thiếu niên suy nghĩ là nguồn tạo
ra tính tích cực nhận thức. Trong những việc làm độc
lập của thiếu niên xuất hiện những nhiệm vụ gần và xa,
chúng tổ chức và điều chỉnh hoạt động cụ thể của
thiếu niên. Học tập mang ý nghĩa cá nhân biến thành
sự tự học, đây là một kiểu hoạt động học tập cao, mới
về chất ở lứa tuổi này.
Mặt khác hoạt động học tập ở trường của tuổi
thiếu niên có thể biến thành hình thức khi thiếu niên có
hứng thú mạnh mẽ không phải với học tập hay nhận
thức, nghĩa là khi thiếu niên không coi việc lĩnh hội tri
thức giữ vị trí quan trọng so với các giá trị khác đang
hình thành ở chúng. Chẳng hạn có học sinh coi vị trí
đứng đầu một nhóm nào đó là giá trị cao nhất. Có
những học sinh khác lại cố gắng để được các bạn yêu
mến, là trung tâm chú ý của mọi người... ở những học
sinh này thường có những biểu hiện thiếu sót trong
hành động học lập mà điển hình nhất là khi vào học
trong các trường THCS, kết quả học tập sút hẳn so với
bậc học tiểu học. Nguyên nhân của tình trạng này có
thể do thái độ sai sót đối với học tập, do phương thức
lĩnh hội tài liệu không đúng hoặc do các nguyên nhân
khác. Điều quan trọng là nếu không loại trừ chúng
đúng lúc có thể dẫn đến hậu quả không thể khắc phục
được khi tài liệu học tập ngày càng phức tạp hơn.
Những thiếu niên này, sẽ ngày càng bị hổng về kiến
thức, học tập sút kém, mất hứng thú về học tập, đi đến
chán học, bỏ học.
Cách thức dạy và học ở trường THCS khác
căn bản với trường tiểu học. Thay cho một giáo viên
dạy tất cả các môn học, giờ đây là 5, 6 giáo viên mới.
Mỗi giáo viên dạy một môn học với phong cách, trình
độ tri thức, cách giao tiếp riêng của mình. Không phải
tất cả các học sinh đều thích nghi ngay lập tức với hình
thức dạy học mới này, nhất là với học sinh yếu kém.
Quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh không còn
như tiểu học mà thường là hời hợt, xa cách hơn.
Khi cùng một lúc xuất hiện nhiều giáo viên
khác nhau về trình độ nghề nghiệp, đặc điểm nhân
cách, hành vi và cách giao tiếp... đã tạo ra ở học sinh
sự so sánh và đánh giá các giáo viên theo những
thông số khác nhau. Tình hình này xuất hiện ở học
sinh: thứ nhất, sự phân hóa đối với các giáo viên thành
"những giáo viên được yêu mến" và "những giáo viên
không được yêu mến"; thứ hai, phát triển ở học sinh
năng lực nhận thức, đánh giá người khác; thứ ba, sự
phân hóa trong hứng thú học tập, hứng thú nhận thức
của học sinh. Thiếu niên thường đánh giá cao những
giáo viên có hiểu biết và nghiêm khắc nhưng công
bằng, tốt bụng và tế nhị. Những giáo viên này thường
biết giải thích tài liệu hay, dễ hiểu, biết tổ chức công
việc trong giờ học sao cho thu hút được mọi học sinh
vào việc học, nhằm đạt được hiệu quả cao ở mỗi học
sinh.
Sự đánh giá đối với giáo viên bộ môn nhiều
khi là yếu tố quan trọng đối với hứng thú học tập của
học sinh. Không ít học sinh vì yêu mến môn học nào
đó vì thầy, cô dạy hay, hấp dẫn. Cách dạy học được
phân hóa theo từng môn cũng là cơ sở để học sinh
tách ra thành môn "hay" và "không hay", thành những
tiết học "cần thiết" và "không cần thiết", thành những tri
thức "cần" và "không cần". Việc phân hóa như vậy đối
với học tập thường được quyết định bởi chất lượng dạy
học, bởi hứng thú học tập và kết quả học tập của thiếu
niên.
Tóm lại, hoạt động học tập ở tuổi thiếu niên
mang những sắc thái mới, có sự phân hóa sâu sắc
hơn, điển hình hơn. Đây chính là một trong những điều
kiện tạo ra những đặc điểm tâm lý, những phương
thức hoạt động trí tuệ khác về chất so với lứa tuổi trước
đó.
2. Sự phát triển nhận thức, trí tuệ của thiếu niên
Việc học tập ở các lớp THCS đòi hỏi học sinh
phải nghiên cứu và lĩnh hội các môn học khác nhau.
Các em phải nắm vững một khối lượng tri thức lớn. Tài
liệu lĩnh hội một mặt đòi hỏi hoạt động nhận thức và tư
duy cao hơn, mặt khác đòi hỏi trẻ phải nắm được
phương thức hành động đối với từng môn khoa học. Ví
dụ, hệ thống công thức, kí hiệu trong toán học, vật lý
học, ngôn ngữ học... Về mặt khách quan, những môn
học mới đề ra những yêu cầu mới, phương thức lĩnh
hội mới, nhằm phát triển trí tuệ ở trình độ cao hơn. Đó
là tư duy lý luận, tư duy phân tích, tư duy hình thức.
Loại tư duy này bắt đầu phát triển từ lúc 11, 12 tuổi và
được hoàn thiện vào lúc 17, 18 tuổi. Piaget gọi đây là
giai đoạn của trí tuệ thao tác hình thức. Kiểu tư duy này
có đặc điểm: dựa vào những đặc điểm có tính chất
tượng trưng, dựa vào một hệ thống kí hiệu qui ước
như ngôn ngữ, các kí hiệu toán học, vật lý học... để suy
luận, phân tích rút ra những kết luận. ở thiếu niên xuất
hiện khả năng suy luận một cách có giả thuyết, dựa
trên những tiền đề chung. ở trình độ trí tuệ này đòi hỏi
cách lập luận, kết luận đều diễn tả bằng lời, thoát khỏi
mối liên hệ trực tiếp với vật thật hoặc mô hình thay thế.
Khác với trẻ nhỏ, thiếu niên bắt đầu phân tích
nhiệm vụ trí tuệ đặt ra cho nó với ý đồ vạch ra các mối
quan hệ có thể có trong các dữ kiện đã cho, tạo ra
những giả định khác nhau về những liên hệ của chúng
và sau đó kiểm tra những giả thiết này. Đó là kỹ năng
biết sử dụng những giả thiết để giải quyết các nhiệm
vụ trí tuệ. Nhờ đó các khái niệm được hình thành trong
giai đoạn này là các khái niệm khoa học, khái niệm lý
luận đạt tới trình độ lý tính.
Nét đặc trưng của trình độ tư duy này là học
sinh ý- thức được các thao tác trí tuệ của bản thân
mình và điều khiển được chúng. Quá trình này cũng trở
thành đặc trưng cho cả những chức năng lâm lý khác.
Ngôn ngữ được kiểm tra và điều khiển sao cho những
lời viết ra, nói ra cho đúng, cho hay, cho đẹp.
Những tri thức mang tính khái niệm, tính khái
quát, tính lôgíc của tài liệu học tập thuộc các bộ môn
đòi hỏi ở thiếu niên tính tích cực trí tuệ cao, đòi hỏi sự
tập trung chú ý có chủ định, đòi hỏi sự ghi nhớ có ý
nghĩa. Do đó cùng với sự phát triển trí tuệ ở tuổi thiếu
niên, các phẩm chất khác của quá trình nhận thức như
tri giác, tưởng tượng, tư duy cũng phát triển mạnh mẽ.
Chẳng hạn muốn lĩnh hội một định lý của hình học,
học sinh phải có kỹ năng nhìn hình vẽ, đọc hình vẽ, ghi
nhớ và biết tái tạo nó, mặt khác phải rút ra những mối
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Ví dụ, mối
liên hệ giữa cát tuyến và hai đường song song. Những
đòi hỏi như vậy làm cho chú ý, tri giác, tưởng tượng
của học sinh đượm màu sắc tư duy. Nói cách khác,
thiếu niên phải luôn luôn ở tâm thế suy nghĩ trong quá
trình lĩnh hội tri thức.
Khi vào học ở các lớp THCS, các môn học
được tách thành 2 nhóm cơ bản: khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Nhìn chung, lúc đầu nhiều học sinh
gặp khó khăn trong việc lĩnh hội các môn thuộc khoa
học tự nhiên (toán, lý, hóa...) hơn khoa học xã hội (văn,
sử, địa..), lý do là học sinh chưa biết biến đổi những
dữ kiện của một bài toán, chưa "nhìn" ra các mối liên
hệ của các định luật, định lý, qui tắc. Nếu giáo viên
không dựa trên những kinh nghiệm, tri thức đã có của
học sinh để hướng dẫn, tổ chức việc dạy học nhằm
hình thành tư duy trừu tượng, khái quát thì những học
sinh này thường học kém. Lối học vẹt một cách hình
thức là kẻ thù tai hại của các khoa học tự nhiên.
Việc lĩnh hội những tri thức của các môn khoa
học xã hội thường ít gặp khó khăn hơn. Nhưng tình
trạng trung bình chủ nghĩa của các bộ môn này thường
rất phổ biến. Học sinh có xu hướng ghi nhớ tài liệu học
tập khi chưa hiểu đầy đủ theo kiểu học thuộc lòng
bằng cách lặp đi lặp lại bài học nhiều lần. Điều này
đem lại kết quả xấu cho sự phát triển trí tuệ: thiếu niên
không hình thành được sự phát triển trí nhớ theo
hướng trí tuệ hóa, các thao tác tư duy hình thức (tư duy
lôgic) rất non kém, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình
học tập các môn này.
Sự phát triển về nhận thức và trí tuệ của thiếu
niên không đồng đều ở tất cả các em cùng học chung
một chươmg trình. Sự phân hóa này ở tuổi thiếu niên
mạnh hơn ở học sinh nhỏ. Điều này có nhiều nguyên
nhân nhưng chủ yếu do lính chất của hoạt động học
tập ở các lớp trung học phức tạp một cách đáng kể, do
những sai sót của phương pháp học tập và phương
thức dạy học. Nếu ở các lớp tiểu học, một vài thiếu sót
nào đó còn cản trở các em học tốt thì lên cấp 2, thiếu
sót này từ chỗ bị dấu kín nay chuyển thành rõ rệt, biến
thành những trở ngại nghiêm trọng trong việc lĩnh hội
có chất lượng những tri thức khoa học. Ví dụ, một vài lỗ
hổng ở kiến thức ngữ văn của học sinh nhỏ có thể
chưa bộc lộ rõ do cách học cỏn mang tính tổng hợp,
nhưng lên lớp trên thì do tính chất phân môn, những lỗ
hổng ngày càng rộng và bộc lộ rõ rệt. Điều này làm cho
học sinh học kém hẳn so với trước.
Nếu không kịp thời loại trừ và khắc phục thì
những học sinh này cứ đuối dần và đi đến chỗ không
thể bổ cứu được. Sự phát triển trí tuệ của học sinh do
đó bị ảnh hưởng, sự khác biệt trí tuệ trong cùng độ tuổi
ngày càng tăng. Điều này lý giải tại sao cùng là thiếu
niên nhưng có những học sinh có một tầm hiểu biết
khá sâu rộng với nhiều tri thức tự nhiên, xã hội khác
nhau, có một trình độ trí tuệ khái quát mang tính lý luận
và lôgíc. Trái lại có những em rất hạn chế về hiểu biết
và không có những thao tác trí tuệ tối thiểu cần thiết để
giải quyết những nhiệm vụ học tập bình thường nhất.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, trong sự phát
triển vũ bão của thông tin, khoa học kỹ thuật, sự khác
biệt này đang có xu thế tăng rõ rệt.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TUỔI
THIẾU NIÊN
1. Những đặc điểm tình cảm - ý chí của tuổi thiếu
niên
Các yếu tố cơ bản chi phối đời sống xúc cảm,
tình tình cảm của thiếu niên.
Thứ nhất là sự cải tổ về mặt sinh lý giải phẫu
dẫn đến sự phát dục (dậy thì).
Thứ hai là hoạt động giao tiếp với bạn bè
cùng tuổi với sự mở rộng của phạm vi hoạt động xã
hội trong môi trường mới.
Thứ ba là xu hướng vươn lên làm người lớn.
Sự phát triển của tuổi dậy thì làm cho quan hệ
giữa các em trai, em gái thay đổi một cách căn bản.
Xuất hiện sự quan tâm đến nhau, có nguyện vọng
được bạn khác giới ưa thích. Do đó thiếu niên thường
quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình, quan tâm tới
những yếu tố gây sự hấp dẫn. Trong sự phát triển về
III. LĨNH VỰC XÚC CẢM - Ý CHÍ VÀ ĐẶC
ĐIỂM NHÂN CÁCH CỦA TUỔI THIẾU NIÊN
thể chất và phát dục, các em gái sớm hơn các em trai
1 - 2 năm nên ở giai đoạn đầu một số em gái cao hơn
đầy đặn hơn các em trai. Thân hình thấp lúc 12 - 13
tuổi thường gây ra ở em trai những cảm giác khó chịu,
đó là cảm giác thua kém bạn bè. Ngược lại, những
rung cảm tương tự cũng xảy ra ở các em gái có chiều
cao, thân hình vượt hẳn so với các bạn cùng tuổi.
Lúc đầu sự quan tâm tới người khác giới của
nhiều em nam có xu hướng tràn lan và được biểu hiện
dưới dạng hay "gây sự" với các em gái. Về sau những
quan hệ này thay đổi: mất tính trực tiếp, xuất hiện tính
ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn. ở một số em điều
đó bộc lộ rõ và trực tiếp, một số em khác được che
dấu bằng thái độ thờ ơ, giả tạo, "khinh khỉnh" đối với
giới khác. Hành vi của những xúc cảm, tình cảm với
bạn khác giới có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_phat_trien.pdf